Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 12 tháng 9, 2017

Bạn 50 năm - Tràm Cà Mau

Dạo đó, tôi vừa mới trổ mã, bể tiếng, tay chân tự nhiên dài ngoằng ra,
áo quần thành ngắn cũn cỡn. Tôi vụng về, ngơ ngác, làm cái gì cũng hư
hỏng, má tôi cứ la rầy mãi. La rầy để quở trách mà cũng chan chứa tình
yêu thương. Tôi ăn cái gì cũng ngon, đặt lưng xuống đâu cũng ngủ được
say sưa.<!>
Thời nầy, đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, nước Pháp đem quân trở lại
Việt Nam để tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến, cầm
tầm vông vạt nhọn đánh nhau với Tây. Khí thế đằng đằng. Cũng như mọi
thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là đánh nhau với Tây,
nhưng chạy thì nhiều hơn, vì lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống
của Tây.
Tôi bị Tây bắt lãng xẹt khi đang ngủ giữa ban ngày. Bị trói ké, đem về
giam tại thành phố. Trong trại giam, mỗi ngày phải đi làm lao động vệ
sinh, dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai mương. Tôi làm quen
được một ông lính kèn, mỗi ngày mượn cái kèn thổi tò te làm khổ lỗ tai
mấy ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng nghe mấy anh tập kèn
cứ ọ è từ giờ nầy qua giờ kia mãi.
Tập hoài rồi cũng thổi được. Một lần cao hứng tôi thổi khúc kèn báo
hiệu tan giờ làm việc, tiếng kèn vang vọng, rõ ràng, làm mấy ông Tây
tưởng đã hết giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam đói, và anh lính kèn
cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn cây kèn nữa. Nhưng sau đó hai
tuần, tôi được cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính, và sung
vào đội thổi kèn. Ban quân nhạc của Tây. Nhờ có một chút hiểu biết về
âm nhạc Tây Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng, không như các ông
bạn khác. Khi tập thổi kèn mà chơi, thì tôi cảm thấy vui, ham thích,
thú vị, nhưng khi phải tập kèn vì bắt buộc, thì thật là chán nãn, mệt
nhọc, bực mình. Ông trung sĩ chỉ huy đội quân nhạc không vui, vì đã
chọn lầm người. Trước đó, ông tưởng tôi có năng khiếu đặc biệt về âm
nhạc, nên đề nghị tuyển dụng. Về sau ông thường nói lời an ủi rằng,
thiếu chó thì bắt bất cứ con gì ăn phân cũng được, miễn sao biết ăn
phân thì thôi. Nghe ông nói vậy, tôi cũng tự ái, và bực mình. Thường
thường,thì đội lính kèn được nhàn hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo
hiệu buổi sáng thức dậy, như con gà gáy sáng, bao giờ làm việc, báo
giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu thật đúng giờ. Thế thôi. Còn ngoài ra
thì chơi cờ, tán dóc, trêu ghẹo nhau, nhưng không được bài bạc. Mỗi
sáng tiếng kèn vang vang: “Tọ tè ti tọ tè ti.. ti tọ ti tè…” Mà lũ con
nít chuyển âm thành: “ Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị,
đi ăn mày. Mụ đi đâu tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.” Nghe y hệt
tiếng kèn đồng.
Trong đám lính kèn, tôi chơi thân với Tư Thàn, vì anh cùng tuổi, cũng
độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị Tây bắt và sung vào đội quân
nhạc. Chúng tôi thường rủ nhau đi xem hát ban đêm. Chúng tôi biết và
thuộc lòng tên đào kép của các gánh cải lương, hò quảng. Nhiều lần, Tư
Thàn thổ lộ ước mơ của anh là được vào làm việc cho gánh cải lương,
làm kép độc, nhờ đó, mà anh có thể mùi mẫn với các cô đào đẹp như tiên
kia. Anh không có tham vọng được nổi tiếng, chẳng cần được khán giả
mến mộ, chỉ mong gần gũi cái nhan sắc của các cô đào thôi.
Có lần, tôi nhặt được tấm ảnh của một cô gái nào đó. Hình chụp rất
điệu, ngón tay trỏ tựa má, hai cái núng đồng tiền lún sâu rất duyên,
mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có lẽ bên ngoài đẹp mê hồn. Tôi đưa
tấm ảnh cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười, em gái tôi ở Long
Xuyên mới gởi lên. Kể từ khi thấy tấm hình nầy, Tư Thàn nể nang tôi
lắm. Tôi có thể sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh không bao
giờ làm giúp. Tôi mượn tiền anh dễ dàng hơn, mà anh bớt nhăn nhó khó
chịu. Tôi lờ mờ biết Tư Thàn mê cô gái trong tấm hình, và hy vọng được
lòng tôi, thì sẽ được lòng em tôi. Vốn tính nhút nhát, nên Tư Thàn
không bao giờ dám hỏi thẳng về em tôi. Chỉ một lần, anh đánh bạo hỏi
tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi cùng, về chơi có được
không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên là được, và sẽ mời anh ở lại nhà vài hôm.
Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ cả mặt. Sau nầy, tôi cho Tư Thàn tấm
ảnh đó, anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở ra xem mà mơ mộng. Buổi sáng,
tôi và Tư Thàn thường hay ăn cháo trắng với hột vịt muối của cô Năm
Cháo Trắng bán, cô nầy có nước da ngăm ngăm, duyên dáng. Hàng cháo
gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi trên các đòn gỗ thấp sát đất. Có
nhiều anh lính trêu ghẹo, tán tỉnh cô, nhưng khi nào cô cũng vui vẻ,
tươi cười, không làm mất lòng ai. Tôi cũng khoái cô nầy, thường giả vờ
hết tiền, ăn thiếu nợ. Ðến tháng lãnh lương, thì trả, nhưng không trả
hết, khi nào cũng xin khất lại một ít. Cứ nợ cô, thì cô phải nhớ đến
số tiền nợ. Nhớ đến số tiền nợ, thì phải nhớ đến người mắc nợ, tức là
cô phải nghĩ đến mình. Cái mưu kế nầy, tôi nghe được trong một tiệm
hớt tóc mà mấy anh thủy thủ kháo nhau. Tôi có bày mưu nầy cho Tư Thàn,
mà anh không chịu nghe theo, cứ sòng phẳng trả hết tiền, không bao giờ
chịu thiếu một xu.
Một hôm tôi rủ Tư Thàn đi xem cải lương, anh viện cớ bận việc, tôi đi
một mình. Khi ngồi trong rạp, nhìn xéo qua bên kia, thì tôi thấy Tư
Thàn và cô Năm Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư Thàn đưa lên chỉ
trỏ, như đang giải thích gì đó. À thì ra Tư Thàn đã bí mật phổng được
cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho Tư Thàn
làm ăn được tự nhiên.
Hôm sau, gặp Tư Thàn, tôi làm bộ giận, mà thực ra thì tôi cũng hơi
ghen tức. Tôi thì đặt mưu tính kế, mà chẳng được cơm cháo gì, Tư Thàn
cứ tự nhiên, thì vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng, nói với Tư
Thàn:
“Mày phản bội em tao. Trả tấm hình con Mười lại cho tao. Tưởng mầy
đàng hoàng, thì ra…”
“Tao làm gì mà gọi là phản bội?”
“Mầy còn giả vờ? Hồi hôm mầy đi đâu? Làm gì? Với ai? Có chối được không?”
“Ai nói với mầy?”
“Chính mắt tao thấy. Tao để yên cho chúng mày hú hí. Chối tội làm chi?”
Tư Thàn bẽn lẽn móc ví trả tôi tấm hình cô gái có hai cái núng đồng
tiền. Anh có vẽ tiếc lắm. Cuối cùng anh nói:
“Em gái mày đẹp như thế nầy, thì chán chi người dòm kẻ ngó. Tao làm gì
mà vói thấu. Trả hình lại cho mày là phải.”
“Mày định bắt cá hai ba tay sao? Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên lắm đó chứ!”
“Ừ. Có duyên. Hồi hôm, em thú thật với tao em là ‘đầu gà đít vịt’. Mầy
thấy da em ngăm ngăm không?”
Tôi hỏi Tư Thàn làm sao mà câu được em Năm Cháo Trắng? Trong lúc tôi
bày mưu tính kế mà không được em đáp ứng. Tư Thàn cho rằng tôi ngu,
đàn bà con gái không ưa những người bê bối, mang nợ mắc nần. Sau nầy
về làm chồng quen thói nợ nần, ai mà chịu nỗi. Thì ra, tôi nhẹ dạ tin
vào mưu kế tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ.
Từ ngày trả lui cho tôi tấm hình cô gái có núng đồng tiền, Tư Thàn
không còn nể nang tôi như trước kia nữa. Tôi biết mình ngu, đòi lại
tấm hình, chẳng ích gì, nhưng đã lỡ rồi, tiếc cũng không được.
Tôi thường ứng trực thế cho Tư Thàn, để anh có thì giờ đi chơi với cô
Năm Cháo Trắng. Bởi vậy, sau nầy cô thường múc cho tôi những tô vun,
cháo muốn tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao giờ thiếu nợ cô nữa.
Thường thường, Tư Phàn và tôi trốn trại đi xem đá gà ở xóm trong.
Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng tôi cũng thường bắt độ, khi ăn khi thua,
mà thua thì nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá độ, chúng tôi dắt nhau
đi ăn nhậu vui vẻ, ăn thâm cả tiền túi. Khi thua, thì hai đứa lủi thủi
ra về, phải vay mượn tiền bạn bè để gỡ gạc. Có hai lần bị cảnh sát bố
ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi cũng sợ bị bắt, chạy trốn, cho
nên mất luôn tiền cá độ. Từ đó, chúng tôi tìm ra một cách đánh cá
khác, mà chủ cá độ không móc được của chúng tôi một xu. Hai đứa tôi
đánh cá riêng với nhau, đứa nầy được, thì đứa kia thua. Chúng tôi gọi
là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc đá gà nào, chúng tôi cũng có buổi
ăn nhậu, vì một trong hai đứa thắng cuộc. Thời trước Tư Thàn có nuôi
gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nhìn vóc dáng bên ngoài, là biết ngay
con gà có phong độ hay không. Thế là nợ Tư Thàn một số tiền bằng
nguyên cả tháng lương. Nợ ít ít, thì còn nghĩ đến chuyện thanh toán,
nợ nhiều quá, không còn muốn trả nữa. Tôi cứ khất mãi, và đến tháng
lãnh lương cũng không trả bớt nợ cho Tư Thàn. Từ đó, giữa tôi và Tư
Thàn có cái gì lấn cấn, tình bạn không còn như trước nữa. Tôi không
dám ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn, sợ bị hỏi nợ. Không phải tôi muốn giựt
nợ, nhưng tôi tự bảo lòng, khi nào tiền bạc dư dả, thong thả mới trả
Một lần, Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười nói với một cô nữ
quân nhân. Giữa chỗ đông người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói lớn:
“Sao mày nợ tao một tháng lương, lâu quá mà chưa trả? Phải vay mượn mà trả chứ?”
Tôi bị mất mặt trước đám đông, phát cáu, giận đỏ mặt. Tôi nghiến răng trả lời:
“Mầy còn đòi tiền nợ, thì tao đục cho trào máu.”
Tư Thàn lảng đi nơi khác, mà tôi thì cũng không hết giận, định đi theo
gây sự thêm. Vì một món nợ đá gà, mà chúng tôi mất tình bạn.
Sau năm 1954, Tây rút về nước, chế độ Cộng Hòa được thành lập tại miền
Nam. Chúng tôi được giải ngũ, về đời sống dân sự. Tư Thàn đem vợ là cô
Năm Cháo Trắng về quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố, làm đủ thứ việc, đủ
sống qua ngày, nhưng vì con đông, cho nên khi nào cũng thấy thiếu
thốn.
Mười mấy năm sau khi giải ngũ, một hôm tôi lái xe chuyển kinh sách cho
hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên đường trở về, chiếc xe làm
nư, chết máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa. Tôi ngồi bên vệ
đường, dưới bóng cây nhỏ. Ðầu óc suy nghĩ, tính kế không ra. Tôi định
bắt xe đò về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa xe. Chờ hoài mà không có xe qua.
Phía dưới ruộng khô, có một nông dân đang cày đất với hai con trâu.
Nắng cháy, cổ khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng cày, lên bờ lấy bầu
uống nước. Túng quá, tôi đánh liều kêu lớn:
“Nầy anh ơi, khát quá, cho tôi uống nước với”
Người nông phu mang áo đen, quần xà lỏn, chậm chạp băng ruộng, đem cái
bầu nước đến cho tôi. Khi đến gần, thì anh reo lên:
“Mày đó phải không Quài. Sao biết tao cày ruộng ở đây mà ghé lại thăm?”
Tôi mừng quá, thét lớn:
“Tư Thàn! Mày! Ð. M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả? Chiếc xe nó biết có
mầy ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp mầy.”
Tư Thàn và tôi xoắn lấy nhau, nhắc chuyện mười mấy năm trước. Ðủ thứ
chuyện. Nói cho nhau biết tin tức gia đình mỗi người. Tư Thàn có hai
thằng con trai. Ðời sống của gia đình thong thả, nhờ cô Năm Cháo Trắng
buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư Thàn
chưa về lại Sài Gòn lần nào, vì cũng không có chuyện gì, mà chẳng còn
ai để thăm viếng.
Tư Thàn bỏ dở luôn buổi cày ruộng. Tôi cũng bỏ kệ cho chiếc xe nằm ụ
bên đường, đến đâu thì đến, theo Tư Thàn đi vào làng. Nhà Tư Thàn
trống trải, đơn sơ như tất cả mọi nhà nghèo miền quê.
Tư Thàn lấy cái nơm làm bẫy, rải lúa cho gà ăn, và bắt được một con gà
trống thiến lớn. Làm thịt, bao đất sét, nướng lửa rơm. Tư Thàn đem ra
hai lít đế trong veo. Khi gà chín, tôi đập cái vỏ đất sét, để cả con
gà lên chõng tre có lót sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn đã rửa
sạch. Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm đùi gà nhai, rượu vào đều đều, cạn
chai nầy, qua chai kia. Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa, chuyện không
đầu, không đuôi, chuyện nầy lẫn qua chuyện khác. Hai đứa nhỏ con Tư
Thàn đi học về, cũng nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép thằng lớn hớp một
ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra. Tư Thàn và tôi cùng cười vang. Khi trời
xế chiều, thì cô Năm Cháo Trắng cũng gánh hàng về. Cô nhận ra tôi, kêu
thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều lần đau điếng. Cô mắng:
“Cái ông khỉ nầy, tưởng chết rấp đâu rồi chớ. Làm sao biết tụi tôi ở
đây mà ghé chơi? Vui quá xá”
Ðêm đó, cô Năm Cháo Trắng nấu cháo vịt, mượn hàng xóm thêm mấy lít đế,
chúng tôi ngồi ăn nhậu dưới trăng cho đến khuya. Ăn uống no say. Tôi
chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn, trị giá bằng một tháng lương
vào thời gian mười mấy năm trước, mà chưa trả, và cũng chưa hề toan
tính thanh toán cho sòng phẳng. Cũng vì món nợ đó, mà cái tình bạn
thân thiết giữa chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn nồng,
không còn như trước. Tôi chậm rãi nói lè nhè trong hơi men:
“Tao bậy quá, còn mắc nợ mầy mà chưa có dịp trả. Công việc làm ăn,
cũng không khá, mà con cái đông đúc, có cơm no bụng từng ngày là may
lắm. Tiền không có dư…”
Tư Thàn cười hiền hòa, giọng ấm áp nói:
“Thôi, quên chuyện xưa đi. Nợ nần cái khỉ gì? Chuyện cờ bạc thời trai
trẻ dại dột, để tâm làm chi? Bạn bè gặp lại nhau, là quý rồi.”
Có lẽ vì rượu đã ngấm nhiều, mà nghe lời nói chí tình của bạn, mắt tôi
cay xè. May mà tối trời không ai thấy. Tôi xịt mũi. Ðêm đó, tôi ngủ
lại nhà Tư Thàn, và nói chuyện rầm rì trong bóng tối cho đến khuya.
Sáng hôm sau tôi ra chỗ xe nằm ụ, thì thấy chiếc xe chỉ còn là một
đống sắt cháy nham nhở. Thì ra đêm qua, du kích đặt mìn phá, mà ngủ mê
quá, chúng tôi từ làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe dò về Sài
gòn, và bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội thánh bắt bồi
thường. Có lẽ họ biết, tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng không moi
được một xu, thì tha làm phước. Vã lại thời buổi chiến tranh, không ai
dự liệu trước được chuyện bom mìn.
Tháng tư năm 1975 tôi đem gia đình chạy, chưa biết sẽ chạy đi đâu, về
đâu, và làm sao mà sinh sống sau nầy. Cứ chạy đã. Vì sợ phải đi tù như
một số bạn tôi, họ đã trở về miền Bắc vào năm 1954, và nghe đâu một số
đã chết trong tù, một số còn bị giam giữ hơn hai mươi năm chưa được
thả. Ðó là tin tức chính xác đi quành từ miền Bắc qua Pháp, và từ Pháp
về miền Nam. Tôi được nước Mỹ cho vào cư trú, đi làm đủ thứ nghề tay
chân. Cuối cùng vào làm y tá cho một trung tâm dưỡng lão của quận hạt.
Hai mươi mấy năm đời sống yên lành, no ấm, hạnh phúc.
Năm 2001, sau hai mươi sáu năm xa quê hương, tôi về lại Việt Nam một
mình, lần thứ nhất, để sắp đặt việc cưới vợ cho đứa con trai út. Khi
đang ở Sài gòn, tôi nghe tin bọn khủng bố đánh sập tòa nhà đôi chọc
trời ở New York. Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm hay
nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền, nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau
đó, xem truyền hình, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Lòng tôi đau nhói, và
nhận ra rằng, quê hương mới là nước Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm
thiết không thua gì quê hương cũ Việt Nam. Tất cả mọi chuyến bay đều
bị hủy bỏ, việc vào ra nước Mỹ cũng tạm ngưng. Tôi chưa thể trở vể lại
Mỹ được, và trong lòng cũng tràn đầy lo ngại, không biết có thể về lại
Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở Việt nam mãi, cho hết cuối đời. Bảy
mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ, tôi ra đứng ở hành lang khách sạn.
Từ trên cao nhìn xuống phố phường bên dưới, tôi chợt nhớ, hơn năm mươi
năm trước, nơi đây còn lau sậy um tùm, đất thấp ngập nước, hoang vu.
Từ bên trong phòng vọng ra tiếng ngâm thơ khuya qua cái radio nhỏ,
giọng khàn đục buồn não nề:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Ðêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò..”(*)
Lòng tôi chùng xuống, và chợt nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi qua, vèo mau
như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây bắt đi tù, sung vào đội lính
kèn. Bao nhiêu là đổi thay, bao nhiêu bãi biển đã biến thành nương
dâu, bao nhiêu trũng hoang đã trở thành phố thị. Những thế hệ trước
tôi và đồng thời với tôi, có lẽ đa số đã về với lòng đất. Yên bề.
Những người còn sống sót như tôi, bây giờ ở đâu, làm gì. Bỗng tôi chợt
nhớ đến Tư Thàn. Nhớ tha thiết. Nhớ đến món nợ ngày xưa mà chưa trả
được, lòng buồn rưng rưng. Tôi quyết định ngay, mong cho trời mau
sáng, để thuê xe đi tìm thăm Tư Thàn.
Chiếc xe thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi tìm Tư Thàn. Anh tài
xế nghe tôi nói đi tìm một người bạn cũ, gặp nhau lần cuối đã hơn ba
mươi năm trước, anh lắc đầu, có lẽ anh cho tôi là một ông già khùng
lẩm cẩm.
Tôi chỉ nhớ mang máng cái nơi mà chiếc xe tôi lái bị đặt mìn hơn ba
chục năm trước. Tôi vào làng hỏi xem ai có biết ai Tư Thàn, nay chừng
trên bảy mươi tuổi, hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng Tham Mưu. Mọi người
đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi đi lang thang quanh làng, và hy vọng, còn
có người biết Tư Thàn ở đâu. Khi tôi chán nản trở lại đường cái, ngồi
trong cái chòi bán nước bên vệ đường, thì gặp một bà già. Tôi chận lại
hỏi. Bà nhíu mày một hồi, suy nghĩ lung lắm. Bỗng bà la lên:
“Tôi nhớ ra rồi, từ lâu không ai gọi ổng là Tư Thàn nữa. Mà ông là ai,
tìm Tư Thàn có chuyện chi không?”
“Tôi là bạn lính kèn với Tư Thàn khoảng hơn năm mươi năm trước. Bây
giờ, nhớ bạn, ghé tìm thăm.”
“Trời đất! Năm mươi năm làm chi mà không thăm nhau, giờ mới trở chứng đi tìm!”
Mấy đứa trẻ con chạy ra ruộng kêu Tư Thàn về, người ta nói anh đang
cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải là Tư Thàn bạn tôi, bảy mươi lăm
tuổi, còn sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ đưa về một ông già ở trần,
xương sườn đếm được, tay chân khẳng khiu, chỉ mặc cái xà lỏn ngắn, đi
chân đất. Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy gò, hai má hóp, miệng
móm xọm, chỉ còn hai cái răng, một cái của hàm trên, một cái của hàm
dưới, rất là thiếu mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư Thàn cả, có
lẽ tuổi ông nầy già hơn nhiều. Tôi nheo mắt nói:
“Tôi tìm Tư Thàn, hồi xưa làm lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu, có vợ là
chị Năm Cháo Trắng.”
Ông lão phều phào:
“Ông là ai? Tìm tôi có việc gì không?”
“Tôi tìm Tư Thàn. Tôi là bạn cũ.”
“Ông là bạn cũ của tôi? Chắc ông tìm lầm người rồi.”
“Ông biết Cô Năm Cháo Trắng?”
“Vợ tôi, má thằng Ðộ, thằng Rề.”
Bây giờ thì tôi chắc chắn ông lão ngồi trước mặt tôi chính là Tư Thàn,
không ai khác. Tôi còn mơ hồ thấy vài nét hao hao của thuở nào. Bố
thằng Ðộ, Thằng Rề, hai thằng nầy tôi đã gặp hồi xưa. Ngày trước, Tư
Thàn mong sinh được bảy đứa con đặt tên là Ðộ, Rề, Mi, Pha, Xôn, La,
Xi, nhưng mới có mới có Ðộ, Rề, thì bà vợ tịt ngòi. Tư Thàn ngồi co
một chân lên ghế dài, rất tự nhiên, cái quần xà lỏn kéo nhăn nhúm lên
cao, để lòi nguyên bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen điu, nhăn nhúm,
mằm tựa trên một đùm bao da lưa thưa lông bạc trắng. Tôi mừng quá, nắm
lấy hai vai Tư Thàn mà lắc:
“Mầy không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!”
“Không. Ông có lầm tôi với ai khác không? Ông là ai?”
“Thế thì mày không phải là Tư Thàn, lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu hả?”
“Tôi, Tư Thàn lính kèn đây.”
Tôi làm bộ buồn bã đổi giọng:
“Có lẽ ông không phải là Tư Thàn tôi quen, mà là người khác trùng tên chăng?”
“Lính kèn, ở bộ Tổng Tham Mưu, trước năm năm mươi tư. Chỉ có Tư Thàn nầy thôi”
Tôi nắm chắc hai vai Tư Thàn mà lắc, và hét lên:
“Ð.M. mầy không nhớ ra tao là ai, thật không? Hay mày giả bộ.”
Tôi đưa tay lên miệng, với dáng điệu như đang thổi kèn và ca: “Một
ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu, tui
bắt mụ lại, tui không cho mụ về.”
Nghe tiêng chửi thề và điệu kèn Tây của tôi, Tư Thàn nhào đến ôm lấy
tôi mà thét lên:
“Ð. M. mầy, chỉ có mầy mới nói cái giọng nầy. Thằng chó chết, thằng
dịch vật. Thằng Quài, mầy, Quài. Mà mầy sang trọng, và trẻ quá, ai
ngờ, ai mà nhìn ra.”
Ðám trẻ con đứng xem cười ầm lên khi thấy hai ông già văng tục và gọi
nhau bằng mầy tao. Tư Thàn cảm động quá, cái miệng móm méo xẹo, và
khóc thành tiếng hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư Thàn nghẹn ngào:
“Mầy còn nhớ đến tao, tìm thăm. Ðồ dịch vật. Lâu nay mày chết rấp nơi nào?”
Tư Thàn nhìn tôi từ đầu xuống chân, nói nho nhỏ:
“Tóc tai cũng còn, răng cỏ hai hàm còn nguyên, mặt mày có da có thịt,
áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải mầy là Việt kiều về thăm
quê hương không? Bây giờ mầy ở đâu? Làm gì?”
Tôi sợ Tư Thàn buồn, nói dối:
“Việt kiều cái con khỉ. Tao ở Sài gòn, nhờ có mấy đứa con vượt biên ra
nước ngoài, và mấy đứa ở nhà, buôn bán, ăn nên làm ra. Giờ già rồi, về
hưu, không làm gì nữa cả.”
Tôi hỏi thăm gia cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con trai đều đã chết.
Thằng Ðộ đi lính quốc gia, đã đền nợ nước, thằng Rề “hy sinh” cho
“cách mạng”. Cô Năm Cháo Trắng chết bệnh. Tư Thàn không có ai để nương
tựa, phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày. Tôi nhìn cái thân thể
xương xẩu của Tư Thàn, không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm lao
động chân tay. Tôi nói:
“Thôi, mầy đưa tao về nhà, thay áo quần, rồi cùng qua Long Xuyên, lu
bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bỏ mấy mươi năm xa cách.”
Tư Thàn ngự trong căn chòi nhỏ, bốn bề che lá đơn sơ. Không bàn, không
giường, chỉ có cái võng treo xéo. Trên bếp có cái nồi đen điu, méo mó.
Tôi dỡ nồi ra xem, thấy còn có miếng cơm cháy. Tôi bốc ăn, mà cứng
quá, răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không còn răng, ăn cách
nào đây?
Khi xe vào tỉnh lỵ Long Xuyên, tôi nhờ anh tài xế tìm cho một quán ăn
ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam Bộ. Tư Thàn gạt đi, không
chịu vào, và nói:
“Kiếm chai đế và vài ba con khô cá sặc là đủ vui rồi. Ðừng hoang phí
tiền bạc. Vào làm chi những nơi sang trọng nầy cho chúng chém. Gặp
nhau là vui rồi. Ăn uống là phụ.”
Tôi ép mãi mà Tư Thàn không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi
trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn nhậu và nói cười vui vẻ, tự nhiên.
Tôi uống rượu thay nước, vì sợ đau bụng. Anh tài xế cùng ăn, mà tôi
không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ khó chịu, vùng vằng.
Ðưa Tư Thàn về lại tận nhà, tôi móc trong cặp một gói bao, bằng giấy
báo đưa tặng. Tư Thàn mở ra xem, và giật mình, xô gói quà ra về phía
tôi:
“Cái gì đây? Tiền đâu mà nhiều thế? Tôi không lấy đâu. Ðừng bày đặt.”
“Có bao nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ mầy chưa trả được, bây giờ trả lại
cả vốn lẫn lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho tao vui, bỏ công tao lặn
lội đi tìm.”
“Không. Nợ nần cái khỉ gì. Ăn thua đá gà, chuyện tào lao thời trẻ dại.
Tao đã bảo mày quên đi từ lâu. Bày đặt. Lấy tiền làm chi? Không có chỗ
cất, bọn trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy đâu.”
Thấy bộ Tư Thàn cương quyết quá, tôi xuống giọng, giả vờ nói:
“Mầy mà không nhận, tao có chết nhắm mắt cũng không yên tâm. Chưa trả
hết nợ, thì sau nầy phải đầu thai làm trâu cày cho mầy. Khổ lắm.
Thương tao, mầy cứ cầm đi. Ðể mua gạo. Ðể khi đau yếu có chút thuốc
thang. Nếu không có nơi cất, thì đem gởi bà con. ”
Ðôi mắt già của Tư Thàn chớp chớp, và nói giọng run run như sắp khóc:
“Ð.M, tao già đến thế nầy, mà mày cũng còn định gạt tao như hồi xưa
nữa sao? Thằng chó chết. Cái tình bạn của mầy, còn quý gấp trăm ngàn
lần gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo Trắng, nói cho bà
biết cái tình bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động lắm.”

Tràm Cà Mau

Không có nhận xét nào: