Chúng tôi được tiếp tế 10 ngày lương khô rồi chuyển vùng. Hơn nửa năm sau trận Dak Tô 1969 tôi mới quay lại Bắc Kontum.Trực thăng vừa bay qua cầu Diên Bình, trước mắt tôi đã thấp thoáng những mái tôn chói nắng từ Tân Cảnh. Bên trái tôi, xa xa là Phi trường Phượng Hoàng, rồi tới Ngok Ring Rua, và Ben Het. Cảnh cũ vẫn chưa thay đổi, nhưng người anh cả của chiến trường đã không còn nữa. Vào vùng, tôi chạnh lòng nhớ tới “Thẩm Quyền 5”. “Thẩm Quyền 5” là danh xưng truyền tin của Ðại Tá Nguyễn Bá Liên, Tư Lệnh Biệt Khu 24.
Thẩm Quyền 5 đã không ngừng theo dõi bước chân đại đội tôi suốt một tuần lễ dài của trận đánh đẫm máu nhất năm 1969 của Vùng 2. Ngày đó bất cứ lúc nào tôi lên máy cũng nghe tiếng Thẩm Quyền 5:
“Thái Sơn! Ðây là Thẩm Quyền 5! Cố gắng lên em! Em giỏi lắm! Cố gắng lên em!”
Ngay khi chiến dịch kết thúc, dù đang bận rộn, Thẩm Quyền 5 cũng cố gắng bay về Quân Y Viện Pleiku thăm hỏi tôi một lần. Trận này tôi bị thương nặng, vỡ xương vai.
Ðầu tháng 12 năm 1969 trực thăng của Thẩm Quyền 5 đã bị địch bắn cháy ngay khi vừa cất cánh rời Căn cứ Hỏa Lực số 6 Ngok Ring Rua. Tôi được tin đau lòng này trong khi đang tham dự chiến dịch giải vây cho Trại Lực Lượng Ðặc Biệt Bu Prang, Quảng Ðức.
Nay tôi đem quân trở lại chiến trường xưa, thì người chỉ huy vừa can trường vừa đức độ của tôi đã không còn! Thêm vào đó, vùng hành quân này cũng đã mất tên, danh hiệu quân sự “Biệt Khu 24” chỉ còn trong dĩ vãng.
Chúng tôi vỏn vẹn chỉ có trên dưới 60 mạng, chứa không đầy 8 chiếc HU1D (thường được gọi là UH1D) nên việc đổ quân xuống sân của hậu cứ Trung Ðoàn 42 Bộ Binh cũng thật là dễ dàng.
Tôi để lại trên đỉnh Ngok Long 1 anh y tá, 1 toán 6 trinh sát viên, 3 anh truyền tin cùng với 2 máy PRC 25 và cây angten 292, rồi bay về Tân Cảnh ở với Ðại đội 2 Trinh Sát của Thiếu úy Ðinh Quang Biện.
Chúng tôi tá túc trong căn nhà tôn sát nách câu lạc bộ. Còn 2 anh cố vấn Mỹ của tôi thì ngủ nhờ trong căn nhà vòm chứa ban Cố Vấn Hoa Kỳ của trung đoàn.
Tôi vào Trung Tâm Hành Quân để họp bàn với ông Trung Tá trung đoàn trưởng. Ông trung đoàn trưởng là một sĩ quan đã luống tuổi, phong cách rất từ tốn và hiền hòa. Thấy tôi có vẻ băn khoăn trước bức tường sừng sững, ghép bằng những tấm bản đồ tỷ lệ 1/100,000 trước mặt, trên đó, nơi tôi dự trù sẽ đổ quân lại nằm trong vùng oanh kích tự do, ông vội nói:
– Trung úy yên tâm! Quân đoàn đã thông báo rằng, ranh giới oanh kích tự do sẽ bị đẩy xa về hướng Ðông thêm 6 cây số nữa trong suốt thời gian Biệt Ðộng Quân hiện diện.
Ông tỏ ra rất vui khi biết tôi xuất thân Khóa 20 Võ Bị. Ông cho tôi hay đại đội phòng vệ hậu cứ của ông hiện giờ cũng do Trung úy Tuân, bạn cùng khóa của tôi chỉ huy. Ông cho chúng tôi mượn một chiếc xe Dodge 4×4 để sử dụng cho việc chợ búa và tiếp tế nước dùng hàng ngày.
Lần hành quân này tôi được chỉ thị rõ ràng là chỉ làm công tác trinh sát thuần túy. Do đó, tôi không dự trù bất cứ hành động nào nhằm sử dụng pháo yểm hay không yểm cho các cánh quân. Tiêu lệnh đề ra cho 3 toán Viễn Thám bắt buộc phải tuân theo:
“Nếu bị bại lộ thì tự vệ, rồi chạy!”
Trước khi bay lên Tân Cảnh, tôi có ghé Phòng 2 Quân Ðoàn vài phút, tôi đã trực tiếp nghe Trung tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Khu 2 nhắc nhở:
– Trung tướng (Lữ Lan) muốn cậu vào vùng là để tìm mục tiêu cho Ðại úy Ngọc! Tránh giao tranh, càng ít càng tốt!
Ðại úy Ngọc là Trung Tâm Trưởng,Trung Tâm Mục Tiêu của Phòng 2 Quân Khu 2. Trung tâm này là nơi tổng kết tin tức địch toàn Vùng 2 Chiến Thuật rồi thiết lập các sơ đồ oanh kích B52 đểTư lệnh QuânKhu chuyển giao cho Mỹ thi hành. Nhiệm vụ của tôi là theo dấu Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công của Mặt Trận B3 Cộng Sản.Ðơn vị Việt Cộng này lâu nay thường quấy rối, đánh mìn, phục kích đoạn Quốc lộ 14 gần Tân Cảnh và quận lỵ DakTô. Trung tá Tiếu cho tôi hay, trước đây, Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công hoạt động trong vùng Bắc Dak Mot tức là hướng chính Bắc của PhiTrường PhượngHoàng.Nhưng gần đây, các đơn vị Dân Sự Chiến Ðấu của 2 trại Dak Séang và Ben Het liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân liên ranh hướng Tây Quốc lộ 14, nên đơn vị này phải chạy về ẩn náu trong khu vực núi non hướng Ðông thị trấn Tân Cảnh.
Theo tôi suy đoán thì khu vực rừng rậm quanh chân hai ngọn núi Ngok Wan và Ngok Sie là vùng đáng nghi ngờ nhứt để Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công Cộng Sản trú ẩn.
Hôm sau, 3 toán Viễn Thám được thả; toán An Giang xuống làng Bon Du 4 cây số Ðông Bắc Quận lỵ Dak Tô; toán Bắc Bình xuống làng Dak Men cách Tân Cảnh 5 cây số về hướng Ðông Bắc; còn toán Cam Ranh thì nhảy xuống ngọn đồi tranh chỉ cách đài tiếp vận Ngok Long chừng 2 cây số về hướng Tây; toán này vừa giữ nhiệm vụ tiếp cứu hai toán đầu, vừa kiểm soát con đường xe be từ làng Dak Long 1 tới Quận lỵ Dak Tô.
2 ngày trôi qua bình yên. Ngày thứ 3 toán An Giang của Thiếu úy Minh báo cáo rằng trên bờ suối Dak Rơnu có nhiều dấu chân voi thồ vượt cạn theo hướng Ðông,Tây. Ước tính đoàn voi vận chuyển này cũng cỡ 5,7 con voi thồ, cùng hàng chục người đi theo bảo vệ. Tôi ra lệnh cho toán này men theo con đường thồ leo lên đỉnh ngọn núi nằm giữa Dak Rơnu và Dak Sing, rồi kiếm một vị trí thuận lợi giăng mìn phục kích địch để kiếm tài liệu.
Qua ngày thứ tư, Thiếu úy Nhờ, trưởng toán Bắc Bình, cũng báo, toán của anh vừa phát giác một khu doanh trại bằng tre nứa có nhiều hầm hào phòng thủ trong khu rừng già, bên cạnh một bãi ngô. Nơi này nằm trên con đường xe be cũ cách Dak Men khoảng 1 cây số về hướng Bắc. Lực lượng địch ở đây ước chừng một đại đội chính quy, người Bắc.
Tôi thấy con đường từ Dak Men vào tới khu trú quân của địch là độc đạo, bên trái là đồng cỏ tranh, bên phải là vách núi, nếu bị địch phát giác chặn nút hai đầu thì toán của ông Nhờ khó thoát. Tôi bèn ra lệnh cho Bắc Bình leo ngay lên đỉnh ngọn núi hướng chính Ðông con lộ. Sau đó toán sẽ men theo triền núi tiến về hướng Ngok Sie. Từ trên cao họ có thể nhìn thấy những ngọn khói bốc lên trong thung lũng dưới chân núi.Những cụm khói này cho ta biết khái quát vị trí nghi ngờ có địch.
Xế chiều, khi bản tin trong ngày của tôi vừa được mã hóa chuyển đi thì ông hạ sĩ quan trực hành quân của bộ binh tìm gặp tôi và báo rằng Trung tá Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân cần gặp tôi gấp trên hệ thống máy PRC 74. Trên hệ thống truyền tin này chúng tôi có thể đàm thoại với nhau bằng bạch văn.
Ðầu dây bên kia, Trung tá Trịnh Văn Bé, Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân nói:
– Này Long! Có thằng đồ đệ của cậu từ Hội An vào. Nó ở nhà mình cả tuần lễ rồi. Nó đang chờ gặp Long! Có về được không thì cho nó hay? Nghe nói nó còn phải đi Vũng Tàu học truyền tin. Nếu phải chờ lâu, chắc nó bị lỡ ngày khai giảng.
Nghe hỏi, tôi ngớ người ra:
– Tôi không có thằng đồ đệ nào đang ở Hội An cả! Chắc là ai đó lầm người!
– Nó xưng tên là Nguyễn Hồng Phong, lính của Long từ ngày Long mới ra trường, khi Tiểu Ðoàn 11 còn ở ngoài Ðà Nẵng.
Thế là tôi nhớ ra ngay:
– Nếu nó xưng tên là Nguyễn Hồng Phong thì nó là thằng đồ đệ ruột của tôi ngày xưa đó! Bình Minh cho nó tá túc ít ngày, chờ tôi về!
“Bình Minh” là danh hiệu truyền tin của Trung tá Trịnh Văn Bé. Ông Bé có căn nhà trong cư xá Trần Quý Cáp, vợ con ông còn ở Sài Gòn, nên ông cho tôi và Thiếu úy Ðặng Hữu Duyên, sĩ quan tiếp liệu của liên đoàn ở nhờ một phòng. Trong nhà còn có 2 người đàn em của tôi là Trung sĩ Nguyễn Lác và Hạ sĩ Nguyễn Tiến, tài xế. Có lẽ chú Phong đang tá túc trong nhà Trung tá Bé, nên ông Bé mới nói: “Nó ở nhà mình cả tuần lễ rồi.”
Ngay lúc ấy, Trung sĩ Nguyễn Lác cũng xen vào:
– Trình Thái Sơn, năm 1966 em là binh nhì, tân binh ở Ðại đội 1, anh Phong đã là hạ sĩ ở Ðại đội 3. Anh Phong là người nấu cơm cho Thái Sơn. Anh Phong bây giờ là trung sĩ đang ở Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, nhân chuyến đi học truyền tin, anh ấy ghé thăm Thái Sơn. Ảnh có đem theo 10 con cua Cửa Ðại. Cua là do má của Thái Sơn gửi vào, nhưng chờ lâu quá, cua chết hết rồi! Ðể em đưa máy cho anh Phong nói chuyện với Thái Sơn nhé!
Hình như chỉ chờ có thế, đầu dây bên kia đã có tiếng người nghẹn ngào:
– Ông thầy! Ông thầy ơi! Em chờ ông thầy gần chục ngày nay. Cứ tưởng sau khi nhảy toán ở Mang Giang xong thì ông thầy sẽ về, nào ngờ, tới hôm nay em vẫn chưa được gặp mặt ông.
Ðúng là chú Phong rồi! Vẫn cái giọng Bắc Kỳ khào khào, quê quê ngày xưa.....
Tháng 2 năm 1966, vì lý do kỷ luật, Trung sĩ hiện dịch Nguyễn Hồng Phong bị giáng cấp xuống hạ sĩ, từ Quân Lao Mang Cá về trình diện Ðại Ðội 3/11 Biệt Ðộng Quân. Hôm đó tôi cũng vừa tới đơn vị này sau khi tốt nghiệp Khóa 20 Ðà Lạt và Khóa 23 Rừng Núi Sình Lầy.
Từ ấy Hạ sĩ Nguyễn Hồng Phong thành người nấu cơm cho Thiếu úy Vương Mộng Long.
Ðầu đời lính, tôi có 3 anh đồ đệ: Hạ sĩ Nguyễn Hồng Phong, nấu cơm, Binh nhất Mai Ðăng Vinh truyền tin và Binh nhất Lý Thí mang đồ ngủ.
12 ngày sau, Lý Thí và Mai Ðăng Vinh chết trong trận Tháp Bằng An, Quảng Nam, còn lại một mình Nguyễn Hồng Phong. Chú Phong trở thành thuộc cấp thân thiết nhất của tôi. Tới khi Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân bị lôi cuốn vào vụ Phật Giáo MiềnTrung thì chú Nguyễn Hồng Phong đã theo sát bên tôi suốt thời kỳ binh biến này cho tới khi tôi và Phong chạy vào chùa, cạo đầu, xuống tóc, thành 2 tỳ kheo Thích Như Tùng và Thích Như Sơn của Long Tuyền Tự, Hội An.
Sau đó tôi bị tù, bị giáng cấp xuống trung sĩ còn Phong thì phiêu dạt phương trời nào, tôi không biết.
Thế rồi, tháng 7 năm 1967 hết hạn phạt giam, tôi về Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ chờ lấy sự vụ lệnh để lên Pleiku, thì bất ngờ thầy trò tôi gặp lại nhau.
Trưa hôm đó tôi đang la cà trong câu lạc bộ thì thình lình bị một người nhào vào ôm chặt:
– Thầy ơi! Thầy ơi!
Người ôm tôi là một tân binh, đầu trọc lóc! Mặt anh ta, thật dễ nhận, với đôi mắt xếch, và một vết sẹo dài trên má trái. Tôi giật mình:
– Phong! Phong đó ư?
Anh tân binh vừa khóc thút thít, vừa kể lể:
– Vâng! Em đây! Thầy ơi! Em nghe Bác (mẹ tôi) nói, sau khi ra khỏi Quân Lao Mang Cá, thầy đã bị đưa lên Pleiku, em liền mua một tờ khai sinh với cái tên mới rồi tình nguyện làm tân binh Biệt Ðộng Quân. Mãn khóa này em sẽ xin lên Pleiku gặp thầy!Tên em bây giờ là Lê Văn Ơn!Thầy cứ gọi em là Ơn! Ðừng gọi là Phong nữa!
Nghe vậy, tôi đoán chắc Phong đã ghé Hội An, và được nghe mẹ tôi kể cho biết chuyện tháng 10 năm 1966 tôi đã bị đưa lên Vùng 2 sau khi ra khỏi Quân Lao Mang Cá. Chắc chú ấy không hay những chuyện xảy ra sau này. Vì tôi giấu, nên chính mẹ tôi còn không hay chuyện tôi lận đận lao đao cả năm dài vì vụ Ðà Nẵng 1966.
Chúng tôi không nói chuyện với nhau được lâu, vì thời gian ở câu lạc bộ của tân binh rất giới hạn, và hình như một tuần lễ, họ mới có dịp tới đó một lần.
Sau hôm ấy, cho tới khi lên đường về Pleiku, tôi không còn gặp lại Phong.
Ở Pleiku, mỗi khi có tân binh bổ sung, tôi đều nhờ ông Trung úy Trọng, sau là Trung úy Giáp, Sĩ quan Trưởng Ban 1 Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân tìm xem có ai là Lê Văn Ơn không, nhưng tuyệt nhiên chẳng có tân binh nào mang tên này. Giữa năm 1968, tôi đọc được, trong thư mẹ tôi gửi vào, có câu: “Thằng Phong đang làm Trung Sĩ ở ngoài Huế.” Bà mẹ tôi biết chuyện này cũng vì nhân dịp vào Hội An thăm nhà tôi, Phong đã kể:
“Năm 1967, sở dĩ có chuyện Phong đổi họ, đổi tên, tình nguyện làm binh nhì Biệt Ðộng Quân cũng chỉ vì chú ấy hy vọng sau khi ra trường, sẽ được đưa lên Pleiku, ở gần ông thầy của chú. Nhưng tới khi mãn khóa tân binh Dục Mỹ, thấy tên Lê Văn Ơn nằm trong danh sách bổ sung quân số cho Liên Ðoàn 1 Biệt Ðộng Quân ngoài Ðà Nẵng thì chú ấy lại đào ngũ lần nữa!”
Phong tiếp tục cuộc sống bất hợp pháp nơi quê vợ Quảng Trị cho tới sau biến cố Tết Mậu Thân.
Sau Mậu Thân, chính phủ ban lệnh ân xá và miễn tố cho tất cả quân nhân đang tại đào. Cho phép họ phục hồi cấp bậc cũ và trở về phục vụ trong quân ngũ.
Thế là chỉ nửa năm sau khi trình diện và cầm súng trở lại, Hạ sĩ tiểu đội trưởng Nguyễn Hồng Phong đã lên tới trung sĩ, được giao cho chức vụ trung đội phó bộ binh.
Ðã mấy lần tôi về thăm Hội An nhưng không có thì giờ ra Huế. Thầy trò tôi từ ngày nói chuyện được vài câu năm 1967, ở Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ, tới 1970 vẫn chưa nhìn lại mặt nhau.
Tôi thấy mắt mình nhòa đi, khi nghe đầu dây bên kia, người đàn em của tôi đang khóc:
– Thầy ơi! Thầy ráng giữ gìn sức khoẻ! Nếu trời không cho chúng mình gặp lại nhau kiếp này, kiếp sau em lại xin tình nguyện làm đồ đệ của thầy lần nữa!
Tôi vội hứa:
– Mai nếu không có gì thật quan trọng xảy ra, anh sẽ về gặp chú.
– Vâng! Em sẽ chờ ông thầy! 2 ngày nữa khóa truyền tin khai giảng. Nếu trình diện trễ, họ không nhận và đuổi về. Nói thế chứ, việc em cần là gặp mặt ông thầy, dù có trễ và bị đuổi về đơn vị em cũng chẳng ngán!
Sau khi trò truyện với Phong vài phút nữa, tôi gác máy rồi sang khu Cố Vấn Hoa Kỳ của Trung Ðoàn 42 gặp Goodell. Tôi nhờ anh ta ngày mai xin cho tôi một trực thăng để đi quan sát vùng hành quân, sau đó lấy cớ có việc cần phải về hậu cứ Pleiku, tôi có dịp nói đôi câu với Phong trước khi chú ấy đi Vũng Tàu. Hình như số trời không cho thầy trò tôi được gặp nhau lần nữa, nên mới mờ sáng hôm sau, qua đài tiếp vận, toán Cam Ranh của Trung sĩ Lê Sanh Ma báo cáo chạm địch.
Một con chó săn (?) của du kích Thượng đã đánh hơi, phát giác ra trong ruộng ngô bên đường xe be có người. Toán này phải chạy bán sống bán chết. Hiện giờ chưa rõ vị trí chính xác của toán này đang ở đâu.
Vậy là thay vì xin trực thăng để về Pleiku, tôi lại dùng trực thăng để thả tôi và 2 anh Mỹ cùng một toán viễn thám khác xuống đài tiếp vận.
Ðỉnh Ngok Long cao 1075 mét nên từ đây tầm quan sát của tôi thật là mút mắt.Cách Ngok Long chừng 2 cây số về hướng Tây Bắc là con đường xe be nhìn giống như một con trăn lớn, nằm ngoằn ngoèo theo hướng Ðông Nam, Tây Bắc, vắt ngang một ngọn đồi tranh.
Trưa hôm đó tôi bắt liên lạc được toán Cam Ranh. Toán đang cố gắng tìm cách đánh lạc hướng địch.
Xế chiều, toán Cam Ranh mới bơi qua con suối Dak Sing. Toán không thể thoát chạy nhanh như mọi lần trước đây, chỉ vì có một người bị thương vì... chó cắn!
Tôi dẫn theo anh y tá và 4 viễn thám viên xuống núi đón ông Ma. 6 người của tôi tới cái yên ngựa cách Ngok Long chừng 1 cây số thì nghe tiếng súng AK nổ rộ từ bờ Bắc của suối Dak Sing. Thung lũng Dak Sing toàn là đầm lầy và đồng cỏ tranh rất trống trải. Có lẽ địch đã nhìn thấy quân ta bên bờ Nam, nên nổ súng bắn theo.
Chẳng đặng đừng, tôi phải gọi Trung Ðoàn 42 xin pháo binh Hoa Kỳ từ Dak Mot bắn phủ vùng một đoạn đường từ Dak Long 1 tới bờ suối, hy vọng chặn được đoàn quân địch đang truy kích quân ta.
Ở Dak Mot có 1 pháo đội 16 khẩu 105 ly của Mỹ. Muốn yêu cầu bao nhiêu tràng họ cũng thỏa mãn ngay.
2 tiếng đồng hồ sau, toán Cam Ranh mới về tới cái yên ngựa. Quần áo người nào cũng đỏ lòm vì bùn lầy. Bùn vùng này thật là đặc biệt, màu bùn đỏ như máu tươi, đi tới đâu, bùn từ quần áo giày vớ lại bám trên ngọn tranh, không có cách gì xóa dấu vết được.
Anh y tá vội dùng rượu cồn để rửa vết chó cắn trên đùi anh thương binh. Tôi cũng ngồi bên, giúp anh một tay. Người bị chó cắn là Binh nhì Lê Hóa. Vết thương trên đùi chưa được băng bó, lại bị ngâm nước bùn nhiều giờ, nay đã sưng tấy lên.
Bất ngờ, “Xoẹt!...” từ dưới dốc, một vật gì đó hình thù như một cái gối ôm đen thui phóng lên ngay bên hông tôi! “Rẹt! Rẹt! Rẹt!...”
Hạ sĩ Chạy đã nhanh tay “đẩy” một băng M16. Cái gối ôm màu đen văng sang bên lối mòn, thì ra đó là một con chó săn! Ðầu con chó bị đạn bắn vỡ toác. Máu chó văng tung toé. Tôi hét lên:
– Tụi thằng Chạy ở lại cản đường! Tụi thằng Ma kéo thằng Hóa lên đài tiếp vận! Nhanh lên!
Chúng tôi vác anh viễn thám bị chó cắn leo lên chưa được nửa đường tới đỉnh Ngok Long thì dưới chân núi toán của Hạ sĩ Chạy bắt đầu đánh nhau. Nghe tiếng súng địch, tôi thấy không phải là tiếng súng hỗn tạp của du kích Thượng Cộng, mà rõ ràng là tiếng AK và RPD của quân chính quy. Súng của du kích thường là loại bắn từng phát một, không có súng bắn liên thanh từng tràng. Lực lượng địch đang truy sát chúng tôi chắc chắn là trực thuộc một đơn vị chính quy Cộng Sản.
Tới đài tiếp vận, tôi cho anh em bố trí một vòng cung hướng về con đường mòn đầu dốc.
Mặt trời lặn từ từ...
Dưới chân núi vọng lên năm sáu tiếng “Ùm! Ùm! Ùm!...” liên tiếp rồi im. Chắc quân ta đã cản địch bằng lựu đạn M26 trước khi rút. Không lâu sau, toán 4 người của Hạ sĩ Chạy về tới chỗ quân bạn. Toán của Hạ sĩ Chạy vừa lên tới đỉnh núi thì dưới chân dốc có tiếng mìn nổ và tiếng chó kêu “Ăng ẳng!” Chắc chắn vài con chó săn và vài tên địch đã bị bẫy gài của chú Chạy đốn gãy cẳng rồi. Nhớ lại, hồi sáng, vừa nghe toán của chú Ma báo cáo là bị chó cắn, tôi đã hơi nghi. Vì xưa nay tôi đã hành quân qua nhiều buôn làng của người Thượng, hiếm khi thấy chó sủa người, chứ đừng nói tới chuyện chó tấn công người. Chó của dân Thượng chỉ sủa và cắn thú rừng, tuyệt nhiên chúng không cắn người!
Tối đó chú Ma kể lại tường tận diễn tiến sự việc, tôi mới rõ nguyên nhân vì sao mà toán của chú bị địch đuổi phải chạy vắt giò lên cổ.
Số là,sau khi đặt chân xuống bìa làng Dak Long 1 đã bỏ hoang, Trung sĩ Ma cho quân tụt xuống suối ém quân suốt 4 ngày. Tới khi nghe các toán khác phát giác dấu vết địch, Ma mới cho quân leo lên đỉnh ngọn đồi tranh hướng Bắc để dễ liên lạc và dễ bắt tay với 2 toán kia.
Tới đỉnh đồi, họ đụng phải một bãi ngô đang có cờ, anh em tưởng đây là nương rẫy của dân Thượng từ ngoài Dak Tô vào canh tác. Gần nửa tháng ở trong rừng, từ Mang Giang qua Dak Tô không có cọng rau nào trong bụng, ai cũng thấy xót ruột. 6 chàng viễn thám lủi vào ruộng ngô,mỗi người cạp vài bắp ngô non cho mát ruột.
Nào ngờ, “Gâu! Gâu! Gâu!...” 4, 5 con chó xông vào tấn công. 5 viễn thám viên vọt nhanh xuống suối. Riêng Binh nhì Lê Hóa vì luống cuống bởi chiếc ba lô chứa cái máy PRC25 nên chậm chân. 2 con chó săn bự xự nhào vào hai chân của Hóa. Hai hàm răng chó vừa nhọn, vừa sắc cắn tới tấp rồi nhay qua nhay lại. Ðau quá, Hóa nhắm mắt quơ đại một băng 20 viên M16 rồi phóng xuống đồi. Thì ra đỉnh ngọn đồi đó là vị trí 1 đơn vị tiền tiêu của địch. Từ đỉnh đồi này chúng có thể kiểm soát 2 trục lộ tiến sát từ Dak Tô và từ Tân Cảnh. Chắc chắn đây là 1 đơn vị Trinh Sát hay Ðặc Công; các đơn vị cấp tiểu đoàn Ðặc Công hay Trinh Sát Việt Cộng mới có chó săn để dò đường và dẫn đường. Cũng may là mùa này gió theo hướng Ðông Tây, mấy ngày qua, toán Cam Ranh nằm cuối gió nên không bị chó đánh hơi, phát giác. Tới khi nghe tiếng súng của viễn thám viên Lê Hóa nổ “Ðùng! Ðùng!” bọn Việt Cộng mới biết có địch xâm nhập. Tới khi chúng tập họp đủ quân số để truy kích thì kẻ địch của chúng đã chạy xa rồi.Tôi thở ra nhẹ nhõm khi thấy quân ta không bị tổn thất gì đáng kể.
Hiện thời chúng tôi chỉ có hơn 20 tay súng, kể cả anh Hóa thương binh và 2 anh cố vấn Mỹ. Ðỉnh núi Ngok Long lại quá rộng và bằng phẳng, không có chỗ nào có thể cho chúng tôi dựa lưng để chống đỡ nếu địch mở ra những đợt tấn công liên tiếp.Ðạn mang trên lưng chúng tôi cũng không nhiều, nếu phải đánh nhau suốt đêm thì chúng tôi sẽ nguy ngay. Tôi nghĩ, nếu địch tiếp tục truy kích chúng tôi thì chắc chắn chúng sẽ theo con đường mà tôi đã dùng để đổ dốc sáng nay.
Tôi bèn trải quân theo hình cánh cung đóng chốt đôi ngay đầu con đường mòn. Ngoài 2 trái Claymore sẵn sàng, chúng tôi còn chuẩn bị gần chục trái lựu đạn M26 để nghênh đón địch ngay đầu dốc.
Ðêm xuống, bóng tối dâng lên, tinh thần chúng tôi càng lúc càng thêm căng thẳng. Sợ địch sẽ lợi dụng bóng tối để leo lên tập kích, tôi nhờ Goodell xin không quân yểm trợ gần. Chỉ nửa giờ sau, 2 trực thăng võ trang Cobra đã đảo một vòng trên đầu tôi. Tôi điều chỉnh Cobra đánh sát chân Ngok Long, rồi từ đó kéo dài vùng oanh kích xa dần về hướng Tây Bắc. Khi Cobra rời vùng, tôi đã có sẵn một máy bay Hỏa Long AC 47 lên thay thế.
Chúng tôi được Hỏa Long bao vùng cho tới gần sáng.
Ðêm đó Binh nhì Hóa bị vết chó cắn làm độc, lên cơn sốt mê man.
Mặt trời chưa lên, mọi người đã ba lô, súng đạn gọn gàng. Tôi cho người thay nhau cõng chú Hóa và theo chân nhau tụt xuống núi lánh nạn. Tôi quyết định không đổ thêm quân vào vùng. Trừ bị của tôi chỉ còn một trung đội nằm ở Tân Cảnh. Nếu sử dụng nốt trung đội này, sẽ không còn ai tiếp cứu nữa. Sau đó lại phải đánh nhau với một lực lượng địch 4-5 lần mạnh hơn mình trong rừng rậm thì chết là cái chắc! Rút lui khỏi đây càng nhanh càng tốt mới là thượng sách.
Tới trưa, bên một vách núi chênh vênh, chúng tôi an toàn leo lên trực thăng về Tân Cảnh. Ngày sau nữa tôi triệt xuất 2 toán còn lại không trở ngại.Về tới Tân Cảnh, tôi tập họp các toán lại, để đúc kết tình hình.
Dịp này toán Bắc Bình báo cáo rằng trong những ngày vừa di chuyển vừa theo dõi địch, họ phát giác ra 5, 6 vị trí khói bốc lên rải rác trong thung lũng Dak Sing, cặp theo con đường xe be chạy dài từ Dak Men vào tới chân núi Ngok Sie. Ngày nào cũng thế, các lùm khói chỉ xuất hiện vào lúc mờ sáng khi sương mù chưa tan; tới khi nắng lên thì cảnh vật trở lại yên tĩnh, không có gì đáng nghi. Thiếu úy Nhờ cho rằng những cuộn khói ban mai đã bốc lên từ các bếp nấu cơm hàng ngày của Việt Cộng. Từ những dữ kiện trên, tôi suy ra, đơn vị Việt Cộng nằm dài theo thung lũng Dak Sing dưới kia chính là Tiểu Ðoàn 37 Ðặc Công của Mặt Trận B3 Cộng Sản.
Chúng tôi có một ngày nghỉ ngơi rồi lên trực thăng rời Tân Cảnh.
Trung Tá Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn không tiếc lời khen ngợi chúng tôi đã hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ được giao phó.
Trung tướng Lữ Lan, Tư lệnh Quân Khu 2 cũng đã vui vẻ ra tận bãi đáp trực thăng của Thành Pleime để bắt tay và nói lời khích lệ tinh thần chúng tôi.
Tôi về tới Cư Xá Trần Quý Cáp, Pleiku thì chú Phong đã đi rồi. Trung Tá Bé kể lại:
– Thằng học trò của Long đúng là một tên “gàn” hết cỡ! Có 10 con cua của bà má Long gửi vào, anh bảo nó luộc lên rồi cất đi chờ Long, nó không nghe. Mỗi ngày vài con cua chết; qua 5 ngày thì chẳng còn con nào. Cả ngày nó cứ đi ra, đi vô, không yên. Ðêm nào anh cũng nghe tiếng nó khóc. Tội nghiệp quá!
Không lâu sau, mẹ tôi bất ngờ vào Pleiku báo cho tôi một tin thật là buồn:
– Vợ thằng Phong mới bế đứa con gái nhỏ vào Hội An báo cho mẹ biết rằng thằng Phong chết rồi! Vợ nó nói, thằng Phong được đi học truyền tin ở Vũng Tàu, nhưng cứ mải đi chơi,trình diện trễ, bị trả về nhiệm sở cũ. Ít lâu sau thì tử trận! Mẹ đã cho vợ nó một số tiền và dặn, bất cứ lúc nào nó cần giúp đỡ thì cứ vào Hội An gặp mẹ.
Vừa kể chuyện này, mẹ tôi vừa lau nước mắt. Chú Phong mồ côi mẹ. Từ đầu năm 1966, khi nhà tôi còn cư ngụ tại Khu Hồ Sen chùa Âm Bổn, Hội An, chú Phong tới thăm mẹ tôi lần đầu, chú ấy đã coi mẹ tôi như là mẹ chú ấy. Mỗi khi ghé nhà tôi, chú thường gọi mẹ tôi,
“Mẹ ơi! Mẹ ơi!...”
Chú Phong mất, mẹ tôi cũng đau lòng như vừa mất một người con mang nặng, đẻ đau. Tin này đã khiến lòng tôi áy náy không yên một thời gian khá dài.
Nếu ngày đó mẹ tôi không gửi 10 con cua Cửa Ðại vào Pleiku cho tôi, chắc chú Phong đã đi thẳng một lèo từ Hội An vào Vũng Tàu rồi.
Nếu ngày đó chú Phong tới Pleiku, tôi vắng nhà, chú không chịu chờ, chắc chắn chú ấy đã không bị trình diện trễ.
Nghĩ xa hơn, nếu năm 1967 anh tân binh có tên Lê Văn Ơn được bổ sung cho Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân ở Pleiku, thì biết đâu anh ta vẫn còn sống!
Cuối cùng tôi đành tự an ủi:
“Con người sống chết có số. Cái số của chú ấy đã như vậy rồi, thì có cưỡng cũng chẳng được!”
Ðầu tháng 7 năm 2013, một người đàn ông, giọng trọ trẹ, từ Phong Ðiền, Quảng Trị, Việt Nam gọi điện thoại cho tôi ở Seattle:
– Trung úy ơi! Cái bật lửa Zippo có khắc giòng chữ “TA LÀ VUA” của Trung úy có còn đó không? Nếu còn, ông cho em mượn để mồi một điếu Lucky!
Vừa nghe câu này, tôi biết ngay rằng người ở đầu dây bên kia phải là người đã từng cùng tôi chia ngọt sẻ bùi trong suốt thời gian dài ở Ðại đội 1/11 Biệt Ðộng Quân từ 1967 tới 1969. Họ biết ngày đó tôi có cái Zippo khắc giòng chữ “TA LÀ VUA” vừa khinh mạn, vừa ngổ ngáo, cũng như họ biết trong túi tôi lúc nào cũng có một bao thuốc lá hiệu Lucky không đầu lọc.
Sau này, dù tôi đã đeo lon đại úy, thiếu tá lâu rồi, những thuộc cấp cũ của tôi và cả vợ con họ, mỗi khi gặp lại, đều kêu tôi là “Trung úy”.
Tôi không giấu nổi nỗi vui mừng nên la lớn:
– Ai đó?
– Lụa đây Trung úy! Trung úy có nhớ tên em không?
– Okay! Nhớ rồi! Trung sĩ nhất Ðoàn Văn Lụa ở Ðại đội 1! Lụa đang ở đâu vậy? Có khoẻ không? Gia đình bình yên chứ?
– Dạ, em đang ở quê Quảng Trị, em mới tìm được số điện thoại của Thái Sơn, em gọi Thái Sơn, trước là để thăm Thái Sơn và gia đình, sau là báo cho Thái Sơn biết rằng vợ thằng Nguyễn Hồng Phong đã mất cách nay mấy tháng rồi!
Trung sĩ nhất Ðoàn Văn Lụa là một tiểu đội trưởng ở Ðại đội 1/11 giải ngũ sau khi bị thương ở Ðà Lạt trong trận Tết Mậu Thân.
Tình huynh đệ chi binh vẫn còn đó, 45 năm qua đi, mà ông trung sĩ nhất tiểu đội trưởng vẫn chưa quên ông trung úy đại đội trưởng của mình. Tôi thắc mắc:
– Ủa! Lụa quen nhà thằng Phong à? Ðứa con gái của thằng Phong bây giờ đâu?
– Trình Thái Sơn, vợ thằng Phong là em ruột của Lụa. Sau khi thằng Phong chết, cô ấy đem con về quê Quảng Trị ở nhà em. Cách nay vài tháng cô ấy qua đời vì bệnh. Còn đứa con cô ấy thì bỏ xứ, đi làm xa, lâu lắm rồi không có tin tức gì.
Vì từ năm 1974 mẹ tôi đã di chuyển vào Sài Gòn định cư, nên gia đình tôi không còn biết thêm tin tức gì của vợ con chú Phong.
Mẹ tôi cứ áy náy rằng vợ chú Phong còn quá trẻ, năm chú Phong tử trận vợ chú mới trên 20 tuổi mà đã thành góa phụ, thật là tội nghiệp.
Tôi không hỏi thêm, nhưng qua cung cách nói chuyện của chú Lụa, tôi tin rằng người em gái của chú ấy một đời chỉ có một mối tình.
VƯƠNG MỘNG LONG,
K20-VBĐL
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét