Chẳng hiểu sao, đột nhiên trên “mạng” @ và trong xã hội hồi này lại ồn ĩ lên chuyện “Chân dung các Nhà văn”… hết Xuân Sách, đến Trần Nhương, Đỗ Hoàng rồi lại Nguyễn Khôi… Lê Mai tôi thấy có cái gì đó bức xúc, không bình thường trong đời sống xã hội, mà cụ thể là trên Văn đàn đương đại của ta hôm nay. Đó là ngẫu nhiên hay tất nhiên của dòng chảy lịch sử ? Thiển nghĩ, văn chương của cái thời minh họa – trại lính- “tố cáo”, “nâng bi” lừa mị đến trơ trẽn … thứ văn chương đó đã đóng góp được gì cho Nhân dân, cho Tổ Quốc ? có xứng đáng cho người đời khắc họa Chân dung các Nhà văn ? Phải chăng đó là hiện tượng “tự sướng”, đầy ngộ nhận của các Văn nghệ sĩ
<!>
Tuy nhiên, khi ta đọc Xuân Sách và Nguyễn Khôi (cách nhau 25 năm, mỗi người một vẻ) thì tưởng vậy mà không phải vậy!
HOÀNG VĂN HOAN
Anh Ba quy : Việt gian
Sang nương vây lão Đặng
Xuống địa phủ viết văn
Gặp cụ Hồ đặng đặng ?
BÚT TRE
Người bút lông, bút sắt
Lão quê mùa Bút Tre
Dám “biên tập” lời Bác
Vào đền Hùng khắc bia.
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta.
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây.
“Anh dâng em
bài thơ anh mà em là
tác giả
Đóa hoa anh mà em là
sắc hương
Thanh gươm anh mà em là
chất thép.”
của cái thời “dãi thây trăm họ làm công một người”.
Tuy vậy, ở Xuân Sách, chân dung Tố Hữu mới chỉ là đặc tả được cái hiện tượng bên ngoài “cây táo ông Lành” mà thôi! Đến Nguyễn Khôi tôi thấy ông đi thẳng vào chân tướng, vào bản chất của nhà thơ cầm quyền toàn trị này:
TỐ HỮU
Tự nhận mình là Lành
Mọi người thấy rất dữ
mác lê bọc bằng Thơ
Đã đâm chỉ có “tử”. *
Tung hoa máu xung trận
là Hịch chống xâm lăng
lời Thề với Đảng, Bác
“Từ ấy” “Sáng tháng 5”.
Chân dung Nhà thơ CHẾ LAN VIÊN được Xuân Sách khắc họa:
Ta nghĩ tới Vàng Sao từ thuở ấy
Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ
ai dám bảo con tàu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt anh em trong suối cạn
Khắc họa như thế là tài, nhưng chưa nói được bản chất của một thi sĩ tài bậc nhất, xảo trá bậc nhất, hãnh tiến bậc nhất, tráo trở bậc nhất… của văn đàn Việt Nam đương đại. Ta hãy xem lúc ông được trọng dụng thì thơ ông ca ngợi Đảng, Bác hết lời: “Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi”. Khi thất sủng thì “trở giáo” bằng những bài thơ trong “DI CẢO”:
Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là Bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
đêm vui...
(BÁNH VẼ)
Sau này anh đọc thơ tôi thì nên nhớ
có phải tôi viết đâu ! một nửa
cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
(TRỪ ĐI)
Tôi viết bằng xương thôi, nhưng không có
cái thịt của mình.
Biết rõ những điều này, chúng ta hãy xem Nguyễn Khôi vẽ chân dung nhà thơ:
CHẾ LAN VIÊN
Tài thơ đến như Chế
Đời thật khó khen chê
Bẻ cành Phong lan bể
“con cá Song cầm đuốc dẫn Thơ về “
*
Bắn pháo hoa Tư Tưởng
Vờ khóc nước non Hời
Tháp Bay On bốn mặt
Giấu đi mặt ma trơi.
Hình như Nguyễn Khôi vẫn chưa tin ông, ngay cả “Di cảo”!
Chân dung PHẠM TIẾN DUẬT, ta xem Xuân Sách vẽ:
Trường Sơn đông em đi hái măng
Trường Sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống Chiếc xe không kính
Thế đấy ! giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh.
Ông xứng đáng là Nhà thơ anh hùng thời chống Mỹ, được Tố Hữu, Xuân Diệu gọi là “con Đại bàng non” với câu thơ được truyền thông, báo chí thời ấy quảng bá hết cỡ “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Nhưng khi trải qua lửa đạn, máu xương của các chiến sĩ, thì ông đã tỉnh ngộ viết “Vòng trắng”, bị Tố Hữu coi là “rễ thối”, bị loại bỏ. Bi kịch này của Duật đã được Nguyễn Khôi kết thành vành tang đưa thơ Duật vào Trường Sơn để tạ lễ đám trai làng mà ông từng lừa mị:
PHẠM TIẾN DUẬT
“Đường ra trận… đẹp lắm”
Lừa mị lũ trai làng
Chết hồn kết “vòng trắng”
đưa Thơ vào Trường Sơn.
Nhưng thôi, anh Duật đã mất rồi nên chúng ta không cần nói đến “luật nhân – quả” ở đây, vì kết cuộc anh đã bị trời báo ứng!
HOÀNG CÔNG KHANH
Tù Tây , lại tù Ta
“Quyền được rên” chẳng có
Bởi luôn đòi Tự Do
Gánh văn là gánh khổ.
Theo chỗ chúng tôi biết, nhà văn Hoàng Công Khanh có một số phận kì lạ. Mọi diễn biến của đời ông đều gắn chặt với hai chữ tự do. Nhớ khi Hoàng Công Khanh bị tù Tây ở Sơn La
Ông Tô Hiệu, đã gợi ý ông Khanh vào Đảng, nhưng ông đã khéo léo từ chối “anh cho em ở ngoài tổ chức, để có tự do mà viết văn”. Nhớ lần trong Hội nghị chỉnh huấn “đánh” Nhân văn- Giai phẩm, ông lại buột miệng nói: “Viết văn không có tự do thì không thể viết được!” Thế là ông lại được đi tù. Lại nhớ lần đang ở tù ông được viên giám thị trại giam gọi lên cho tự do để ngồi viết kịch phục vụ Hội diễn văn nghệ giữa các nhà tù. Nhờ “thành tích” sáng tác đó mà Hoàng Công Khanh được ra tù về với gia đình ở Hà Nội, để rồi lại được “tự do” thất nghiệp (! !!???) Và đời ông, đến cái quyền “tự do” tối thiểu nhất của con người là “Quyền được rên” cũng không có!
Đến thời kỳ Đổi Mới mở cửa, tưởng rằng Văn nghệ sĩ đã được “cởi trói”, sự ấu trĩ tàn khốc của thời Nhân Văn – Giai phẩm tưởng không bao giờ tái diễn lại nữa. Nào ngờ, lúc này Xuân Sách đã mất được trên 20 năm, thế thì Nguyễn Khôi lại phải khắc chân dung :
NHÃ THUYÊN
“Nhà xuất bản Giấy vụn”
Mấy thầy cô muốn “nghiên”
cánh “Phê bình chỉ điểm”
“Chém” cô trò Nhã Thuyên.
Cái này thì phải thông cảm với Xuân Sách thôi, sự kiện này nó mới xảy ra, mong vong linh ông siêu thoát và mỉm cười nơi Tây phương cực lạc!
NGUYỄN VĂN LƯU
Hơn lão Vũ Đức Phúc
Vượt trên tầm Đông La
“Luận chiến văn chương”…hả ?
Chỉ điểm bãi tha ma.
Chúng tôi đã khóc khi biết về thân phận hiện nay của các nạn nhân trong vụ Nhã Thuyên. Họ chỉ là những người phụ nữ đẹp và tài, trung thực, tử tế vốn chỉ biết mưu sinh, và khát khao cống hiến cho nền khoa học nước nhà. Họ có tội gì? Thôi thì đành nhờ Nguyễn Du “Trăm năm trong cõi người ta / Chữ tài chữ chữ mệnh khéo là ghét nhau” cho lòng mình thanh thản! Còn thực chất Nguyễn Văn Lưu ra sao? Xin mọi người hỏi những nhà văn dự Đại hội Nhà văn Hà Nội (lần 1, năm 2016) thì sẽ rõ chân tướng ông ta. Nhưng thật buồn, ngay tại thời điểm hiện nay, loại phê bình chỉ điểm ấy vẫn còn đất dụng võ, vẫn tác oai tác quái. Ta hãy xem chân dung số 57 của nhà thơ Nguyễn Khôi:
VI TÙY LINH
Chẳng cần tốc váy đỏ
“Quốc sư” vẫn say thơ
Văn em không có sex
Đếch ai thèm tìm mua.
Chúng nó chỉ ông nào là “Quốc sư” của cái nước Việt nghìn năm văn hiến này. Tôi nhớ, đóng góp to lớn của ông là việc đề xuất lấy hoa mào gà làm “quốc hoa” cho đất nước chúng ta. Đề xuất ngớ ngẩn tới mức một tiến sĩ rất khát khao cống hiến phải bật thét lên: – Thưa cụ, con đã đi khắp đất nước này, con thấy hoa mào gà đéo có thuộc tính nào có thể vin vào làm biểu tượng quốc hoa được. Họa chăng chỉ có mào con gà trống oai hùng (Đêm nằm thì gáy o o / Sáng ra đạp mái không lo trả tiền). Xin tiến sĩ hãy bình tâm trên đất nước này hoa mào gà có thể là không tiêu biểu, nhưng bệnh sùi mào gà thì chắc chắn sẽ rất đặc trưng. Bài chân dung Vi Thùy Linh mở đầu tôi thấy rất lạ. Sao chẳng cần tốc váy đỏ “Quốc sư” vẫn say thơ”? Nguyễn Khôi muốn khắc họa chân dung Vi Thùy Linh hay chân dung quốc sư? Hay ông muốn mượn việc khắc chân dung để nói lên cái nhí nhố của thời cuộc kiểu Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng hay:
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng
Viết đến đây, Lê Mai tôi giật mình nhận thấy phải thế chăng mà Nguyễn Khôi còn khắc họa Chân dung của một số nhà văn trong “Ban vận động Văn đoàn Độc lập” mà người đứng đầu là:
NGUYÊN NGỌC
Chết rồi Anh hùng Núp
Rừng Xà nu bị nghiền
lập “Văn đoàn Độc lập”
mơ “Đất nước đứng lên”.
Ta hãy xem lại 25 năm trước, Xuân Sách nói về Nguyên Ngọc :
Mấy lần Đất nước đứng lên
Đứng lên cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một Mạch nước ngầm
cuốn trôi Đất Quảng lẫn Rừng Xà nu.
Ở đây chúng tôi thấy có sự đồng điệu về cách đánh giá khi tạc Chân dung Nguyên Ngọc của Nguyễn khôi và Xuân Sách. Nhưng đến Trần Đĩnh thì ta lại phải thông cảm với ông Xuân Sách thôi, Lại xin ông mỉm cười nơi chin suối!
TRẦN ĐĨNH
Chính sự theo “Đèn Cù”
“Bất khuất” nên bị thiến
Đang diễn Hề hầu vua
Hí trường đột tai biến.
Hà Nội, ngày 2-6-2017
Lê Mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét