Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2024

Han Kang – phía sau một giải Nobel Văn chương - Nhật Hiên


Giải Nobel Văn học năm nay được trao cho Han Kang, nhà văn nữ người Hàn Quốc sinh năm 1970. Theo Viện Hàn Lâm Thụy Điển nơi tổ chức giải thưởng, Han Kang được vinh danh “vì văn xuôi mãnh liệt giàu chất thơ của bà đối mặt với những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của đời người” (The Nobel Prize in Literature 2024) Điều này đã đưa bà trở thành nhà văn Hàn Quốc đầu tiên và là nhà văn nữ châu Á đầu tiên được trao giải Nobel Văn học. Đối với người Hàn Quốc, Han Kang có lẽ không phải là một cái tên xa lạ vì bà đã từng nhận được nhiều giải thưởng khác nhau cho các thể loại sáng tác khác nhau trên quê hương mình.
<!>
Sự nghiệp văn chương của Han bắt đầu khi năm bài thơ của bà, bao gồm Mùa đông ở Seoul (Winter in Seoul) được giới thiệu trong ấn bản Mùa đông năm 1993 của tạp chí Văn học và Xã hội hàng quý. Năm sau, bà giành chiến thắng trong cuộc thi Văn học Mùa Xuân Seoul Shinmun với truyện ngắn The Scarlet Anchor. Tập truyện đầu tiên của bà, A Love of Yeosu, được xuất bản vào năm 1995.

Khi The Vegetarian, tiểu thuyết đầu tiên xuất bản năm 2007 của Han Kang được dịch sang tiếng Anh, giành được giải thưởng International Booker Prize 2016, nó đã giúp Han có được lượng độc giả trên toàn thế giới.

The Vegetarian cũng được The New York Times Book Review chọn là một trong “10 cuốn sách hay nhất năm 2016” và được trao giải Giải thưởng San Clemete tại Tây Ban Nha (năm 2019). Còn phần thứ hai của truyện, “Mongolian Mark”, đã được trao Giải thưởng Văn học Yi Sang, một trong những giải thưởng văn học danh giá nhất tại Hàn Quốc.

The White Book, cuốn tiểu thuyết thứ ba của Han, đã từng lọt vào danh sách rút gọn cho Giải thưởng Booker quốc tế năm 2018.

Còn Human Acts, phát hành vào tháng 1 năm 2016, đã nhận được Giải thưởng Malaparte cho bản dịch tiếng Ý (Atti Umani, được dịch bởi Adelphi Edizioni), trong khi đó We Do Not Part, tiểu thuyết mới nhất của Han xuất bản vào năm 2021, đã giành giải Prix Médicis Étranger cho bản dịch tiếng Pháp (Impossibles adieux, được dịch bởi Kyungran Choi và Pierre Bisiou) vào năm 2023.

Riêng tiếng Anh, cho đến nay đã có 5 cuốn tiểu thuyết của Han Kang được dịch và xuất bản: The Vegetarian, Human Acts, The White Book, Europa and Greek Lessons. We Do Not Part, sẽ được xuất bản bằng tiếng Anh vào năm 2025, do E Yaewon và Paige Aniyah Morris dịch.

Còn ở Việt Nam đã dịch 3 cuốn The Vegetarian (Người Ăn Chay), Bản Chất Của Người (Human Acts) và Trắng (The White Book).

Ngoài ra, Han Kang còn là tác giả của nhiều truyện ngắn, thơ, tiểu luận…

Anders Olsson, Chủ tịch Ủy ban Nobel Viện Hàn lâm Thụy Điển, trong bài viết của mình đã ca ngợi tác phẩm của Han vì “nhận thức độc đáo về mối liên hệ giữa thể xác và linh hồn, giữa người sống và người chết”. Theo Anders Olsson, thông qua “phong cách thi ca và thử nghiệm” của mình, Han “đã trở thành một nhà cải tiến trong văn xuôi đương đại”.


Các tác phẩm tiêu biểu

The Vegetarian

The Vegetarian kể về câu chuyện của Yeong-Hye, bị những giấc mơ kỳ quái ám ảnh, đã quyết định trở thành người ăn chay. Quyết định này không thể hiểu được đối với người chồng tầm thường, khá thô lỗ của cô cũng như gia đình cô, dẫn tới những bạo lực điên cuồng để ép buộc cô phải ăn. Những người trong gia đình tuyên bố rằng họ nghĩ đến sức khỏe của cô, nhưng thực tế là họ phản đối sự không tuân thủ của cô. Rồi cô bị đưa vào bệnh viện tâm thần, tại đây cô vẫn bị ép ăn, ép uống thuốc, cuối cùng, tự coi mình là một loài thực vật, cô từ chối mọi thức ăn ngoài nước và tia nắng mặt trời.

Cuốn tiểu thuyết gồm 3 phần, được kể dưới 3 góc nhìn khác nhau: góc nhìn của người chồng, người anh rể và người chị gái của nhân vật chính.

Trong cuốn tiểu thuyết này, Han Kang viết về chế độ gia trưởng, bạo lực, tình dục, sự điên rồ, sự từ chối phục tùng và quyết tâm của một người phụ nữ muốn sống theo ý mình, chứ không phải theo cách người ta bảo cô ấy nên sống. Ẩn giấu phía sau sự phản kháng đó là sự tổn thương sâu sắc khi phải trải qua hoặc chứng kiến những hành vi bạo lực, sự tàn ác và hủy diệt của con người.

Human Acts

Human Acts kể về cuộc thảm sát ở Gwangju vào tháng 5 năm 1980 khi hàng trăm, có lẽ là hàng nghìn, công dân và sinh viên đại học, phản đối chế độ độc tài của nhà độc tài quân sự Chun Doo-Hwan, đã bị quân đội sát hại. Và những người khác nữa thì bị bắt, bị tra tấn theo những cách kinh khủng nhất. Đây là một trong những giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử Hàn Quốc. Thay vì xem xét sự kiện theo góc nhìn lịch sử, cuốn tiểu thuyết giống như một loạt truyện ngắn được kể theo góc nhìn của các nhân vật khác nhau. Trung tâm của những câu chuyện nhỏ này là một cậu bé 16 tuổi tên là Dong-ho, người đã chết trong vụ thảm sát. Human Acts kéo dài trong ba mươi năm tiếp theo, theo chân những người đã có mối liên hệ, tương tác với Dong-ho, một số là trực tiếp, những người khác là gián tiếp.

Cuốn tiểu thuyết cung cấp góc nhìn về cách một cuộc sống cụ thể bị tan vỡ. Từ những người bị giết như Dong-ho, Jeong Dae–cậu bạn của Dong-ho, Jeong Mi–chị của Jeong Dae, cho đến những người còn sống, bị tổn thương sâu sắc đến mức hoặc phải vào bệnh viện tâm thần như Kim Young Jae, hoặc không thể vượt qua phải tự sát như Kim Jin Soo, hoặc như “Eun-sook đã biến cuộc đời mình thành một đám tang để cô có thể đau buồn cho Dong-ho và những nạn nhân khác của vụ thảm sát” (Eun-sook has made her life into a funeral so that she can grieve for Dong-ho and the other victims of the massacre, Interview with Han Kang)

Sự pha trộn giữa cảm giác tội lỗi của người sống sót và nỗi kinh hoàng trước khả năng vô nhân đạo của loài người khiến Han bị ảnh hưởng sâu sắc. Có lẽ vì thế mà Han đã tìm kiếm sự an ủi và giác ngộ trong sách, và sau đó, bản thân bà đã trở thành một nhà văn.

Một trong những động lực khiến Han viết tiểu thuyết này vì sự từ chối lịch sử trên khắp Hàn Quốc khi thảo luận về quá khứ trong suốt ba thập kỷ sau, Là trách nhiệm to lớn của việc sống sót và ghi nhớ, chống lại chứng mất trí nhớ tập thể do kiểm duyệt gây ra.

Cuốn tiểu thuyết còn thú vị khi miêu tả suy nghĩ, tâm trạng của những hồn ma lang thang – nạn nhân của vụ thảm sát, sự liên hệ giữa người sống và người chết, giữa quá khứ và hiện tại.

Greek Lessons

Một người phụ nữ đã mất khả năng nói lần thứ hai trong đời, vào một thời điểm quan trọng. Cô đang đau buồn vì mất mẹ và mất quyền nuôi con trai vào tay người chồng cũ đầy thù hận.

Một người đàn ông đã mất đi thị lực trong suốt cuộc đời, giống như cha mình trước kia. Người đàn ông chỉ còn lại một phần thị lực và cuộc sống ngày càng khó khăn và cô đơn hơn.

Cả hai chỉ tìm thấy một chút an ủi và, từ từ, tìm thấy nhau trong các bài học tiếng Hy Lạp. Người đàn ông là một giáo sư đã dành cả cuộc đời mình để giảng dạy thứ ngôn ngữ đã chết từ lâu này và đối với ông, tiếng Hy Lạp “giống như một căn phòng an toàn, yên tĩnh” trong khi cô học trò của ông hy vọng việc học một ngôn ngữ sẽ giúp cô nhanh chóng lấy lại khả năng nói, giống như với những bài học tiếng Pháp trước kia khi cô lần đầu mất khả năng này lúc còn là thiếu niên.

Cũng có những điểm tương đồng giữa nhân vật nữ trong “Greek Lessons” và tiểu thuyết “The Vegetarian” của Kang. Những người phụ nữ bị tan vỡ, giận dữ, bị xâm phạm, và bị cô lập.

Giống như nhiều tác phẩm khác của Han Kang, Greek Lessons khám phá, khoảng không mong manh và không ổn định giữa những gì có thể được diễn đạt và chia sẻ, và những gì vẫn không thể truyền đạt, vượt ra ngoài khả năng của từ ngữ. Nó cho thấy sức mạnh của việc con người tìm kiếm sự kết nối ngay cả khi, hoặc có lẽ là vì, đau buồn và mất mát.

The White Book

The White Book là một tự truyện sâu sắc của Han Kang về cuộc sống và cái chết của một người chị chỉ có mặt trên thế gian vỏn vẹn có hai giờ đồng hồ, nhiều năm trước khi tác giả chào đời. The White Book một phần là tiểu thuyết, một phần là hồi ký, một phần là tập thơ, đây có lẽ là tác phẩm mang tính thử nghiệm nhất của Han Kang cho đến nay.

Cuốn sách mở đầu bằng một danh sách những thứ màu trắng, từ tã quấn cho đến tấm vải liệm. Cấu trúc bị phá vỡ trong cuốn sách này. Được kể dưới dạng một loạt các đoạn ngắn, mỗi đoạn ghi lại một khoảnh khắc thoáng qua. Những suy ngẫm về sự sống, cái chết và nỗi đau chủ yếu được nhìn thấy thông qua lăng kính dựa trên những màu trắng khác nhau.

Tác giả tưởng tượng ra trải nghiệm cuộc sống của đứa trẻ sơ sinh trong những phút ngắn ngủi đó. Cô tự hỏi liệu mình có được sinh ra nếu đứa con đầu lòng không chết không. Nhận thức rằng cô chỉ tồn tại như một kết quả trực tiếp từ cái chết trước đó của anh chị em mình đè nặng lên cô, và cô phải chịu đựng gánh nặng của việc sống một cuộc sống ban đầu được định sẵn cho người khác. Và thông qua những tưởng tượng đó, cô cũng đau buồn vì sự ra đi gần đây của mẹ mình.

Nhưng tại sao lại ám ảnh với màu trắng? Màu trắng là màu tang tóc ở quê hương Kang, Hàn Quốc. Han Kang có trực giác rằng viết một cuốn sách được kết nối bằng những thứ màu trắng sẽ chữa lành vết thương cho cô. Màu trắng ở đây tượng trưng cho sự tái sinh và chữa lành, nhưng cũng tượng trưng cho sự vắng bóng trong trái tim mà người kể chuyện cảm thấy.

Tác phẩm và nhà văn

Như nhiều nhà phê bình đã nêu ra, chủ đề trong những tác phẩm của Han Kang là những nỗi đau, sự chấn thương dù ở góc độ cá nhân hay tập thể, quốc gia; mối liên hệ giữa thể xác và linh hồn, giữa người sống và người chết; bạo lực, sự tàn ác của con người…thông qua một ngôn ngữ tuyệt đẹp, giàu chất thơ và sự thử nghiệm, cách tân trong bố cục, cách kể chuyện. Tác phẩm của bà luôn luôn có tính chính trị, và bà đã viết với ý thức rất rõ về lương tri, trách nhiệm của người cầm bút. Han Kang từng nói “Tiểu thuyết của tôi khám phá nỗi đau của con người’ (‘My novels explore human suffering”, The Conversation)

Phần lớn tác phẩm của Han đặt ra câu hỏi, được nêu ra bởi một nhân vật trong tiểu thuyết “Europa” năm 2019, nhân vật chính bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng: “Nếu bạn có thể sống như mình mong muốn, bạn sẽ làm gì với cuộc đời mình?” (‘If you were able to live as you desire, what would you do with your life?’, Nobel Prize)

Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi Han coi việc ăn mừng thành tựu Nobel của bà là vô trách nhiệm.

Cha của Han, nhà văn Han Seung-won, 85 tuổi, đã chia sẻ mong muốn của con gái mình trong một cuộc họp báo ở tỉnh Jeolla Nam. Han nói với cha mình, “Với chiến tranh ngày càng tăng và ngày nào cũng có người chết, làm sao chúng ta có thể ăn mừng hoặc tổ chức họp báo?”

Seung-won cảm thấy “góc nhìn của con gái mình không chỉ còn là một nhà văn đang sống ở Hàn Quốc mà còn là ý thức (của một nhà văn) toàn cầu”…

Cuộc chiến ở Ukraine và Gaza rõ ràng làm Han bị xáo trộn, giống như những người khác trong chúng ta. Chết chóc ở đâu đó làm tác động đến tâm trí của những người còn sống ở nơi khác. Thế giới không phải là thế giới nếu một vụ thảm sát người dân diễn ra ở đâu đó không tác động đến lương tâm của chúng ta. Nếu chúng ta tuyên bố mình thuộc về thế giới loài người, chúng ta không thể từ bỏ trách nhiệm của mình đối với thế giới đó, cho dù tiếng nói của chúng ta có yếu ớt, nhỏ bé và xa vời đến đâu.

Đối với Han, đó là thời gian để tang, không phải là thời gian để ăn mừng thành tựu cá nhân…

Khi Han biết cha mình muốn tổ chức tiệc để ăn mừng mình đoạt giải, bà đã nói “Xin đừng ăn mừng khi chứng kiến những sự kiện bi thảm này (ám chỉ hai cuộc chiến tranh). Viện Hàn lâm Thụy Điển không trao giải thưởng này cho con để chúng ta tận hưởng, mà để chúng ta tỉnh táo hơn”. đêm”.

Khi nói về việc con gái miễn cưỡng ăn mừng giải thưởng văn chương, Seung-won đã thêm một chi tiết thú vị: “Ban đầu, cô ấy đồng ý, nói rằng cô ấy sẽ ‘thử xem’, nhưng đã thay đổi ý định chỉ sau một

Sự thành công của Hàn Quốc (Nam Hàn)

Trong vài thập kỷ qua, văn hóa Hàn Quốc đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Kể từ những năm 1990, các chính sách văn hóa do chính phủ Hàn quốc lãnh đạo đã chuyển từ tập trung vào chiến lược kinh tế sang xây dựng thương hiệu quốc gia và quyền lực mềm, góp phần quảng bá hình ảnh Hàn Quốc ra nước ngoài.

“Đất nước này từng được biết đến chủ yếu nhờ ô tô và điện thoại thông minh, nhưng khán giả toàn cầu đã bị mê hoặc bởi ngành giải trí của đất nước này, và những người sáng tạo cho biết thành công không đến chỉ sau một đêm”. Đây là trích dẫn từ bài báo của tờ New York Times tháng 11 năm 2021 khám phá sự phát triển của sức mạnh mềm của Hàn Quốc và vị thế cao của danh tiếng toàn cầu hiện tại của đất nước. Văn hóa Hàn Quốc, đặc biệt là phim truyền hình và âm nhạc, đã trở nên phổ biến trong các nhóm người hâm mộ ở một số quốc gia và khu vực, chủ yếu là Châu Á, kể từ cuối những năm 1990. Khi bản hit đình đám Gangnam Style của ca sĩ Hàn Quốc Psy trở thành hiện tượng trên toàn thế giới, bao gồm cả Châu Âu và Hoa Kỳ, và đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 vào năm 2012, nhiều người đánh giá thành công của bài hát là một sự kiện nhất thời chứ không phải là điềm báo về tác động toàn cầu của thể loại này. Tuy nhiên, điều này đã mở ra cánh cửa cho nhiều cơ hội hơn để văn hóa Hàn Quốc được công nhận ngoài Châu Á.

Trong những năm gần đây, văn hóa Hàn Quốc đã thu hút được nhiều sự chú ý trên toàn cầu hơn nhờ thành công của các nhóm nhạc K-pop như BTS và Blackpink, bộ phim Parasite và phim truyền hình nhiều tập Squid Game của Netflix.

Những thành công gần đây của phim điện ảnh và phim truyền hình Hàn Quốc cũng rất đáng kinh ngạc. Parasite, một bộ phim hài đen ly kỳ được phát hành vào năm 2019, là bộ phim đầu tiên của Hàn Quốc giành giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes và giành bốn giải thưởng tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 92, bao gồm Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Kịch bản gốc hay nhất và Phim truyện quốc tế hay nhất. Bộ phim truyền hình nhiều tập Squid Game, được phát hành vào tháng 9 năm 2021, là chương trình được xem nhiều nhất mọi thời đại của Netflix, với tổng cộng 1,65 tỷ giờ phát trực tuyến chỉ trong bốn tuần đầu tiên phát hành. Nó được xếp hạng là chương trình số một tại ít nhất 90 quốc gia, bao gồm Hàn Quốc và Hoa Kỳ, và Pachinko, một bản chuyển thể từ tiểu thuyết bán chạy nhất của Min Jin Lee, hiện đang ở phần thứ hai. Bây giờ K-lit tham gia cùng K-pop, K-drama và K-beauty.

K-pop và phim truyền hình cũng khiến người ta chú ý hơn đến văn hóa ẩm thực, thời trang, làm đẹp của Hàn Quốc, v.v.

Tuy nhiên, nếu một quốc gia không có đủ cơ sở cho quyền lực cứng, thì rất khó để phát huy ảnh hưởng chỉ bằng quyền lực mềm của mình. Về vấn đề này, Hàn Quốc có thể được coi là một trường hợp đáng chú ý, theo đuổi cả quyền lực cứng và mềm và tích hợp chúng như một cường quốc trung bình. Hàn Quốc có lịch sử đạt được dân chủ hóa và phát triển kinh tế trong thời gian tương đối ngắn sau Chiến tranh Triều Tiên (1950–1953). Quyền lực cứng của Hàn Quốc cũng được nhấn mạnh. Triển vọng kinh tế thế giới của IMF công bố rằng nền kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế lớn thứ mười trên thế giới dựa trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2021. Chỉ số sức mạnh châu Á của Viện Lowy xếp hạng năng lực quân sự và chi tiêu quốc phòng của Hàn Quốc đứng thứ năm trong số 26 quốc gia được phân tích, và Global Fire Power xếp hạng Hàn Quốc đứng thứ sáu trong số 142 quốc gia về sức mạnh quân sự năm 2022.

Về cơ bản, người ta có thể xem thành công của làn sóng Hàn Quốc là kết quả của sự hội tụ lịch sử của chính trị, kinh tế và văn hóa. Trong bối cảnh này, có ba khía cạnh đáng kể góp phần vào sự chú ý của toàn cầu đối với sức mạnh mềm của Hàn Quốc. Đầu tiên, bối cảnh lịch sử của Hàn Quốc được thể hiện như một nền kinh tế phát triển nhanh chóng và nền dân chủ thành công là một yếu tố thiết yếu trong sự phát triển và mở rộng văn hóa của nước này.

Năm 1996, Hàn Quốc trở thành thành viên thứ hai mươi chín của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và trở thành thành viên thứ hai mươi tư của Ủy ban Hỗ trợ Phát triển OECD (DAC) vào năm 2010. Hàn Quốc cũng là thành viên của G20 kể từ khi nhóm này được thành lập vào năm 2008. Nhờ tăng trưởng kinh tế, Hàn Quốc có các thương hiệu toàn cầu như Samsung, Hyundai và Kia và là quốc gia hàng đầu về kinh tế số và công nghệ thông tin và truyền thông (ICT). Đồng thời, quá trình dân chủ hóa đất nước thông qua các cuộc bầu cử trực tiếp và quá trình chuyển đổi hòa bình giữa các đảng phái chính trị khác nhau là yếu tố quan trọng trong việc ổn định hệ thống chính trị và môi trường xã hội của nước này. Các thể chế dân chủ và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Hàn Quốc thu hút các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, như một câu chuyện thành công về việc đạt được quyền lực cứng cũng như thiết lập vị thế cường quốc trung bình trong trật tự quốc tế tự do.

Từ mặt bằng đó, thì rõ ràng chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nền văn học Hàn Quốc khẳng định mình trên sân khấu thế giới. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều tác phẩm của các nhà văn và nhà thơ Hàn Quốc được dịch và xuất bản trên toàn thế giới.

Và vào ngày 10/10/2024 vừa qua, Han Kang, đã trở thành nhà văn Hàn Quốc đầu tiên được trao giải Nobel văn học. Đây là chiến thắng mới nhất của hallyu – làn sóng Hàn Quốc – đã đạt được những thành tựu đầu tiên trên mọi hình thức văn hóa. Hàn Quốc đã trở thành một cường quốc văn hóa – với một người đoạt giải Nobel để chứng minh điều đó.

Hàn Quốc và trước đó là Nhật Bản, là những ví dụ cho thấy sự phát triển đồng đều cả về chính trị, kinh tế và văn hóa, quyền lực cứng và quyền lực mềm của một quốc gia. Song song bên cạnh đó là những chính sách đầu tư dài hạn của chính phủ vào giáo dục, vào Con Người. Các giải thưởng quốc tế về âm nhạc, điện ảnh hay văn học, chỉ là dấu cộng thêm cho cả một thành tựu phát triển chung ấy.

Nỗi buồn mang tên Việt Nam

Nhiều năm qua, cứ mỗi khi gần đến ngày trao giải thưởng Oscar trong phim ảnh hoặc Nobel trong văn chương là nhiều người Việt lại hỏi nhau bao giờ thì đến Việt Nam? Nhưng nếu tìm hiểu về những gì làm nên thành công của một cá nhân, có lẽ chúng ta sẽ không đặt ra câu hỏi ấy cũng như không bị ám ảnh bởi các giải thưởng quốc tế như một sự thừa nhận để vượt qua những mặc cảm, tự ti dân tộc.

Phía sau một thành tựu tầm cỡ quốc tế của một cá nhân trên lĩnh vực sáng tác, có rất nhiều điều kiện:

Một, hoặc từ những bệ phóng rất vững chãi của một quốc gia tự do, dân chủ, phát triển hài hòa về mọi mặt, có những chính sách đầu tư lâu dài cho con người và cho quyền lực mềm của quốc gia đó. Như trường hợp Hoa Kỳ, các nước dân chủ châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…

Hai, cũng có những cá nhân thành công như những tài năng ngoại lệ đến từ những nước còn nghèo hoặc chưa có tự do, dân chủ hoặc là những nền dân chủ chưa hoàn thiện. Nhưng hành trang về văn hóa, lịch sử của dân tộc đó rất dày dặn, phong phú. Lấy ví dụ Trung Quốc chẳng hạn, là một quốc gia chưa có tự do, dân chủ với mô hình độc tài toàn trị tương tự như Việt Nam, nhưng họ vẫn có Cao Hành Kiện, Mạc Ngôn đã đoạt giải Nobel, có Tàn Tuyết là một ứng cử viên sáng giá cho năm nay, có Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca, Giả Chương Kha, Phùng Tiểu Cương v.v…trong điện ảnh, đã từng đoạt những giải thưởng tại các Liên hoan phim Cannes, Venice, Toronto…hoặc được thế giới biết đến rộng rãi (không tính những đạo diễn gốc Hoa nhưng hiện tại sống ở Mỹ như Ngô Vũ Sâm (John Woo), cũng không tính những đạo diễn Hong Kong thành danh từ trước khi Hong Kong trở về với Trung Quốc như Từ Khắc, Châu Tinh Trì, Vương Gia Vệ (Wong Kar-wai)… Nói gì thì nói, Trung Quốc là một nước lớn, có một lịch sử văn hóa lâu đời, văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa là hai trong số những nền văn minh lâu đời và phát triển nhất trong lịch sử nhân loại. Một thể chế độc tài tàn bạo trong một trăm năm rõ ràng đã kìm hãm, ngăn chặn, tàn phá rất nhiều nền văn hóa, văn minh đó nhưng vẫn chưa thể hủy hoại hoàn toàn.

Với những quốc gia chưa hoặc không có cả hai điều trên thì sự thành công đột xuất, riêng lẻ của một cá nhân nếu có, chỉ để giải tỏa mặc cảm, ẩn ức chung của đám đông hơn là chứng minh được vị trí, đẳng cấp của nền văn hóa nghê thuật của nước đó.

Và cuối cùng, với riêng cá nhân từng người làm văn hóa nói chung và nhà văn nhà thơ nói riêng, còn là ý thức rất rõ về vai trò, trách nhiệm công dân (của một quốc gia và của toàn cầu) trước những vấn đề của hiện tại cũng như của lịch sử, sự dũng cảm không chỉ để nói thay cho những người chết và những phận người nhỏ bé, mà còn để vươt qua những giới hạn, những khuôn khổ, lối mòn. Và khi đó tác phẩm sẽ đạt được sự đồng cảm của nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới.

Nhật Hiên

……………

Tham khảo:


*Interview with Han Kang, The White Review

*South Korean author Han Kang wins the 2024 Nobel prize in literature, The Guardian

*‘My novels explore human suffering’: Nobel Prize winner Han Kang writes with empathy for vulnerable lives, The Conversation

*Why has literature Nobel winner Han Kang turned down celebratory events?, Frontline

*The Growth of South Korean Soft Power and Its Geopolitical Implications, Journal of Indo-Pacific Affairs

Không có nhận xét nào: