Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2022

Bi Kịch Văn Hóa Tại Miền Nam Sau 30/04/1975 - Phan Công Danh


Sau 30/4/1975, tà quyền cộng sản tìm mọi cách để tiêu hủy nền Văn Học Miền Nam Việt Nam Sau 30/4/1975, nhiều người miền Bắc vào miền Nam và nhận ra mình đã bị lừa, nhận ra sự dối trá của đảng và nhà nước cộng sản khi tận mắt chứng kiến sự phồn thịnh, sung túc, tự do, thoải mái, văn minh tiến bộ hơn hẳn của Sài Gòn và miền Nam. Nhưng đó chỉ mới là khía cạnh kinh tế và sự tự do dân chủ. Còn những cái mất mát đáng tiếc nữa, nói lên sự ngu xuẩn, tội ác của nhà cầm quyền và sự éo le của lịch sử khi một chế độ lạc hậu, dốt nát, tàn bạo, dối trá, man rợ hơn lại thắng một chế độ nhân bản, tự do và văn minh hơn.
<!>
Đó là sự mất mát của cả một nền văn học nghệ thuật tự do, đầy sáng tạo, đầy tính nhân văn, một nền giáo dục “nhân bản, dân tộc và khai phóng” hay một xã hội đã xây dựng được tương đối một nền nếp đạo đức, quy củ, tôn trọng luật pháp…
Tịch thu, đốt phá các tác phẩm Văn Học Nghệ Thuật Miền Nam:
Riêng trong lĩnh vực Văn Học Nghệ Thuật, ngay sau tháng 4/1975, nhà cầm quyền đã ra lệnh tịch thu, đốt phá cho bằng hết những sản phẩm văn hóa mà chúng gọi là “đồi trụy” của miền Nam. Cùng với một số lượng lớn quân nhân công chức, trí thức của chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), nhiều văn nghệ sĩ miền Nam cũng bị bắt giam vào những trại tù lao động khổ sai.

Những người còn lại hầu hết buông bút, bị gạt ra ngoài lề xã hội, vất vả mưu sinh bằng những công việc khác, chả liên quan gì đến nghiệp văn, như ra chợ trời bán thuốc lá, bán đồ cũ, thậm chí làm ruộng, chăn dê (như nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ chẳng hạn). Rồi nhiều người trong số họ lần lượt phải từ bỏ đất nước ra đi tìm tự do vì không chịu nổi đời sống tinh thần, chính trị, sáng tác bức bối, kỳ thị ở Việt Nam (VN).
Nhiều năm sau đó, có lẽ chỉ có âm nhạc miền Nam là vẫn hiện diện thường xuyên trong đời sống tinh thần của người Việt trong và ngoài nước. Dù một số lượng tác phẩm và nghệ sĩ vẫn bị cấm biểu diễn, cấm phổ biến ở VN nhưng với những ai yêu âm nhạc miền Nam thì người ta vẫn có thể tìm nghe đủ hết, qua các đài truyền thông khác nhau.

Nhiều ca sĩ, nhạc sĩ trong nước ra bên ngoài biểu diễn và nhiều ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại trở về nước hát, làm việc, ngay cả những người từng lớn tiếng chống cộng hay tuyên bố không bao giờ trở về khi chế độ cộng sản còn tồn tại…
Nhưng văn chương thì khó hơn nhiều. (Và điện ảnh chẳng hạn, tất nhiên càng không có cơ hội). Hơn 40 năm, một nền văn chương miền Nam dưới chế độ VNCH cực kỳ phong phú, đa dạng, tự do, sáng tạo, vẫn bị xem như chưa hề tồn tại.
Sự ngu xuẩn của nhà cầm quyền là ở chỗ trong khi Trung Cộng đã và vẫn đang, sẽ là kẻ thù lâu dài của dân tộc VN, là mối đe dọa lớn nhất đối với chủ quyền, độc lập toàn vẹn lãnh thổ, thì nhà cầm quyền lại tiếp sức, tuyên truyền không công cho văn hóa của bọn chúng.

Sách, tiểu thuyết Trung Quốc được in đầy rẫy trong các nhà sách lớn nhỏ từ Nam ra Bắc, kể cả những loại ngôn tình nhảm nhí vô bổ cho tới những quyển sách ca ngợi bọn đồ tể ngoại bang như Mao Trạch Đông, ca ngợi Đặng Tiểu Bình - kẻ đã ra lệnh phát động cuộc chiến 1979 để “dạy cho VN một bài học”; phim truyền hình Trung Quốc chiếu tràn lan dày đặc trên các đài từ trung ương đến địa phương.
Tội ác của nhà cầm quyền là ở chỗ đã bức hại hàng trăm, hàng ngàn văn nghệ sĩ miền Nam sau 1975 trong chốn lao tù khổ sai, phải lăn lộn với những công việc lao động vất vả để mưu sinh, khiến tài năng họ mỏi mòn, thui chột, cho dù khi phải sống thầm lặng trên quê hương hay khi phải lang bạt tha hương trên xứ người.
Nếu không có biến cố tháng 4/1975?

Đôi khi tôi cứ nghĩ, nếu không có biến cố tháng 4/1975 thì văn học dịch thuật, khảo cứu ở miền Nam còn phát triển nhiều hơn nữa.
Những nhà thơ như Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Thiên Thư, Bùi Giáng, Trần Dạ Từ, Cung Trầm Tưởng, Trần Tuấn Kiệt, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn), Du Tử Lê….; những nhà văn như Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Trần Thị NgH, Nguyễn Thị Hoàng, Mai Thảo, Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Phan Nhật Nam, Cung Tích Biền, Hoàng Ngọc Biên…; hay mảng nghiên cứu, phê bình, dịch thuật, triết học, Phật Giáo và Công Giáo với những cây bút như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Nhất Hạnh, Võ Hồng, Hoài Khanh, Phạm Công Thiện, các giáo sư và linh mục Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Cao Văn Luận, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Sỹ Quý, Nguyễn Khắc Xuyên, Kim Định…sẽ còn tiếp tục cho ra đời bao nhiêu tác phẩm, công trình khác nữa?
Và chắc chắn với bầu không khí tự do, yêu chuộng văn chương học thuật của miền Nam sẽ còn có rất nhiều gương mặt mới, thế hệ mới xuất hiện, nhiều nhà sách, tạp chí, nhiều nhóm văn nghệ, tư tưởng ra đời như đã có nhóm Bách Khoa, Nhân Loại, Nhận Thức (Huế), Tinh -Việt văn - đoàn, Sống Đạo, Phương Đông, Đối Diện, Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, Gió Mới, Nghệ Thuật…

Các tạp chí chuyên về tư tưởng, triết học như Tư Tưởng, Vạn Hạnh, Giữ Thơm Quê Mẹ, các nhà xuất bản Lá Bối, An Tiêm, Ca Dao..., và vô số những tờ báo, tạp chí văn học nghệ thuật như Sáng Tạo, Quan Điểm, Văn Hóa Ngày Nay, Nhân Loại, Văn Đàn, Bách Khoa, Văn Học, Văn, Nghệ Thuật, Tiếng Nói… không thể kể hết.
Gia tài văn học nghệ thuật của VN vốn đã mỏng, đã ít ỏi, lại còn bị triệt hạ, thủ tiêu một cách đê hèn và tàn nhẫn bởi lòng dạ tiểu nhân của bọn giặc cướp xâm lược từ phương bắc.
Như nhà văn Dương Nghiễm Mậu, một nhà văn lớn của miền Nam đã qua đời tối ngày 2/8/2016 tại Sài Gòn, nếu không có biến cố 30/4/1975 chắc chắn số lượng tác phẩm và sức sáng tạo của ông đã không dừng ở đó. Sau khi bị bọn cộng sản VN bắt đi tù lao động khổ sai về, ông sống lặng lẽ bằng công việc vẽ tranh sơn mài cho đến khi nằm xuống vĩnh viễn.
Vậy mà năm 2007, khi công ty Phương Nam và NXB Văn Nghệ tái bản bốn tập truyện của ông gồm: Nhan sắc, Đôi mắt trên trời, Tiếng sáo người em út, Cũng đành, ông vẫn bị “đấu tố” tưng bừng, bởi những tên văn nô viết thuê, tiểu nhân, nhỏ nhen, ghen tị, và nhân cách và tài năng của chúng thì dĩ nhiên là quá nhỏ bé và tầm thường so với ông.

Tính từ thế kỷ XX cho đến nay, lịch sử VN có quá nhiều biến cố bị che dấu, bị bóp méo, bị xuyên tạc, thậm chí bị xóa trắng, mà các nhà văn nhà thơ, nhà nghiên cứu cần tiếp tục viết nhiều, nhiều hơn nữa để cho các thế hệ sau và thế giới hiểu được sự thật, hiểu được những năm tháng sai lầm, ngang trái, bi kịch trên đất nước này.
Chỉ hy vọng rằng trong số những nhà văn còn lại của miền Nam phải im lặng sống tại quê nhà bao nhiêu năm hay phải tha hương trên đất khách vẫn giữ trong tim ngọn lửa văn chương chữ nghĩa, âm thầm viết để rồi một ngày nào đó chúng ta sẽ được đọc những tác phẩm của họ. Và những nhà văn thuộc thế hệ hôm nay, sinh ra, lớn lên sau chiến tranh, trong và ngoài nước, nhưng canh cánh một tấm lòng đối với nước mẹ VN, cũng vậy.
Bởi đó là món nợ của văn nghệ sĩ trí thức đích thực đối với lịch sử và với đất nước.
Di Sản Văn Học Miền Nam trước 1975:
Trong những năm sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam năm 1975, bọn CSVN, vốn bản chất hèn hạ và tiểu nhân, đã láo xược và vội vã ra chỉ thị "Phải nhổ tận gốc rễ những nọc độc về tư tưởng văn hóa thực dân mới mà đế quốc Mỹ đã gieo trồng ở miền Nam Việt Nam. Đó là thứ văn hóa, nô dịch, lai căng, đồi trụy cực kỳ phản động cùng các hủ tục, mê tín, dị đoan lan tràn".

Do đó, xảy ra cuộc săn lùng, tịch thu, và đốt sách. Kết quả của chính sách trả thù hèn hạ nhằm tiêu diệt nền Văn Học Miền Nam là (ước tính) có khoảng 180 triệu cuốn sách (copies) bị tịch thu và tiêu hủy. Có gia đình ở Sài Gòn phải đốt đến 5000 cuốn sách!
Thật ra, chính sách đốt sách thời đó chỉ là một sự lặp lại chính sách đốt sách ngoài Bắc sau 1954. Thời đó, ngoài Bắc người ta cũng có lệnh đốt những sách báo xuất bản trước 1954 dưới thời Pháp thuộc.
Như người ta nói “Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”, Văn học miền Nam thời trước 1975 có một thời thịnh hành, một thời tàn lụi, và nay thì lại được trân trọng.

Ngày nay, người ta vẫn có thể dễ dàng tìm thấy những tác phẩm kinh điển thời đó của những tác giả như Bùi Giáng, Nguyên Sa, Phạm Công Thiện, Đinh Hùng, Nguyễn Vỹ, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Thế Phong, Phạm Thiên Thư, Tuệ Sỹ, Hoàng Trúc Ly, Mường Mán, Hoàng Ngọc Tuấn, Lê Đình Điểu, và những nhà khảo cứu như Giản Chi, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Nhất Hạnh – Nguyễn Lang, Toan Ánh, Vương Hồng Sển, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Thanh Lãng, v.v. đã được tái bản.
Ngoài ra, chúng ta còn biết những ca khúc nổi tiếng của các nhạc sĩ như Duy Khánh, Phạm Duy, Nhật Ngân, Hoàng Thi Thơ, Thanh Sơn, Trúc Phương, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trần Thiện Thanh, Lam Phương, v.v. cũng vẫn thường xuyên được thưởng ngoạn khắp nơi.

Nhưng sự đốt sách như vừa kể thì di sản của nền văn học đó còn lại chẳng bao nhiêu. Nghĩ về cái thời mông muội (hay ngu muội?) đó mà buồn và giận, vì những kẻ chủ trương với bản chất tiểu nhân cố hữu đã làm một việc rất “Tần Thuỷ Hoàng”, và hết sức ti tiện, nhỏ mọn và thiển cận. Sự thiển cận và bản chất tiểu nhân hạ cấp của họ làm thiệt thòi kiến thức cho cho những thế hệ mai sau và làm chậm quá trình hội nhập quốc tế.

Thật là một sự trả thù hèn hạ và một sự phí phạm ghê gớm, một sự phí phạm đơn giản chỉ xuất phát từ sự ngu dốt, tiểu nhân, đê tiện, hẹp hòi và cuồng tín!

(Sài Gòn trong tôi/Posted by)
 
Phan Công Danh

Không có nhận xét nào: