Một trại “học tập cải tạo” sau 1975 ở Tây Ninh; Tháng Sáu 1976 (ảnh: Sovfoto/Universal Images Group via Getty Images) Ga Phủ Lý chiều 28 Tết, một đoàn người ăn mặc lếch thếch, áo quần vá chằng vá đụp, tay xách túi nhỏ đựng lon, hũ nhựa lỉnh ca lỉnh kỉnh từng cặp một, mang chung còng tay mỗi bên trái, phải. Bên kia đường, dân chúng hiếu kỳ với dáng vẻ e dè sợ sệt, đưa mắt nhìn tò mò về phía đám đông hơn hai trăm người đang ngồi duỗi chân dựa trên vạt đất thấp dọc theo dốc đường ray xe lửa. Mặt trời đỏ thẫm đang dần tắt sau dãy núi Ba Sao gồ ghề đen như mực. Chúng tôi đang chờ tàu xuôi Nam.
<!>
Lúc xếp hàng chuẩn bị lên xe tải để ra ga, một anh bạn chen tới gần nói nhỏ với tôi vì anh thuận tay trái nên muốn được còng tay phải với tôi. Ừ thì tôi thuận tay phải nên đồng ý ngay. Anh là sĩ quan trẻ, cấp bậc Thiếu tá, nguyên Tiểu đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh, đóng quân ở Định Tường. Tôi quen anh hồi mới chuyển về trại Hà Nam Ninh được mấy tháng, trước khi xếp thành tổ đội để chuẩn bị về Nam.
Trước đây, các trại cải tạo thường được phân chia ra làm hai loại dành riêng cho quân nhân và công chức ở những địa điểm khác nhau trong miền Nam cũng như sau nầy ra miền Thượng du Bắc Việt. Mãi cho đến khi Trung cộng tiến đánh các tỉnh sát biên giới phía Bắc, các trại cải tạo được di dời về một số tỉnh miền Trung du, mạn phía Tây Bắc Hà Nội và các thành phần cải tạo bấy giờ mới được sáp nhập lại với nhau và không còn phân biệt dân hay quân nữa. Từ đó các trại đa phần là quân nhân đủ mọi cấp bậc, trừ cấp Tướng và Đại tá được xếp ở riêng, còn tất cả đều được đưa vào các tổ đội lẫn lộn với thành phần dân sự.
Suốt gần năm năm trời bị giam giữ, từ trại cải tạo Long Thành, Đồng Nai cho đến khi ra tận ngoài Phú Sơn, Bắc Thái tôi luôn được xếp vào tổ đội thuộc thành phần dân sự chế độ cũ. Nay sinh hoạt chung với thành phần quân đội có rất nhiều điều khác biệt, vui vẻ và năng động hơn. Tính gan dạ và mưu trí của họ đã giúp “mưu sinh thoát hiểm” cho rất nhiều người đồng cảnh tù.
Trong suốt mấy ngày trên xe lửa tôi mới biết gia cảnh hiện nay của anh, vợ gởi quà thăm nuôi được mấy lần khi còn ở trại cải tạo trong Nam, rồi sau đó biệt tăm luôn cho đến khi ra miền Bắc, họa hoằn lắm anh mới nhận được một ít quà do mẹ anh gởi ra theo những người quen đi thăm nuôi chồng ở cùng trại. Nhà quê nghèo, còn nuôi thêm bốn đứa con nhỏ của anh nữa thì làm sao đủ sức mà đi thăm nuôi.
Anh lặng lẽ cam chịu thân phận người “tù mồ côi.” Dù khó khăn đến mấy cũng phải sống, anh rất giỏi cải thiện rau dại và thường khi còn mò bắt được nhiều con “rạm” (cua nhỏ to bằng ngón chân cái), đồng thời ngày nào anh cũng giấu được một ít củi khô, chẻ nhỏ quấn trong người, qua mặt được cán bộ gác cổng để đem vào trại. Người có gạo, bột ngọt hay tôm khô, anh có củi, rau, cua cá và công nấu nướng cùng nhau chia sẻ qua ngày.
Cho đến khi gia đình được phép thăm nuôi sau năm năm trời chịu đựng với đói rét và bệnh tật, tình hình cải tạo mới bắt đầu đỡ khổ. Nhờ thăm nuôi mà số người chết giảm dần. Dân chúng sinh sống quanh các trại cải tạo bắt đầu cảm thông và hiểu biết nhiều hơn về thành phần tù nhân chế độ cũ nên một số lén lút quan hệ với tù nhân để “mua bán đổi chác” đủ thứ, thông thường là cung cấp thực phẩm, thuốc men để đổi lấy quần áo, đồ dùng, dĩ nhiên là mấy tù nhân “đại lý” cũng phải biết điều với cán bộ.
Về phần anh em tổ đội trưởng, trừ một số ít bản tính ác tâm, không lương thiện, còn lại đa phần đều ra sức giúp đỡ nhau để cùng sống sót mà chờ ngày về. Tôi còn nhớ hồi ở trại Mễ (Nam Hà) có một anh Nhà trưởng nguyên là Trung tá Công binh, sau khi kiểm tra nhân số để báo cáo nhập buồng giam, cán bộ ra lệnh nhắc nhở anh kiểm soát nội qui, giữ gìn yên lặng, không được tụ tập ồn ào hay nấu nướng linh tinh. Anh gật đầu.
– Thưa vâng.
Nhưng khi cán bộ đóng cửa buồng giam và áng chừng đã đi xa, anh quay ra đầu nhà, hướng về phía anh em nói vừa đủ nghe:
– Tự do.
Thế là cả buồng mọi người cười che miệng, lục đục lên lò tự chế bằng lon Guigoz cắt đôi, đốt củi nhỏ, có khi đốt bằng nhựa ni-lông nấu cà phê, trà lá với nhau. Ra lao động hay ở buồng giam, cán bộ nói gì anh cũng nghe, bảo gì anh cũng xin vâng, đôi khi trước mặt cán bộ anh còn quơ tay nói lớn bảo anh em cố gắng làm cho xong, nhưng khi cán bộ đi rồi thì đâu cũng vào đấy, lao động cầm hơi. Cải tạo lâu dài mà. Ít lâu sau, khi tôi đã chuyển trại vào Nam, nghe anh em nói lại rằng anh đã chết ở trong trại giam nào đó ngoài miền Bắc.
Khi xe lửa từ ga Phủ Lý lần lượt qua khỏi ga Thanh Hóa… đến Đồng Hới, anh em vui mừng vô hạn vì biết chắc rằng mình đang trên đường xuôi về miền Nam thân yêu. Tới nhà ga Quảng Trị, Huế, anh em cầm tay nhau mà ứa nước mắt. Nhớ hồi di tản Tháng Ba năm 1975, càng đi xa vào trong Nam bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu. Mọi người chạy bán sống bán chết bằng đủ mọi phưong tiện để về tới Sài Gòn, nhưng than ôi… vận nước đã đến hồi mạt vận. Chỉ chạy thôi mà thua trắng tay. Giờ tâm trạng cũng giống y như vậy, mong được tới ga Bình Triệu, nhưng khi xe lửa vừa qua Tháp Chàm một đỗi thì dừng hẳn lại. Chúng tôi xuống ga Thuận Hải và được xe tải đưa về trại Z30 (Hàm Tân).
Trời nắng nóng, mồ hôi nhễ nhại, anh em muốn cởi bỏ những bộ quần áo chống rét ngoài miền Bắc mà không được… vì tay còn bị còng. Gió thổi thốc tung bụi mù. Bước xuống xe chao đảo mà ai nấy cũng cố gắng nhìn quanh, lòng vui mừng khôn tả. Sự sống tưởng chừng như đang được hồi sinh. Rừng xanh bạt ngàn, đất đai, hoa màu bát ngát…
Anh và tôi được xếp chung vào đội lao động nông nghiệp, làm rẫy trồng khoai, bắp. Về đến Hàm Tân ăn uống được cải thiện rất nhiều. Nhớ hôm sáng đầu tiên mới tới trại, trực cơm mang về một thau khoai mì tươi nấu chín, anh em rất đỗi ngạc nhiên vì suốt mấy năm ở ngoài Bắc, hai bữa ăn chính chỉ có khoai mì lát, phơi khô mốc xanh hoặc bo bo còn nguyên vỏ, chứ làm gì có cái khác mà ăn sáng. Đã thế, tương đối gần nhà, non một ngày đường nên gia đình đi thăm nuôi thường xuyên, mỗi tháng một lần và tù nhân được tiếp tế thực phẩm rất dồi dào. Tù nhân được đăng ký tiền mặt nên thứ gì cũng có, miễn là có tiền.
Lao động có kết quả, ngoài phần thu hoạch cho trại, mấy anh em giỏi và có sức được canh tác riêng trên những vạt đất ven đường ra rẫy trại để cải thiện như bầu, bí, mướp, cải xanh… Anh bạn thuận tay trái chung còng với tôi hôm về Nam nay đã trở thành “người hùng” ngang dọc, trồng trọt cải thiện tứ phía. Anh chọn vạt đất gần suối để tranh thủ tưới nước, chăm sóc vì sau khi hết giờ lao động, cán bộ thường hay cho xuống suối tắm trước khi về nhập trại. Lớp ăn, lớp chia hoặc đổi lấy thực phẩm khô, riêng tôi được anh đặc biệt biếu không.
Sinh hoạt hằng ngày anh ăn cơm chung với “Bố già”, Thiếu úy cảnh sát, nguyên Trưởng cuộc ở Quảng Ngãi, luôn tự xưng mình là già hơn hết. Mà già thiệt, năm ấy cũng đã gần sáu mươi. Cứ hết đợt nầy đến đợt khác có khi gồm cả sếp cũ. Đại úy cảnh sát trẻ về nhiều rồi mà “Bố già” Thiếu úy vẫn còn ở mãi. Cứ mỗi lần có đợt thả về là có khiếu nại, ban đầu còn viết đơn, riết rồi cũng chán bèn đâm ra than phiền với cán bộ quản giáo. Cuối cùng cũng có kết quả là được theo đội ra rẫy nhưng không lao động mà chỉ đun nước uống cho đội nên có thì giờ cải thiện, nấu nướng linh tinh.
Sinh hoạt trong buồng giam ở Hàm Tân tương đối thoải mái. Buồng giam lợp tôn thấp lè tè, lán gỗ ở trên, sạp dưới đúc xi măng, lối đi ở giữa nền đất, vách ván trống thưa. Số tù nhân giam giữ gồm hai hoặc ba đội hơn trăm người. Sau khi cán bộ đóng cửa, anh em tụ tập nhau thành từng nhóm, lập “bàn đèn” chiếu phim miệng, thường là tiểu thuyết của Kim Dung, Tiếu Ngạo Giang Hồ hay Cô Gái Đồ Long. Phim kiếm hiệp đôi lúc cũng bị ngưng, cắt đoạn khi máy chiếu phim được thăm nuôi bèn chuyển qua tin tức thời sự: Phục quốc đã về tới Cà Mau hay Tướng lãnh VNCH đã về tới Thái Lan.
Ngoài những rạp chiếu phim kiếm hiệp còn có những “bàn đèn” văn nghệ nho nhỏ, chỉ năm ba anh em đàn hát trong buồng giam. Nhớ hồi còn ở trại Nam Hà, cứ mỗi sáng Chủ nhật nghỉ lao động, anh em thường hay tụ tập ngoài sân, sau khi nấu nướng ăn uống xong là tụ tập đàn hát và các rạp chiếu phim ngoài trời bắt đầu, máy chiếu rải rác từng nhóm nhỏ, nhiều bộ phim rất hấp dẫn với đề tài là những câu chuyện thuộc “thâm cung bí sử” của VNCH do chính người có thẩm quyền trong cuộc kể lại.
“Bố già” không tham gia vào các “bàn đèn” chiếu phim hay văn nghệ bỏ túi vì đau lưng không thể ngồi lâu được, nhưng cung cấp đèn dầu tim nhỏ và thuốc lào với điều kiện là khi ra lao động, anh em phải thay phiên nhau ra suối gánh nước về cho Bố để nấu nước pha trà giảo cho toàn đội giải lao.
Anh bạn thuận tay trái cũng ít khi tham dự “bàn đèn” viện cớ là lao động vất vả, lớp nào cho đội, lớp nào lo cho mấy vạt đất cải thiện nên mệt phờ râu, ngủ sớm để ngày mai cày tiếp. Nhưng từ trong sâu thẳm anh em cũng đoán biết anh có cả một trời tâm sự buồn. Rất ít nói, khi xếp chỗ nằm, anh tình nguyện chọn trong góc khuất tối thui ở cuối buồng giam. Có hôm, khi các “bàn đèn” máy chiếu phim bị rè do cảm cúm, sổ mũi nên tắt sớm, về ngủ, anh em mới phát hiện ra là anh vẫn còn thao thức.
“Bố già” luôn đem niềm vui đến cho anh em, nhất là cánh trẻ có nhiều dịp đùa giỡn. Nhớ những buổi chiều ra suối tắm, mình trần như nhộng, quần đùi ướt đẫm, té nước về phía “Bố già.”
– Bố xem các con còn ngon lành không? Khi về bố chọn đứa nào?
– Tau gả hết rồi.
“Bố già” kể có đứa cháu gái kêu bằng Dượng, lỡ thời, chồng chết hồi Tết Mậu Thân, ở vậy nuôi con. Vừa nói Bố vừa ngóng lên vạt đất cải thiện trên bờ suối. Anh em cười vang hiểu ý Bố. Cán bộ ra lệnh còn năm phút nữa tập trung về trại. Anh bạn thuận tay trái, nãy giờ lo tưới nước đám rẫy ở trên bờ mới lật đật xuống suối tắm giặt. Anh luôn là người vội vã sau cùng nên có nghe được gì đâu.
– Bố định làm mai cho anh đấy.
Anh cười cho vui với anh em thôi, chứ vợ con gì nữa, vết thương lòng còn chưa nguôi.
Khi chuyển trại về Nam, anh em ai cũng tràn đầy hy vọng là sắp được thả vì theo kiểu gối đầu, trước khi có tù nhân từ miền Bắc chuyển vào thì trại đã có các đợt thả đại trà hằng trăm người, đông đến độ sau khi thả tù rồi, nhiều buồng giam còn lại trống trơn, nhất là khu trại C và D dã chiến ở vòng ngoài, chỉ rào bằng dây thép gai, không có tường xây chung quanh. Thật ra, khi đã bị giam giữ nhiều năm, hơn bảy, tám năm rồi còn gì, mà lại không biết thời gian thụ án là bao nhiêu nên anh em cũng không còn nôn nóng như trước nữa. Thôi kệ cứ vui qua ngày, có thế mới sống được chứ. Vả lại, khi về Nam không còn cảnh đói rét như ở miền Bắc nữa nên không khí trong tù cũng khác hẳn.
Không biết bên ngoài có can thiệp gì hay không mà các đợt thả tù lại dồn dập với số lượng rất đông so với hồi năm năm về trước, mỗi năm chỉ thả một hai đợt nhỏ giọt vài ba chục người mà nghe nói toàn là bảo lãnh, chứ làm gì có học tập cải tạo tốt. Có khi là do đổi mới hay sửa sai không chừng? Tù gì mà nhiều lắm thế. Chủ hãng nước tương nổi tiếng hiệu con mèo cũng vào tù vì tội làm ăn giàu có. Chủ hãng sản xuất xe đạp cũng vào tù vì tội cạnh tranh với thương nghiệp quốc doanh, chuyên nhập khẩu xe đạp Trung cộng.
Có cả sư thầy ở các chùa chiền địa phương. Vui nhất là có giáo sư hội trưởng Hội Khổng học Sài Gòn vào tù chỉ vì biết xem tử vi, bốc quẻ như thần. Mỗi tối, khi cửa buồng giam vừa đóng lại, anh vỗ tay ba tiếng, ngày nào cũng vậy. Anh em tò mò, gạn hỏi năm lần bảy lượt vì ngại đến tai cán bộ, anh giải thích: Vỗ tay ba tiếng là để mừng rằng mình đã từng ngày một, trả hết nợ vay kiếp trước. Hai là tội nghiệp cho những người gây nghiệp mới, không biết chừng nào họ mới trả được. Ba là nên tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm. Anh đoan quyết là “chúng mình sắp về hết rồi.” Thế là anh em yên chí chờ ngày về.
Ban đầu còn nói đùa chơi cho vui thôi, nhưng sau đó từng đợt tù được thả càng ngày càng khít dần nên “Bố già” sợ mất cơ hội làm mai cho đứa cháu gái. Thật tình Bố rất thương và thích bọn trẻ trong tù nhưng Bố chọn anh bạn thuận tay trái là vì cho xứng đôi vừa lứa, chứ không chê bai gì bọn trẻ, giờ cũng đã ngoài ba mươi. Tội nghiệp “Bố già” lo khi được thả về rồi, đâu còn có dịp nào gặp lại nữa. Quảng Ngãi xa xôi quá, đâu có đứa nào chịu ra. Hơn nữa, sinh hoạt hằng ngày cơm nước và nhất là chiều nào cũng giúp Bố gánh nước về trại để nấu ăn hay rửa chén bát. Chỉ có anh bạn thuận tay trái là bền bỉ nhất. “Bố già” từ từ gợi chuyện.
Anh tốt nghiệp Khóa 22 trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, ra trường chọn về Tiểu khu Quảng Ngãi và trở thành sĩ quan tác chiến thuộc Tiểu đoàn địa phương đóng quân trên địa bàn quê hương của “Bố già” gọi là thôn Bình An mà không bao giờ có bình an. Tết Mậu Thân năm 1968 anh bị thương trong lúc giao tranh và bị địch bắt, sau đó chuyển lên giam giữ ở vùng Datsut, Kontum. Sáu tháng sau, anh vượt ngục thành công về tới Dakto và ra trình diện với chính quyền VNCH. An ninh quân đội điều tra (giam lỏng) và làm việc hơn sáu tháng. Sau khi hồ sơ bạch hóa anh được phục hồi cấp bậc cũ và thuyên chuyển về vùng IV, khu chiến thuật Tiền Giang làm sĩ quan tác chiến thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh.
Khi vừa đổi về đơn vị đóng gần nhà, gia đình liền ngắm nghé và tổ chức đám cưới ngay trong năm. Để đánh dấu cho sự trở về của anh như một phép mầu, gia đình tổ chức đám cưới thật lớn, thật linh đình. Cô dâu con nhà khá giả, học hành tử tế sánh vai bên anh chàng Trung úy trẻ, đẹp trai, oai phong lẫm liệt. Cả phố ai cũng mê.
“Bố già” sốt ruột không muốn nghe tiếp, chỉ ngắn gọn có chịu không thì Bố nhắn về cho vợ, kỳ tới thăm nuôi sẽ dẫn cháu theo vào cho có bạn, rồi sẵn dịp xem ra sao. Còn người đã bỏ đi rồi thì kể làm chi. Nhưng anh bạn thuận tay trái bỏ lửng, coi như không muốn bàn tới nữa. Sự đời đã tắt lửa lòng. “Bố già” buồn năm phút.
Tưởng đâu như thế là quên đi, nhưng có một hôm dưới bóng mát tàng cây trong trại nhân ngày nghỉ không lao động, anh em tụ tập nhau ăn uống, “Bố già” kể rằng tội nghiệp con nhỏ mới lấy chồng chưa được bao lâu thì chồng nó tử trận. Chồng mất rồi mới biết mình có thai và sau đó sinh ra một bé gái, nó lập bàn thờ chồng và ở vậy nuôi con cho đến ngày nay. Nghe cảm động và ngưỡng mộ quá, anh em bèn hỏi:
– Hiện nay cô ấy đang làm gì ở đâu Bố?
– Cô giáo Lan dạy học ở quê vợ tau từ trước tới giờ.
Đang rít một bi thuốc lào, ém hơi chờ nhả khói, anh bạn thuận tay trái bỏ dựng đứng điếu cày, chống tay lên, mặt mày xanh mét y như người say thuốc lào. Bình thường, khỏe như anh có khi phải hai bi mới đã điếu. Giọng nói hơi lạc đi.
– Võ Thị Lan ở Sông Vệ phải không Bố?
– Ừ, sao mi biết?
Hồi mới còn là Thiếu úy ở Quảng Ngãi, anh theo đơn vị hành quân thường hay qua lại những bến đò ngang sông Vệ. Rồi một hôm tình cờ anh gặp cô giáo Lan là người có nhan sắc trong vùng, vừa đi dạy vừa phụ giúp mẹ có quán nước và bán thêm một ít đồ chạp phô ở gần bờ sông. Trong đơn vị có người quen giới thiệu, tới lui nhiều lần rồi dính luôn. Đơn vị đứng ra tổ chức “đám cưới nhà binh” chỉ có cô dâu chú rể và anh em cùng đơn vị tại hậu cứ của tiểu đoàn. Chưa tròn năm, trận Mậu Thân xảy ra anh bị thương và bị địch bắt, đơn vị báo cáo mất tích và anh em cùng đại đội báo riêng cho gia đình biết là chắc chết vì bị phi pháo của ta truy kích. Nhưng anh đã sống sót trở về và âm thầm chuyển đi nơi khác.
Thế rồi vào một buổi sáng trời vừa tạnh mưa, anh em đang ngồi chờ thăm nuôi, kẻ có người không, trễ hẹn là chuyện thường. “Bố già” được gọi ra nhà thăm nuôi cùng lúc với anh bạn thuận tay trái. Có khi gần tám năm rồi anh chưa được một lần thăm nuôi. Anh em rất vui khi thấy anh đi sóng đôi với Bố ra nhà thăm nuôi. Đây là một kỳ tích của “Bố già.”
Hôm ấy cuối tuần có đông tù nhân được thăm nuôi, anh em nhường chỗ cho vợ chồng “Bố già” chọn đầu dãy bàn ở gần góc nhà, khuất tầm nhìn của cán bộ đang bắt ghế ngồi ở ngoài cửa ra vào. Chưa ngồi xuống, anh bạn thuận tay trái đã nhũn người muốn đổ xuống ghế. Đứng bên cạnh vợ “Bố già” là người đàn bà trung niên khẳng khiu mặc chiếc áo bà ba màu mỡ gà với khuôn mặt sạm nắng nhưng có nét, đôi mắt to đen lay láy đang tràn đầy nước mắt.
– Anh Mai, anh còn sống…
Anh ngồi xuống gật đầu ứa nước mắt vói tay qua dãy bàn nắm lấy tay “người ấy” mà tưởng chừng như còn xa xôi lắm…
Tối hôm đó, bàn đèn của đội lao động nông nghiệp ngoài thuốc lào, trà đậm còn có thêm một ít kẹo gương Quảng Ngãi. Chuyện như “châu hoàn hợp phố” gây nhiều xúc cảm khiến buổi chiếu phim anh em ngồi đầy mấy sạp, máy chiếu hơi bị rè và ngắt quãng vì không quen kể và cảm động. “Bố già” ngồi bên kia sạp xi măng thỉnh thoảng quay qua chen vào.
– Cái tưởng là của mình có khi không phải là của mình. Còn cái mà mình bỏ đi, tưởng không phải là của mình đôi khi chính lại là của mình.
– Con rơi con rớt hả Bố?
– Già rồi mới thấm.
Thời gian qua nhanh, thăm nuôi mấy lượt, đường đi Quảng Ngãi-Hàm Tân không còn xa nữa. Vợ chồng con gái trùng phùng. Cô giáo Lan ngày càng mượt mà, sắc diện tươi tỉnh, vui mừng vô hạn. Mười mấy năm qua tưởng đâu đã mất, ai ngờ người vẫn còn đây, còn có ngày nầy.
Đến cuối năm, trại có đợt thả tù nhân hằng mấy trăm người, gần hết lán trại. Lại đúng đợt thăm nuôi vào dịp gần Tết nên thân nhân đều nán ở lại nhà thăm nuôi vài ngày chờ làm xong thủ tục để cùng về. Không khí thật rộn rịp, tràn đầy niềm vui, nhất là cánh tù nhân trẻ.
Chúng tôi ra khỏi trại vào buổi chiều, anh em cùng nhau đến xóm nhỏ trước cổng trại ghé vào quán nước bên đường. Riêng anh chị Mai Lan từ giã sớm ra đón xe đò để về Sông Vệ cho kịp Tết.
Thấy hai anh chị nắm tay nhau dìu lên xe, bất giác một anh bạn nhớ lại chuyến xe lửa xuôi Nam hồi hai năm trước buột miệng lên tiếng.
– Tự do rồi muốn nắm tay nào cũng được. Tình yêu đâu cần trái, phải.
Nghe thế cả bọn cười vang. Ngoài kia gió Xuân đang về.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét