1- Mùa Thu đang trở lại Cali. Buổi sáng trời hơi lạnh. Cái lạnh dễ chịu của miền thung- lũng hoa vàng không giống cái lạnh khó chịu tại các tiểu bang miền Bắc Hoa-kỳ, nơi mà Nguyễn đã cư-trú tại đó gần mười năm.Nguyễn đang ngồi nhâm-nhi cà-phê vói Dũng và vài người bạn tại quán cà-phê Starbucks ở Downtown.
Dũng nói:
- Tuần sau, tớ sẽ về thăm Việt-Nam.
- Cậu về, chừng bao lâu thì qua lại? .Về có việc gì, hay về “hỏi vợ” đó?, Thành hỏi.
- Mình về thăm lại quê-hương sau gần hai mươi năm xa cách. Các bạn cũng đều biết tất cả cha mẹ, anh chị em mình đều đã định-cư tại Mỹ và mình chưa có ý-định “tìm vợ” bên Việt-Nam.
<!>
Có thể chuyến này mình về chừng hai ba tuần để đi thăm các thắng cảnh từ Nam ra Bắc. Theo mình nghĩ tuy mình là người Việt, từ nhỏ đến giờ, mình mới biết một vài tỉnh và thành-phố trong Nam thì coi như “xệ” quá!, Dũng trả lời.
Nguyễn góp ý:
- Nếu có dịp ra ngoài Trung, cậu nhớ ghé thăm phố cổ Hội-An. Mỗi tháng một lần vào ngày trăng tròn, tại thành phố cổ đó tất cả đèn điện đều tắt hết, mà chỉ thắp các đèn lồng để sinh-hoạt ban đêm. Thú vị lắm làm du-khách sẽ nhớ đời!
- Ừ, mình cũng có ý định đó từ lâu rồi, Dũng nói.
- Nếu cậu đến phố cổ, mình dề nghị cậu đến trú tại khách sạn X, phòng 309 sẽ dành cho cậu nhiều “kỷ-niệm nhớ đời” đấy!.
- Sao cậu chưa về Việt-Nam lần nào mà cậu “biết rõ” vậy, hả Nguyễn?
- Thiên cơ bất khả lậu!
Nguyễn vừa nói vừa cười như tuồng thích thú lắm về câu trả lời của mình.
2- Người tài-xế trẻ tuổi quay sang hỏi Dũng :
- Đây là ngã ba Vĩnh-Điện. Ông muốn đi Đà-nẵng trước, hay ghé xuống Hội-An? Lần đầu tiên, Dũng ra thăm miền Trung nên anh suy nghĩ một chút, rồi mới hỏi:
- Đường nào đi Đà-Nẵng, mà bao xa?, còn đường nào đi Hội-An ?
Người tài-xế trả lời:
- Nếu chạy thẳng theo quốc-lộ 1 này thì đến thành-phố Đà-Nẵng cách đây chừng hai mươi lăm cây-số, còn rẽ phải, thì xuống phố cổ Hội-An, cách đây chừng mười cây-số thôi.
- Ông muốn đi... ?
- Hội-An trước, vì hôm nay là ngày mười bốn âm-lịch, tôi muốn được tận hưởng một đêm đặc-biệt tại đây.
Dũng nhìn vào tờ giấy mà Nguyễn, bạn chàng đã ghi chi-chít chữ, chàng đọc lại cho nhớ:
“Vào mỗi đêm 14 âm-lịch, mọi sinh-hoạt của thị-xã nhỏ bé này được quay trở về thế-kỷ thứ 16. Bốn con đường nằm trong khu phố cổ là Trần-Phú, Nguyễn-Thái-Học, Lê-Lợi và đường bờ sông Bạch-Đằng đã hàng loạt tắt những ngon đèn điện sáng, thay vào đó là ánh-sáng huyền-ảo của những ngọn đèn lồng nhiều mầu sắc. Dù những chiếc đèn lồng này cũng được thắp sáng bằng những bóng đèn điện thông thường, nhưng ánh-sáng tỏa ra mờ dịu và phảng-phất dấu ấn của thời xa xưa...”
Dũng quay sang tài-xế rồi nói:
- Anh cho tôi đến khách-sạn X..., nằm trên đường....
Vâng, tôi biết đường này, ông yên tâm.
Người tài-xế đáp không đợi Dũng đang moi trong trí để nhớ tên con đường xa lạ này. Khách-sạn trông cũng khá sang. Dũng hỏi người quản-lý để thuê phòng. Người quản-lý nhìn vào cuốn sổ đang để trước quày và trả lời ngay:
- Thưa ông, rất tiếc, hôm nay nhằm ngày mười tư âm-lịch, có nhiều khách đến tham-quan phố cổ, nên không còn phòng nào trống... Xin ông cảm phiền...
Ngừng một giây, khi thấy Dũng tỏ ra thất vọng, người quản-lý nói tiếp:
- À... còn một phòng... mà... mà....
Dũng nghe “còn phòng” nên nói ngay:
- Khỏi phải mà...mà..., để giải-thích dài dòng nữa, cho tôi phòng còn lại đó, và nếu muốn trả thêm chút ít tiền thuê cũng được, vì tôi chỉ cần trú một đêm thôi.
Dũng nghĩ đến mấy anh quản-lý khách-sạn ở Việt-Nam, thuờng nêu ra những trường hợp “đặc-biệt” như trên, để vòi thêm tiền của khách “Việt kiều”, nên quyết định ngay không cần suy nghĩ.
- Cám ơn ông. Đây là chìa khóa phòng 309 “đặc-biệt” ở lầu 3, dãy bên phải đó. Chúng tôi không tính tiền thêm mà chỉ tính theo giá thông thường, như những phòng khác.
Nhận phòng xong, Dũng thay quần áo ngắn “nhiệt-đới”, mang “xăng-đan”, rồi đi xuống phố để tìm cái gì lót bụng vì chàng đã thấy thèm cà-phê và đói bụng lắm rồi.
Đường Trần-Phú, có nhiều quán ăn, mà những du-khách quen đến phố cổ đã đặt tên “Restaurant street” (phố nhà hàng ăn), hoặc nói đúng hơn lphải gọi là “Cao-lầu phố” hoặc “Cao-lau Street” là một phố có nhiều tiệm bán cao-lầu lâu đời và nổi tiếng nhất. Đường Trần-Phú dài từ “thượng Chùa-Cầu đến hạ Âm-bổn”, mà nhiều thập-niên trước đây khi còn “Pháp-thuộc” gọi là “Rue du Pont des Japonais” (đường cầu Nhật-bản), dài không quá 500 mét mà có hơn mười lăm quán ăn san sát nhau
Dũng đi ngang qua một quán ăn để hai chữ “CAO LẦU”, thấy có nhiều khách “ba-lô” ngoại quốc đang sắp hàng chờ vào ăn. Chàng ngạc nhiên vì không biết “CAO LẦU” có nghĩa gì? Tên tiệm ăn? Tên món ăn ? hay “CAO LẦU” giống với “ TỬU-LẦU”, hoặc “CAO LÂU (đã xuất hiện trong thơ Trần Tế-Xương: “Cao lâu thường ăn quỵt, Thổ đĩ lại chơi lường”?), nên chàng quyết-định “nên vào cho biết”. Người hầu bàn chào chàng và hỏi ngay:
- Thưa ông dùng “cao lầu?” có lấy thêm bánh tráng nướng không?
Dũng rất ngạc nhiên vì thông thường tại các quán ăn khi thấy khách vào ngồi, thì đưa thực-đơn cho khách chọn món ăn, còn đây sao lại khác. Như vậy “cao lầu” ắt phải là tên món “dặc-sản” của tiệm ăn này?, Dũng nghĩ thế.
Làm như người ăn chơi sành điệu, chàng đáp :
Có, bánh tráng nướng và một ly cà-phê sữa nóng.
Trong khi chờ món ăn bưng ra, chàng thấy vài người khách ngồi bàn bên cạnh chàng hút thuốc “tự-do”, nên chàng cũng móc bao thuốc lá Pall-Mall lấy một điếu, châm lửa hút thoải-mái” khi người hầu bàn đem ly cà-phê đến.
Nhìn “tô cao lầu”, món ăn mà lần đầu tiên Dũng biết, Dũng quan-sát kỹ để khi về lại Mỹ sẽ có dịp kể lại cho bạn-bè nghe.
- Thì ra thế, Cao-lầu là một món “mì khô” sợi hơi cứng, trên có thịt xá-xíu, dưới có giá chín, điểm vài tép mỡ và ngò thơm.
Không giống món mì quảng, cũng chẳng giống món mì xá-xíu khô của Tầu, hoặc hủ-tíu khô Nam-Vang mà chàng đã ăn. Đây là món ăn “lạ” đối với Dũng, có hương-vị rất đặc-biệt và hấp-dẫn.
Có lẽ vì bụng đói hay món ăn “lạ và ngon”, nên Dũng đã gọi thêm một tô cao-lầu nữa để ăn tiếp.
Nhìn những người ngoại quốc ngồi các bàn bên cạnh, tay cầm đũa rất thành thạo và ăn rất ngon lành. Dũng nghĩ có lẽ họ là “khách thường-xuyên” của tiệm ăn này.
- Wonderful meal!
Một “bà đầm trẻ tuổi” nói với người bạn ngồi cạnh, rồi nhờ người này “thông ngôn” để gọi thêm một tô cao-lầu nữa.
- Mô-ột tô-ô Kau-lau nữua..., please!
Người đàn ông ngoại quốc nói “tiếng Việt giọng Bắc”.
Mặc dầu ở thành-phố cổ nhỏ bé này, các người “nước ngoài” có thể dùng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tàu, tiếng Nga... để gọi món ăn, vì đa số người chủ quán và nhân-viên phục-vụ có khả-năng nghe hiểu những câu nói đơn-giản và thông thường của các ngôn-ngữ đó.
Khi những người khách này đứng lên, đến quày trả tiền, Dũng nghe thêm một câu nói:
- We’ll miss your Kau-lau! Thanks for your wonderful Kau-lau!
Dũng cũng đứng lên, trả tiền .
Ra khỏi quán “cao-lầu”, Dũng đi dọc theo đường Trần-Phú để thăm các ngôi chùa cổ của các người Hoa-kiều nằm dọc theo đường này, như Chùa Quảng-Triệu, Chùa Ngũ-Bang, Chùa Phúc-Kiến, Chùa Quan-Thánh, Chùa Âm-bổn. Sau đó, quẹo ra chợ Hội-an để tiến ra bờ sông Bạch-Đằng hóng mát và xem mấy người ngồi câu cá. Chiều dần xuống. Những tia sáng cuối ngày giảm rất nhanh . Mặt trăng tròn đã hiện ra từ phía bên kia sông Sài-giang hướng ra biển Cửa-Đại. Rất nhiều người đổ ra dường phố để dón “Đêm huyền-ảo”, chỉ xẩy ra mỗi tháng một lần.
Các ngọn đèn điện ngoài phố, trong các căn nhà lần lượt tắt. Thay vào đó, ngoài đường phố các chiếc đèn lồng bằng lụa sặc-sỡ mầu sắc , hình dài dài treo trên các cột điện đường và trước mỗi nhà những đèn lồng bằng lụa hình tròn tỏa ra nguồn ánh-sáng “liêu-trai” và huyền ảo. Tất cả xe cộ, kể cả xe gắn máy đều cấm di-chuyển trong lúc này. Trong lúc các nhà dọc theo bốn đường chính của phố cổ, các đèn điện, “nê-ông”, ra-đi-ô, ti-vi, máy hát... đều tạm ngừng sử-dụng trong một đêm “phố cổ trở về thuở xa xưa của mấy trăm năm trước”.
Dưới ánh trăng tròn, dưới các đèn lồng, du-khách và cư-dân phố cổ hưởng trọn vẹn một đêm mờ ảo và rất “thiên-nhiên”. Dọc theo đường phố, đây đó, người ta đánh cờ tướng, người ta đàn hát, người ta nói chuyện phiếm và các nam thanh, nữ tú cũng “ lợi dụng” cảnh mờ mờ ảo ảo đó để tỏ tình hoặc trao cho nhau những nụ hôn thắm-thiết.
Trời đã về khuya, Dũng trở lại khách-sạn.
Chàng lên giường, nằm nhớ lại một ngày vừa trôi qua ở phố cổ rất thích-thú này.
Bỗng chàng nghe tiếng gõ nhè nhẹ vào cửa phòng.
Cộc...cộc...cộc rồi cộc...cộc...côc..
Chàng ngồi dậy, xỏ chân vào dép, ra mở cửa. Chàng nghĩ giờ này có thể công-an địa phương đến xét giấy tờ...tạm trú.
Mở cửa, chàng rất ngạc nhiên khi thấy một thiếu nữ trẻ vận xường-xám e-lệ hỏi chàng:
- Xín-xáng, nị kỏn Koỏng-tống hỏa? (Thưa ông, ông có nói được tiếng Quảng-đông không?) Âm thanh phát ra nhỏ nhẹ và như có ma-lực làm chàng phải trả lời. Mặc dù trong bụng chàng muốn nói một câu để đuổi người quấy rầy trong lúc khuya-khoắt này đi chỗ khác.
- Mụ, ngộ duỵt-nàm dành, ngộ kỏn ịt-nàm-hỏa, íng-kọt hỏa, phần dậu.(Không, cô bạn, tôi là người Việt-Nam , tôi nói tiếng Việt và tiếng Anh thôi).
- O.K! It’s good. I speak English too! ( Được. Thế thì tốt. Tôi cũng nói được tiếng Anh).
Nói xong, nàng xin phép Dũng cho nàng vào phòng để tiếp tục câu chuyện muốn nói. Dĩ nhiên, Dũng đồng ý và mời nàng vào phòng, đóng cửa lại ngay vì nói chuyện lâu ngoài phòng e không tiện lúc đêm khuya.
Bằng giọng Anh chuẩn và lưu-loát, nàng nói với Dũng:
- Tiên-sinh biết không, ở khách-sạn này có một thông-lệ, mà không một ai tiết-lộ cho khách biết trước...
Dũng trố mắt ngạc nhiên, khi nghe cô gái nói tiếp:
- Phòng 309 này chỉ dành riêng cho khách “đặc-biệt”, nghĩa là được chiêu-đãi miễn phí mọi thứ kể cả “người hầu hạ một đêm”. Em được sai bảo đến đây là vì “thông-lệ” mến khách đó.
Dũng nhớ lại lời dặn của Nguyễn trước lúc lên máy bay:
Cậu đừng quên khách-sạn X, ở phố cổ, phòng 309 đó nghe. Thú-vị lắm!
- À, thì ra...có mục này... Dũng lẩm-bẩm.
Đêm đó, Dũng rất vui bên người đẹp. Dũng thấm mệt, rồi ngủ thiếp lúc nào không biết.
3- Dũng thức giấc khi trời vừa sáng. Chàng rất ngạc nhiên khi thấy mình nằm trần truồng, một chiếc khăn lông lớn vấn ngang bụng. Chàng cố nhìn để xem mình đang nằm chỗ nào?. Bên cạnh mấy thùng giấy đựng rác ở tầng basement của khách-sạn. Sao lạ vậy. Ai khiêng chàng bỏ vào đây? Chàng còn nhớ rõ, tối qua chàng nằm trên phòng 309, lầu 3 với người đẹp Trung-hoa mà!
Chàng vội chạy lên phòng 309, lầu 3. May mà lúc đó còn sớm quá, chưa có ai đi lại, để có thể trông thấy chàng “tô-hô!”.
Mùi thơm da thịt của người đẹp vẫn còn phảng-phất đâu đây. Nhìn chăn gối xô lệch, chàng tiếc đêm vui đã qua quá mau.
Sáng ra, chàng xuống quày người quản-lý để trả phòng.
Người quản-lý hỏi chàng ngủ “có yên-giấc” không? .
Dũng vừa cười vừa nói:
- Yên thì không yên... nhưng mà “vui”.... và nhất là được “biết cái basement của khách-sạn này”.
- Thưa ông, thế thì chúc mừng ông “được chiêu-đãi tại khách-sạn này không phải trả tiền” và mong ông giữ “bí-mật” này, đừng “bật-mí” cho ai khác nhé!
Người quản-lý khách sạn vừa bắt tay Dũng vừa cười mà nói thêm:
- Khi ông đến thuê phòng, khách-sạn chúng tôi không còn phòng nào khác nữa, phòng 309 là phòng được “để trống” từ nhiều năm nay, vì một số khách đã trú tại đó đều than-phiền “có vấn-đề”. Tôi thấy ông ở xa đến, nếu không có nơi tạm-trú trong đêm, để thưởng thức “đêm huyền-ảo nơi phố cổ”, thì mất vui và lỡ dịp ngày 14 âm-lịch mỗi tháng chỉ có một lần”, nên tôi mới để phòng 309 cho ông ở. Tôi biết ông thừa can-đảm và có thể “sống qua đêm” không có “hại” gì đến tính-mạng của ông. Xin ông tha lỗi cho.”
4- Về lại Mỹ, Dũng gọi điện-thoại cho Nguyễn và hẹn gặp thằng bạn “Thiên-cơ bất khả lậu” ngay.
Nguyễn kéo Dũng vào một quán ăn vắng khách. Rồi vừa ăn vùa nói chuyện. Nguyễn bảo Dũng kể lại chuyện đi thăm phố cổ. Nghe xong, Nguyễn nói thêm:
- Năm 1940, một thương-gia giầu-có người Hoa, trú tại Hội-An, hồi đó còn gọi là “ville de Faifoo” (thành-phố Phe-phô) sang buôn bán bên Hong-Kong có “bao” một vũ-nữ trẻ chừng mười tám, hai mươi tuổi gì đó, rất xinh đẹp. Khi đem nàng về phố cổ, bà vợ lớn, người Việt ghen quá cỡ, nên ông mua một ngôi nhà ba tầng này, tầng trệt làm cửa hàng buôn bán tạp-hóa, tầng trên cùng, dành một phòng để “hú-hí” với bồ nhí. Nàng tên Minh-Lan, ngoài tiếng mẹ đẻ, nàng còn nói giỏi tiếng Anh. Sợ những người trong thành phố biết việc này, vì Hội-An là thành phố rất nhỏ, việc gì xảy ra “ở trên Chùa Cầu thì dưới Âm-bổn biết ngay”, nên ông cho sửa sang lầu ba thành một “cấm phòng đặc-biệt” cho Minh-Lan ở. Có đầy đủ tiện-nghi và chỗ giải-trí thoáng mát ngoài trời, có trồng nhiều cây kiểng, có khu hồ tắm lộ-thiên , có nhà bếp riêng và có một bà xẩm nấu ăn và hầu hạ nàng. Tất cả gia-nhân trong nhà đều cấm lên lầu, dù chỉ lầu hai.
Và nàng Minh-Lan cũng không được bước chân xuống các tầng lầu khác.
Năm 1944, quân Nhật đến trú đóng tại Hội-An trong chiến-dịch “vết dầu loang quân-phiệt” Đại Đông Á của Thiên-Hoàng Nhật-bản. Ông chủ người Hoa kia bị tình-nghi chống Nhật, nên bị bắt và giết ở Phước-Tường, gần phi-trường Đà-Nẵng.
Từ đó, không ai biết thêm số phận của mỹ-nhân Minh-Lan như thế nào.
Những năm tiếp theo đó, ngôi nhà đã đổi thay nhiều chủ. Cho đến 1975, khi Việt-cộng chiếm Hội-An, tịch-thu tài-sản của người thương-gia cuối cùng có cửa hàng bán tạp-hóa tại đó, rồi sửa sang thành khách-sạn để cho thuê. Căn phòng mà nàng Minh-Lan đã ở và có lẽ đã chết trong đó, thành phòng 309 “đặc-biệt như Dũng dã biết ”. Có lẽ, Minh-Lan nhớ nghề cũ hay muốn giải-trí, nên mỗi tháng vào lúc có trăng thật sáng, nàng thường hiện ra và ái-ân với ai thuê đúng nơi nàng đã ở trong nhiều năm tại phố cổ.
Nguyễn cười cười nhìn Dũng và nói:
Chuyến thăm phố cổ của Dũng gặp được Minh-Lan, một mỹ-nữ đôi mươi, thân hình với những đường cong đầy hấp-dẫn, mặc xường-xám và “thỏ-thẻ” tiếng Anh như gió, trong một đêm Trung Thu, trăng sáng diễm-tuyệt, thật đáng nhớ đời đấy!. -/.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét