Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

SẮC MÀU CỦA CÁI CHẾT (LA COULEUR DE LA MORT) - THÂN TRỌNG SƠN

Pema Tseden
万玛才旦. Vạn mã tài đản
( 1969 - 2023 )

Người đứng đầu nền điện ảnh Tây Tạng đang phát triển mạnh mẽ ngày nay, Pema Tseden cũng là một nhà văn trong hơn hai mươi năm, tác giả của nhiều truyện ngắn ông đã xuất bản chỉ trong năm năm qua. Sinh năm 1969, ông bắt đầu viết các bài báo về văn hóa, nghệ thuật Tây Tạng và truyện ngắn vào đầu những năm 1990. Đầu tiên ông viết bằng tiếng Tây Tạng và tiếng Trung Quốc và tiếp tục trong một thời gian dài, đôi khi dịch những câu chuyện của ông từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Trung Quốc, chẳng hạn như tác phẩm của ông về một bậc thầy vĩ đại của Phật giáo Tây Tạng xuất bản năm 2006 hoặc câu chuyện của ông xuất bản năm 2009, “Một câu chuyện dang dở” ( 说不完的故, thuyết phu hoàn đích cố sự ). 
<!>
Nhiều truyện được xuất bản từ cuối những năm 1990 trên các tạp chí văn học Tây Tạng như Popular Letters and Arts hay Light Rain. Trong một số câu chuyện này, ông thử nghiệm cấu trúc tường thuật. Ví dụ, đây là trường hợp của “Chödron và con trai ông ấy”, áp dụng nhiều cách kể cùng một câu chuyện: về một người mẹ và con trai của bà bị kết án tử hình vì tội trộm cắp, được kể bởi một người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, và bởi dân làng. Do đó, lời tường thuật kết hợp giữa hư cấu và hiện thực, cả hai đều hư cấu như nhau, được nhấn mạnh bằng phần kết mà người kể chuyện hứa sẽ viết một phiên bản của câu chuyện này dựa trên những sự kiện “có thật”.

Một quá trình tương tự được thực hiện trong truyện ngắn “Cuộc phỏng vấn với Akhu Thöpa” , kể cho chúng ta về một nhiệm vụ còn dang dở, của một ông già, trong quá khứ đã thu thập, định dạng và sao chép các văn bản Và những bài hát từ văn học đại chúng và văn học truyền miệng, và là bài hát mà một nhà báo đang cố gắng tìm kiếm vì tờ báo của ông ấy muốn tri ân ông. Cuộc tìm kiếm sẽ vẫn chưa hoàn thành, bởi vì Akhu Thöpa sẽ không thể theo dõi được, nhưng nó sẽ giúp thu thập lời khai từ những người thân yêu của anh ấy; Tuy nhiên, có rất nhiều thông tin khác nhau cũng như có những người đối thoại, về một nhân vật mà danh tính của họ bị mờ nhạt bởi bối cảnh chính trị đầy biến động làm sai lệch nhận thức về sự việc.
 
Xuất bản năm 1999, “Snow” là một thử nghiệm văn phong khác, sử dụng một hình thức hiện thực huyền ảo tương tự như truyện ngắn của Tashi Dawa (扎西达娃, Trác Tây Đạt Oa ) Giống như ông, Pema sử dụng nó như một phương thức phê phán: truyện ngắn châm biếm sự tiến hóa của xã hội Tây Tạng dưới ảnh hưởng của sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

Nhưng một số câu chuyện này đã được xuất bản bằng cả hai thứ tiếng, và đôi khi đầu tiên bằng tiếng Trung Quốc. Đó là trường hợp truyện ngắn “Cuộc sống trong thành phố” đăng trên tạp chí Light Rain của Tây Tạng năm 2003, được xuất bản lần đầu bằng tiếng Trung Quốc (chenshi shenghuo 《城市生活》, Thành thị sinh hoạt ), và tái bản năm 2014 trong tuyển tập “Ánh sáng đập vào của những viên đá thiêng” (《, 嘛呢石 静静地敲 ma ni thạch đại tĩnh tĩnh đại xao 》). Ông mô tả những căng thẳng về bản sắc của thế hệ trẻ người Tây Tạng, bị mắc kẹt giữa mong muốn tôn trọng các truyền thống cổ xưa và cuộc sống hiện đại nơi họ không còn chỗ đứng nữa.
 
Xung đột truyền thống/hiện đại được minh họa trong truyện ngắn này thông qua việc một cặp vợ chồng trẻ sống ở thành phố tiếp tục thực hành tsetar (hoặc giải phóng cuộc sống), bao gồm việc giải phóng những động vật bị kết án. Để đảm bảo sự hồi phục hoàn hảo cho đứa con trai sắp xuất viện, một cặp vợ chồng trẻ thả cá trong công viên thành phố trước con mắt kinh ngạc của những người qua đường. Và chính họ cuối cùng cũng nghi ngờ về giá trị hành động của mình, con cá sớm hay muộn sẽ bị đánh bắt ra ngoài...

Đó là một câu chuyện ngắn thể hiện sự chuyển đổi hướng tới sự phản ánh nhiều mặt về xã hội Tây Tạng hiện đại, những căng thẳng giữa cuộc sống du mục và cuộc sống thành thị, cuộc sống truyền thống và cuộc sống hiện đại, cũng như về vị trí của Phật giáo trong một xã hội ngày càng vật chất, cũng như trong phần còn lại của thế giới.
 
Pema Tseden luôn coi lĩnh vực viết lách và lĩnh vực điện ảnh là hai phương thức thể hiện hoàn toàn khác nhau, không trùng lặp. Cuối tuyển tập xuất bản năm 2011 là truyện ngắn “Tìm kiếm Drime Kunden” ( 寻找智美更登, Tầm hoa trí mỹ cảnh đăng ), được ông viết sau khi hoàn thành bộ phim “The Search” mà ông vẫn giữ tựa tiếng Trung - chứ không phải ngược lại.
 
Tương tự như vậy, tuyển tập truyện ngắn xuất bản năm 2014, “Sự rung động nhẹ nhàng của những viên đá thiêng” ( 嘛呢石,静静地敲 ), vang vọng, mười năm sau, bộ phim điện ảnh đầu tiên của ông “Sự im lặng của những hòn đá linh thiêng” ” ( 静静的嘛呢石 ), như để đào sâu ý nghĩa của nó, ngay từ tiêu đề: có lẽ là im lặng, nhưng có người ở.

Quan điểm về khoảng cách giữa văn học và điện ảnh chính là ý nghĩa của vài dòng viết cho lời nói đầu của tuyển tập được trích dẫn trong bài viết trên: viết văn được coi là sự biểu hiện của một không gian nội tâm, một không gian bình yên cần được gìn giữ trong vòng xoáy của cuộc sống. cuộc sống hàng ngày, một không gian chậm rãi đối lập với sự chuyển động không ngừng mà chúng ta bị cuốn đi trong đó...
 
Với bộ phim “Tharlo” (《塔洛, Tháp lạc 》), được ra mắt thế giới tại khu vực Orizzonti của Liên hoan Phim. Venice Biennale lần thứ 72, vào tháng 9 năm 2015,
giai đoạn sáng tạo mà anh ấy dường như đang bắt đầu: “Tharlo” được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của anh ấy, nằm trong số những truyện được dịch trong tuyển tập “Neige”. Đây là lần đầu tiên. Cách thể hiện điện ảnh lấy cảm hứng từ sáng tạo văn học, vượt xa nó và truyền vào nó một ý nghĩa sâu sắc hơn bằng cách mang lại cho nó giá trị ngụ ngôn.

Vào cuối tháng 3 năm 2023, ông hoàn thành việc quay một bộ phim mới có tựa đề “An Unknown” (《陌生人, Mạch sinh nhân 》), chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên, vai chính do nam diễn viên Hoàng Xuân (黃轩) thủ vai. )…
 
Và bất ngờ, vào sáng sớm ngày 8 tháng 5 năm 2023, tin ông đã đột ngột rời xa được loan báo.

*
Được đăng trên tạp chí văn học Fang Cao vào tháng 5/tháng 6 năm 20), truyện ngắn này minh họa phong cách và phương thức kể chuyện được Pema Tseden áp dụng vào đầu những năm 2010: tường thuật theo phong cách hiện thực, tưởng chừng như đơn giản, không có những mô tả thừa thãi, nhưng dựa trên sự phân tích tâm lý rất tinh tế, trên đó tất cả sự hồi hộp của câu chuyện đều được chắt lọc một cách khéo léo.
 
Câu chuyện - được viết bởi một ngôi thứ ba, người cố gắng giải quyết tình trạng tâm thần bị tắc nghẽn - diễn ra theo từng nét dần dần, theo diễn biến trạng thái tinh thần của nhân vật chính, cũng như mối quan hệ của anh ta với người anh trai và cô gái trẻ mà anh ta thích. Chính hoạt động tâm lý là động lực của lời kể và tư tưởng Phật giáo truyền thống đóng một vai trò quan trọng trong đó, làm nền tảng của tâm lý và là yếu tố quyết định thái độ và lựa chọn trong cuộc sống.
 
Đó là một câu chuyện tiên nghiệm nằm ngoài bối cảnh Tây Tạng, nhưng được đưa trở lại bối cảnh này bởi yếu tố tôn giáo dai dẳng trong tinh thần. Sự tinh tế của văn bản cũng ở mức này.



Khi tôi đến gặp Nyima [1] ngày hôm đó, tôi tự hỏi mình có thể nói gì với anh ấy, nhưng tôi không nghĩ ra được điều gì. Chỉ trước khi đi, tôi gọi điện nói với anh ấy: “Tôi về rồi, tôi sẽ đến thăm anh." Tôi nghe thấy anh ấy lầm bầm “humm” ở đầu dây bên kia rồi cúp máy.

Nyima có một em trai tên Dawa [1]. Cả hai là anh em sinh đôi; nhưng, vì Nyima được sinh ra trước vài phút, nên trên thực tế, anh ấy được coi là con cả.

Cha họ qua đời khi họ vẫn còn nhỏ, gánh nặng chăm sóc người em Dawa đổ lên vai Nyima và trong những lúc khó khăn, anh thường nói: “Thật không công bằng khi tôi sinh ra trước, thật tiếc là chú ấy không sinh ra trước tôi vài phút. "

Nyima là một đứa trẻ thông minh và tài năng, mọi người đều muốn trở thành bạn của anh, nhưng không ai muốn làm bạn của em trai anh, vì mọi người đều nói chú ta không bình thường cho lắm. Nhưng Nyima không muốn công nhận em mình như vậy. Anh ấy luôn nói rằng chỉ là Dawa vẫn còn nhỏ và lớn lên sẽ khá hơn.

Chỉ khi Dawa mười sáu tuổi, và một ngày nọ, chú vuốt ve ngực Drolma, Nyima mới tức giận, cuối cùng nói với em mình: “ Rốt cuộc thì chú thực sự điên rồ! "

Nhưng phản ứng duy nhất của Dawa là bật cười.

Drolma là bạn gái của Nyima và cô ấy xinh đẹp đến nỗi tất cả bạn bè đều hết sức ngưỡng mộ. Một ngày nọ, tôi nói với Nyima: “Anh thật may mắn khi tìm được một cô gái xinh đẹp như vậy, ngay cả một người có đầu óc đơn giản cũng nhận ra điều đó."

“Có lẽ, cuối cùng, ở tuổi mười sáu, có những điều chú ấy đã hiểu ra,” anh trả lời.

Tôi bật cười, nhưng Drolma trông có vẻ tức giận nên tôi muốn an ủi cô ấy: “Em nên vui lên, nhìn xem, ngay cả một người có đầu óc đơn giản cũng nhận ra rằng em xinh đẹp, điều đó cho thấy em không có vẻ đẹp bình thường."

Nyima cười khúc khích, Dawa cũng vậy. Drolma trông vẫn giận dữ, nhưng tôi bỏ qua vì tôi biết trong thâm tâm cô ấy thực sự hạnh phúc. Cô thích thú khi mọi người tìm ra những cách độc đáo để khen ngợi vẻ đẹp của cô. Cô là một cô gái thông minh và cô nhận thức rõ rằng những gì tôi đã nói rất đáng khen ngợi.

Sau khi nhận ra Dawa hơi chậm phát triển, Nyima thỉnh thoảng bắt đầu phàn nàn: “À, dù chú ấy có sinh ra trước tôi vài phút cũng vô ích, tôi vẫn phải chăm sóc chú ấy, thật xui xẻo vì chúng tôi là anh em! »

Vì người em song sinh này, đôi khi Nyima tranh cãi với Drolma. Cô muốn làm đám cưới với anh, nhưng anh cứ nói với cô: “Đợi một chút, chúng ta sẽ kết hôn khi Dawa khỏe hơn.”

Điều này khiến Drolma bối rối: “Chú ấy bắt đầu vuốt ve ngực vị hôn thê của anh trai mình,” cô nói với anh, “sự cải thiện mà anh đang mong đợi bây giờ là gì?"

Những lần như vậy, Nyima không trả lời.

Drolma có thể rất xinh đẹp và được nhiều người ngưỡng mộ, nhưng cô yêu Nyima nên cô không dám đòi hỏi quá nhiều.

Bản thân tôi lúc đó cũng rất yêu cô ấy nhưng tôi hiểu rằng cô ấy sẽ không bao giờ là của tôi. Tuy nhiên, vì biết tôi yêu cô nên điều đó đã khuyến khích cô tâm sự với tôi. Thỉnh thoảng cô ấy tìm đến tôi nói những điều thầm kín: “Làm sao có ai đoán được hai người này là anh em sinh đôi? Một người thì đẹp trai, người kia thậm chí còn không có khả năng lau nước mũi; một người có năng khiếu bẩm sinh, người kia thậm chí còn không tỉnh táo."

Lời nói của cô ấy không hề làm tôi vui mừng, tôi đáp lại với một tiếng thở dài: “Mọi chuyện trên đời này thật kỳ lạ, khó giải thích và khó hiểu."

Drolma chỉ lắc đầu và thở dài. Nhưng cô thấy mình làm tôi buồn nên mỉm cười nói thêm: “Anh biết không, anh cũng xinh trai và tài năng; Nếu không có Nyima thì em sẽ yêu anh, đó là điều chắc chắn."

Cô ấy nói điều này để an ủi tôi, nhưng thực ra lời nói của cô chỉ khiến tôi thêm cay đắng. Đôi khi tôi thấy cô ấy thật ngu ngốc.

Trở lại với Dawa, khi tôi nói rằng nhìn chú ta thật đáng sợ, tôi không hề phóng đại điều gì cả. Chú ấy thực sự không bình thường, và tôi chắc chắn rằng bất kỳ cô gái nào cũng chỉ cần nhìn chú ta một lần thôi là có thể hiểu được ngay mà không cần phải nhìn lại lần thứ hai.

Khi Nyima ở bên Drolma, anh luôn thể hiện tình yêu thương với em trai mình. Drolma vô cùng ngưỡng mộ anh; Ở nhà, cô ca ngợi lòng tốt tuyệt vời của Nyima với cha mẹ và anh chị em của cô, đồng thời nói thêm rằng cô không hề sai về anh. Cả gia đình đều đồng ý và chấp thuận mối quan hệ của họ.

Có vẻ như Dawa biết rằng Nyima là gia đình duy nhất của mình, nên chú quấn quít anh mình, với sự thân mật mà chú ta không thể hiện với ai khác, ngoại trừ lần với Drolma khi chú vuốt ve ngực cô.

Tuy nhiên, đôi khi, khi Drolma không ở bên cạnh, Nyima chán ngấy em trai mình đến mức anh hét vào mặt chú ta, “Nếu mà mày có thể chết đi thì tao có thể cưới Drolma.”

Lần đầu tiên khi nói những lời này, Nyima hoảng sợ và giật mình nhìn em trai mình, nhưng người em không có phản ứng gì: khuôn mặt chú ta vẫn giữ nguyên vẻ vui mừng hạnh phúc như mọi khi. Từ đó về sau, Nyima hết cả ngần ngại, và những lời như thế đã trở thành chủ ý thực sự đối với anh. Nhưng anh cẩn thận không nói điều đó trước mặt Drolma.

Tôi cũng không thoải mái lắm. Mỗi lần nghe anh nói những lời như vậy tôi đều không khỏi cảm thán: “Sao anh có thể nói như thế về chính em trai mình vậy?”

Nhưng anh ấy trả lời tôi mà không hề bối rối: “Nếu anh có một đứa em trai như nó, có lẽ về lâu dài anh cũng sẽ làm như vậy mà thôi."

Và tôi tự hỏi làm sao mình có thể chơi với một người bạn như vậy được nhỉ.

Một ngày nọ, Nyima dường như đọc được suy nghĩ của tôi và nói với tôi: “Nếu em tôi thực sự chết thì tốt lắm. Cha mẹ tôi đã mất, họ không còn vất vả nuôi chúng tôi. Nếu tôi chết, tôi cũng sẽ không phải chịu đau khổ để nuôi Dawa. Nhưng nếu nó là người chết, nó sẽ không phải đau khổ để sống."

“Bạn biết đấy,” tôi trả lời, không phải không có vẻ đạo đức giả, “trong kinh điển Phật giáo có nói rằng được tái sinh làm người là cực kỳ khó khăn đấy. »

“Điều đó, tôi không biết,” Nyima trả lời, “nhưng điều tôi biết là chết dễ hơn sống nhiều. »

*
Đi được nửa đường, tôi còn đang băn khoăn không biết sẽ nói gì với Nyima khi gặp anh ấy thì đột nhiên nghe thấy một tiếng náo động trước mặt khiến tôi phải ngước lên. Tôi nhìn thấy, tập trung xung quanh một vật thể không rõ ràng, một đám đông đang trò chuyện ồn ào, quay lưng về phía tôi.

Tôi đến gần. Có một chuồng lợn bên đường, nơi một trong những con vật có rất nhiều vết cắn đến nỗi nó chẳng khác gì một vết loét không có hình dạng.

"Chuyện gì đã xảy ra thế?" » Tôi hỏi một trong những người đứng xem.

Người đàn ông trả lời, nhìn tôi một cách kỳ lạ: “Chuyện gì vậy à? Con lợn này bị con lợn khác cắn chết; Đây là tình trạng mà chúng tôi tìm thấy nó."

Có điều gì đó nghe thật đáng sợ: “Cái gì?" Tôi nói với anh ta. “Một con lợn chết vì bị con lợn khác cắn? Tôi chưa bao giờ nghe nói về một điều như vậy!"

Nhưng người đàn ông đó không còn nghe tôi nói nữa. Tất cả những người này đang thảo luận xem liệu ta có thể ăn thịt lợn chết như thế hay không. Một số người nói được, đâu có gì ngăn cản điều đó? Nhưng người khác lại cho rằng không, một con lợn như thế chắc chắn không thể ăn được. Còn những người khác thì cho rằng không có lý do gì để tranh cãi thêm nữa, với một con lợn như vậy, tất cả những gì phải làm là đốt nó để loại bỏ nó. Cuối cùng là tiếng kêu chung: đáng để loại bỏ nó, hãy đốt nó đi, hãy đốt nó đi.

Tôi rời họ và tiếp tục lên đường. Nhưng câu hỏi mình sẽ nói gì với Nyima vẫn mãi ray rứt tôi.

Sự thật là hai tuần trước, người em trai Dawa của Nyima đã bị một chiếc xe tải cán chết.

[ không có mặt lúc tai nạn xảy ra, người kể chuyện trở về, và vì là bạn thân của Nyima, anh cảm thấy trong lòng vô cùng áy náy ...]

Khi nhìn thấy tôi, Nyima không kịp cho tôi mở miệng: “Tôi thực sự đáng chết,” anh nói ngay với tôi, “chính tôi đã gây ra cái chết của Dawa, bởi vì những lời nguyền rủa của tôi. »

Nghe vậy, tôi thấy chẳng có gì khó khăn để nói chuyện với anh.

Nhưng anh đã nói tiếp: “Nếu tôi không liên tục lặp lại lời nguyền rủa này thì có lẽ Dawa đã không chết."

Ngay lúc đó, tôi đã tìm ra điều để trả lời anh: “Chỉ vì anh đang đau khổ nên anh mới nói vậy mà thôi." Tôi chưa bao giờ nghĩ đó là câu đầu tiên tôi sẽ nói với anh.

Chỉ khi đó anh mới nhìn thẳng vào mặt tôi và hỏi: “Anh thực sự nghĩ vậy à?”

Tôi gật đầu, nhưng anh ấy lại nói: "Tuy nhiên, cũng có người cho rằng em tôi chết vì tôi thường xuyên nguyền rủa nó."

Tôi liền nói điều mà tôi thấy thường được thốt ra trong nhiều hoàn cảnh: “Sống chết là hiện tượng vô thường, nó có thể xảy ra với bất cứ ai. »

Trong thâm tâm, tôi nghĩ những lời này dường như thật ngu ngốc, chẳng thích hợp chút nào. Chúng chẳng giúp làm cho tình hình êm dịu hơn, trái lại là khác [ Nyima giận dữ, bật khóc, và tự lên án mình ]

Tôi choáng váng vì chưa bao giờ tôi thấy ai khóc như vậy trước đây.

“Anh có nhớ không,” anh hỏi tôi trong nước mắt, “một ngày nọ, khi chúng ta dẫn đàn cừu đi ăn cỏ, tôi có nói với anh rằng tôi muốn đẩy chú nó qua một vách núi?"

Tôi gật đầu. Tôi nhớ rất rõ và cũng nhớ lại cảm giác sợ hãi ngày hôm đó.

“Chuyện gì đã xảy ra với tôi vậy?" Anh ấy tiếp tục. "Tôi thực sự có ý đó. Tôi chắc chắn đã bị ma ám! Tôi chắc chắn rằng dưới sự ảnh hưởng của một linh hồn ma quỷ mà tôi đã tạo ra cái chết cho chú ấy."

“Nhưng không phải đâu,” tôi đáp lại, “đó chỉ là một tai nạn thôi, tôi có thể làm chứng rằng anh không liên quan gì đến việc đó."

Tôi ngay lập tức nghĩ rằng lời nói đó là điều ngu ngốc để nói ra, nhưng anh ngây người nhìn tôi và tiếng khóc của anh ấy dần dần lắng xuống. Tuy nhiên, với một vài tiếng nức nở trong giọng nói, anh ấy nói với tôi: “ Khi tai nạn xảy ra, tôi không có ở đó, điều đó là chắc chắn, nhưng tôi biết chuyện gì đang xảy ra."

Lúc đó tôi rất sợ. Anh dừng lại, đủ lâu để ngừng khóc hoàn toàn, và bắt đầu nói lại, với vẻ rất nghiêm túc: “Ngày hôm đó, tôi nhìn thấy màu của cái chết."

Tôi giật mình nhìn anh, chờ anh nói tiếp.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ,” anh nói, “rằng cái chết lại có màu sắc."

Anh lại dừng lại, và tôi chờ đợi thêm.

“Nhưng khi tôi nhìn thấy màu đó,” anh tiếp tục, “tôi biết ngay rằng có điều gì đó đã xảy ra với Dawa."

Nó khơi dậy sự tò mò của tôi, tôi muốn biết nó trông như thế nào, màu sắc của cái chết, nhưng tôi tự nhủ rằng bây giờ không phải là lúc để thúc giục.

“Đó là một màu sắc,” anh ấy nói thêm, “mà ta không thường thấy trên thế giới này, nhưng khi ta nhìn thấy nó, ta có thể chắc chắn rằng ai đó đã chết." Trong đầu tôi chỉ có câu hỏi ám ảnh này, màu sắc của cái chết là gì, nên tôi thực sự không nhớ chúng tôi đã nói về điều gì tiếp theo.

[ Nhưng khi người kể chuyện hỏi tin tức về Drolma, anh được biết rằng cô ấy đã không nói chuyện với Nyima kể từ vụ tai nạn. Vì vậy anh hứa sẽ đến gặp cô ấy vào ngày hôm sau ]

Ngày hôm sau tôi đi thăm Drolma. Giữa đường tôi gặp mấy người tôi quen, họ hỏi tôi :" Anh đi thăm Drolma hả?" Khi tôi gật đầu, họ cũng gật đầu buồn bã.

"Tôi đi gặp cô ấy về chuyện anh Nyima." Tôi giải thích .

Họ trả lời tôi, vẫn với vẻ buồn bã:" Phải đấy, anh đi đi, đi nhanh đi."

Và thế là tôi đến thẳng nhà Drolma, nhưng vẫn không hiểu được ý họ muốn nói gì .

Khi nhìn thấy tôi, Drolma lao vào vòng tay tôi òa khóc.

Cô ấy đã khóc như vậy một lúc thật lâu nhưng tôi không hề ngăn cản. Cứ để cô ấy khóc cũng tốt thôi.

Khi đã hết khóc, cô ấy hỏi tôi: “Anh yêu em phải không?”

Tôi đáp lại một cách nghiêm khắc: “Làm sao em có thể hỏi anh một điều như vậy trong hoàn cảnh hiện tại? "

“Em biết,” cô nói, “rằng anh yêu em, vậy giờ hãy cưới em đi.”

Tôi nhìn cô một cách choáng váng. Nhưng cô giải thích với tôi rất tự nhiên: “Bây giờ tất cả những gì em đang tìm kiếm là một người yêu em, kết hôn với em”.

"Nhưng còn Nyima thì sao ?" Tôi hỏi .

"Anh ấy không yêu em," cô nói," anh ấy chỉ nghĩ đến Dawa thôi. Chỉ sau khi chú ấy chết đi rồi em mới hiểu ra."

Tôi đẩy cô ra và nói :" Điều ấy không đúng. Nyima yêu em và lúc nào cũng chỉ yêu em thôi."

Drolma trả lời:" Trước kia em cũng nghĩ vậy, nhưng bây giờ thì em biết chắc rằng em chẳng có chỗ đứng nào trong tim anh ấy cả."

"Nhưng tại sao ?" Tôi hỏi.

Cô bảo: "Em biết thế, vì nó là như thế, không có chút bóng hình nào của em trong lòng anh ấy hết."

Tôi nằn nì:" Nhưng em phải cho tôi biết lý do vì sao chứ ?"

Cô vẫn mơ hồ đáp:" Thật khó để nói ra."

" Không dễ để nói ra nghĩa là sao? Hãy nêu ra ít nhất một lý do đi."

Sau khi suy nghĩ một lúc, Drolma giải thích với tôi: “Khoảng mười ngày trước, khi tang lễ của Dawa kết thúc, Nyima hào hứng chạy đến nhà đề nghị kết hôn. Em rất vui mừng, đó là điều hiển nhiên, em đã mơ về nó từ rất lâu rồi. Tuy nhiên, em bảo anh ấy hãy đợi một chút, bây giờ chưa phải là thời điểm thích hợp để nói đến chuyện kết hôn. Anh ấy trả lời rằng có, rằng chúng em đã đợi quá lâu. Em không nói gì, nhưng sự im lặng của em là sự đồng thuận ngầm."

Nói rồi, cô im lặng.

“Thật tuyệt phải không?" Tôi nói với cô, nhìn cô chằm chằm, “đó có phải là điều em muốn không, cưới anh ấy phải không?"

Tuy nhiên, Drolma trả lời: “Không, bởi vì nếu anh ấy muốn cưới em thì đó không phải là vì anh ấy yêu em."

"Ý em là gì? » Tôi hỏi.

Nhưng Drolma không nói gì.

Lúc tôi nhìn vào mắt cô, cô đỏ mặt. Phải một lúc lâu sau, cô mới tiếp tục: "Đêm đó, anh ấy muốn ở lại với em và em đồng ý ngủ cùng. Thường thì anh ấy rất cẩn thận, khi nào cũng dùng bao ngừa vì anh ấy bảo lỡ ra có gì thì hai đứa sẽ gặp nhiều phiền phức. Nhưng đêm đó anh ấy không làm vậy. Em thấy lạ nên em hỏi sao anh không dùng bao. Anh ấy bảo em là anh muốn có con. Em phản đối vì chúng em chưa làm đám cưới, làm vậy không đúng. Thế rồi anh ấy kể cho em nghe là anh ấy có đi tìm gặp một đại sư, và vị ấy bảo anh rằng Dawa sẽ tái sinh và trở về nhà trong vòng 49 ngày. Nhưng nếu mình bỏ qua cơ hội trong thời gian đó thì sẽ quá muộn ..." Cô ngừng lại. Tôi chẳng biết nói gì hơn. Tôi còn chẳng dám nhìn ngay mặt cô bởi tôi có cảm tưởng hình như một cách nào đó, tôi đã phạm một lỗi gì đó.

Tôi cúi đầu xuống thấp. Vì vậy, tôi không biết liệu cô ấy có nhìn tôi hay không khi cô ấy tiếp tục: “Sau đó em đạp anh ấy ra khỏi giường và tống anh ấy ra ngoài." Lúc ấy, tôi ngẩng đầu lên.

“Em không muốn gặp lại anh ấy,” cô nói thêm, nhìn thẳng vào mắt tôi. Thế là tôi lại cúi đầu xuống.

“Bây giờ,” cô tuyên bố, “em chỉ muốn tìm một người chồng yêu em, anh có cưới em hay không?”

Suy nghĩ một lúc, tôi ngẩng đầu nói với cô: “Anh biết rất rõ Nyima yêu em nhất."

“Đó thực sự là những gì em đã nghĩ. » Cô nói khô khốc, kèm theo một nụ cười lạnh lùng.

“Em có biết,” tôi nói với cô, “Nyima thường nói gì với Dawa khi chú ấy còn sống không?"

“Không, cái gì vậy?" Drolma hỏi.

“Anh ấy thường rủa chú ấy: nếu mày có thể chết đi, đồ khốn, thì tao có thể cưới Drolma."

Drolma dường như trấn tỉnh lại và nhìn tôi ngơ ngác.

“Chỉ khi không có em, anh ấy mới nói như vậy, anh ấy rất sợ mất em; bây giờ anh ấy muốn Dawa trở về. Em cần biết rằng em là người quan trọng nhất trong cuộc đời anh ấy."

Drolma nhìn tôi, hơi hé miệng, nhưng tôi nói với cô: “Hãy đi nhanh đến gặp Nyima, bây giờ là lúc anh ấy cần em nhất."

Drolma cùng đi ra với tôi; Khi ra ngoài, tôi nghĩ đến lời của Nyima và hỏi cô:

“Nyima có nói với em là anh ấy nhìn thấy màu sắc của cái chết không?"

“Có,” Drolma nói, “gần đây anh ấy đã nói rất nhiều điều kỳ lạ."

“Nhưng em có hỏi anh ấy nó màu gì không, màu của cái chết ấy?"

“Không,” cô ấy trả lời, “em không có thói quen hỏi về những điều kỳ lạ như vậy, nó chẳng có ý nghĩa gì cả."

Chúng tôi đến một ngã tư nơi mỗi người rẽ đi một ngả. Tôi nói với cô khi chia tay:

“Hãy đi chăm sóc Nyima nhanh lên." Cô gật đầu và quay đi.

“Nói với anh ấy là anh sẽ trở lại gặp anh ấy sớm,” tôi nói lớn.

THÂN TRỌNG SƠN
Giới thiệu và dịch theo bản tiếng Pháp của Brigitte Duran
( tháng 9 / 2024 )
[1] Nyima có nghĩa là mặt trời, Dawa là mặt trăng; Đây là hai tên phổ biến ở Tây Tạng, nhưng rõ ràng là mang tính biểu tượng ở đây.________
Nguồn:

Không có nhận xét nào: