Trong các chế độ độc tài, những nhà lãnh đạo khi quyền lực còn đang trong tay thường rất cao ngạo, kiêu căng, thậm chí lập dị. Họ sống vương giả, xa hoa và trụy lạc, phung phí tiền bạc dựng tượng đài vinh danh mình. Họ tự xem họ như là cha đẻ hoặc anh hùng của dân tộc, còn dân chúng là đám nô bộc mà họcó quyền sai khiến.
Nhưng khi chế độ sụp đổ, đoạn kết cuộc đời của họ thật thê thảm, kể cả ở những quốc gia mà cuộc cách mạng dân chủ chuyển hóa trong hòa bình. Chúng ta có thể đưa ra vài ví dụ.
Kết thúc bi kịch
Nicolae Ceausescu, chủ tịch Đảng Cộng Sản Rumani, vào năm 1989, vẫn còn tin rằng ông ta có thể tiếp tục nắm quyền và phản đối cải cách của Gorbachev.
16 tháng 12 năm 1989, một cuộc biểu tình bắt đầu tại Timisoara nhằm bảo vệ một mục sư Tin Lành bị nhà chức trách địa phương trục xuất ra khỏi căn hộ. Hợp vào người biểu tình là đám đông những người phản đối chế độ. Cuộc biểu tình đã lây lan sang các thành phố khác. Từ Iran trở về, Ceausescu cáo buộc phương Tây can thiệp vào công việc nội bộcủa Rumani và và kêu gọi dân chúng Bucharest thể hiện phản ứng bằng một cuộc xuống đường vào ngày 21 tháng 12 năm 1989.
Ceausescu nghĩ rằng đám đông sẽ bày tỏ sự hỗ trợ đối với chính sách của mình. Không ngờ cuộc biểu tình biến thành cuộc biểu dương lực lượng chống lại chính phủ. Ceausescu và vợ Elena đã phải trú ẩn trong cung điện của mình.
Trên đường phố Bucharest, quân đội và Securitate (an ninh) xung đột với đám đông. Đạn thật được sử dụng. Vào thời điểm đó, một số trong lãnh đạo quân đội quyết định lật đổCeausescu bằng sức mạnh. Binh sĩ đã đứng chung với những người biểu tình. Ceausescu chạy trốn khỏi Bucharest, nhưng ngày 22 tháng 12 bị quân đội bắt giữ. Ngày 25 tháng 12 năm 1989 một phiên tòa xét xử hai vợ chồng kéo dài 90 phút và ra phán quyết tử hình. Sau khi được “điều trần,” vợ chồng ông bị trói bằng dây thừng và đưa ra phía trước tòa nhà. Án được thực hiện ngay lập tức bởi lực lượng đặc biệt. Cái chết nghiệt ngã kết thúc cuộc đời của cặp độc tài toàn năng.
Tại nước Đức, sau khi Bức Tường Berlin sụp đổ vào đêm ngày 9 rạng ngày 10 tháng 11 năm 1989, nhà lãnh đạo Đông Đức Erich Honeker bị tước đoạt mọi chức vụ nhà nước vàđảng. Trong những tháng tiếp theo, công tố viên đã đưa ra các buộc đầu tiên đối với Honecker: Tội phản quốc, tham nhũng và giết người trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
Trong những tuần sau đó Honecker phải đến bệnh viện nhiều lần, người ta quyết định giam giữ ông tại gia nhưng rồi hủy bỏ. Honecker ốm yếu được đưa đến bệnh viện Liên Xôtại Đông Đức và từ đó ông ta trốn sang Liên Xô và tị nạn tại Đại Sứ Quán Chile.
Chính phủ Đức đã đòi Nga trao trả nhà lãnh đạo Cộng Sản. Ngày 29 tháng 7 năm 1992 máy bay chở Honecker hạ cánh tại Berlin, ông bị bắt và giam tại Moabit (thời điểm này vợvà con gái của ông đã bay qua Chile).
Sau 169 ngày bị giam giữ, do sức khỏe kém, Honecker đã được trả tự do. Phần còn lại của cuộc đời ông sống trong buồn tủ, thất vọng ở Chile và qua đời vào ngày 29 tháng 5 năm 1994.
Saddam Hussein cai trị Iraq gần 35 năm. Khởi đầu kết thúc của Saddam đã diễn ra vào năm 2003 khi Mỹ dẫn đầu liên minh quốc tế xâm chiếm Iraq. Saddam Hussein đã trốn thoát được quân đội phương Tây.
Giấu mình trong một hầm trú ẩn tại một trang trại của gia đình, Hussein bị bắt sau 6 tháng, vào tháng 12 năm 2003. Mùa Hè năm 2004 một tòa án đặc biệt của Iraq xét xử quátrình của nhà lãnh đạo Đảng Baath. Hussein đã bị buộc tội giết chết 148 người, tội tra tấn, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em. Những cáo buộc hầu như không thể chối cãi. Ngày 5 tháng 11 năm 2006, Saddam Hussein bị kết án tử hình. Tòa án tối cao của Iraq bác bỏ kháng cáo của ông. Ngày 30 tháng 12 năm đó ông bị treo cổ.
Trong suốt 42 năm cầm quyền tại Lybia, Muammar Gaddafi đã làm thế giới ngạc nhiên không dưới một lần. Ông mời các nguyên thủ quốc gia tới dự họp trong chiếc lều bedouin, giảng bài về Hồi giáo cho các tiếp viên nữ xinh đẹp. Cực xa xỉ, sang trọng và khó tiên đoán là những gì người ta nói về Gaddafi.
Ông bị cáo buộc hỗ trợ khủng bố và vi phạm nhân quyền, nhưng nhờ có dầu hỏa mà tội lỗi được tha thứ, và ông vẫn tiếp cận được các salon chính trị.
Hoàng hôn phủ xuống triều đại của nhà độc tài từ tháng 2 năm 2011. Tám tháng cách mạng với sự hỗ trợ của phương Tây, đã làm sụp đổ “ngai vàng” của Gaddafi. Sau khi thoát khỏi Tripoli, chạy về Syrty, đoàn xe của ông bị máy bay chiến đấu NATO tấn công và ông bị thương. Quân nổi dậy đã kéo nhà độc tài ra khỏi ống cống mà ông ẩn trong đó. Ông bịđánh đập và bị giết chết trong ngày 20 tháng 10 năm 2011 năm. Cơ thể của ông được đưa về Misrata cho công chúng xem.
Còn nhiều nữa, Mubarak, Morsi (Ai Cập), Zen Ali (Tunesia), Milosevich (Serbia), Janukovich (Ukraina),... mỗi nhà độc tài mang một số phận khác nhau, nhưng cuộc đời của họđều gắn với kết thúc bi kịch.
16 tháng 12 năm 1989, một cuộc biểu tình bắt đầu tại Timisoara nhằm bảo vệ một mục sư Tin Lành bị nhà chức trách địa phương trục xuất ra khỏi căn hộ. Hợp vào người biểu tình là đám đông những người phản đối chế độ. Cuộc biểu tình đã lây lan sang các thành phố khác. Từ Iran trở về, Ceausescu cáo buộc phương Tây can thiệp vào công việc nội bộcủa Rumani và và kêu gọi dân chúng Bucharest thể hiện phản ứng bằng một cuộc xuống đường vào ngày 21 tháng 12 năm 1989.
Ceausescu nghĩ rằng đám đông sẽ bày tỏ sự hỗ trợ đối với chính sách của mình. Không ngờ cuộc biểu tình biến thành cuộc biểu dương lực lượng chống lại chính phủ. Ceausescu và vợ Elena đã phải trú ẩn trong cung điện của mình.
Trên đường phố Bucharest, quân đội và Securitate (an ninh) xung đột với đám đông. Đạn thật được sử dụng. Vào thời điểm đó, một số trong lãnh đạo quân đội quyết định lật đổCeausescu bằng sức mạnh. Binh sĩ đã đứng chung với những người biểu tình. Ceausescu chạy trốn khỏi Bucharest, nhưng ngày 22 tháng 12 bị quân đội bắt giữ. Ngày 25 tháng 12 năm 1989 một phiên tòa xét xử hai vợ chồng kéo dài 90 phút và ra phán quyết tử hình. Sau khi được “điều trần,” vợ chồng ông bị trói bằng dây thừng và đưa ra phía trước tòa nhà. Án được thực hiện ngay lập tức bởi lực lượng đặc biệt. Cái chết nghiệt ngã kết thúc cuộc đời của cặp độc tài toàn năng.
Tại nước Đức, sau khi Bức Tường Berlin sụp đổ vào đêm ngày 9 rạng ngày 10 tháng 11 năm 1989, nhà lãnh đạo Đông Đức Erich Honeker bị tước đoạt mọi chức vụ nhà nước vàđảng. Trong những tháng tiếp theo, công tố viên đã đưa ra các buộc đầu tiên đối với Honecker: Tội phản quốc, tham nhũng và giết người trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
Trong những tuần sau đó Honecker phải đến bệnh viện nhiều lần, người ta quyết định giam giữ ông tại gia nhưng rồi hủy bỏ. Honecker ốm yếu được đưa đến bệnh viện Liên Xôtại Đông Đức và từ đó ông ta trốn sang Liên Xô và tị nạn tại Đại Sứ Quán Chile.
Chính phủ Đức đã đòi Nga trao trả nhà lãnh đạo Cộng Sản. Ngày 29 tháng 7 năm 1992 máy bay chở Honecker hạ cánh tại Berlin, ông bị bắt và giam tại Moabit (thời điểm này vợvà con gái của ông đã bay qua Chile).
Sau 169 ngày bị giam giữ, do sức khỏe kém, Honecker đã được trả tự do. Phần còn lại của cuộc đời ông sống trong buồn tủ, thất vọng ở Chile và qua đời vào ngày 29 tháng 5 năm 1994.
Saddam Hussein cai trị Iraq gần 35 năm. Khởi đầu kết thúc của Saddam đã diễn ra vào năm 2003 khi Mỹ dẫn đầu liên minh quốc tế xâm chiếm Iraq. Saddam Hussein đã trốn thoát được quân đội phương Tây.
Giấu mình trong một hầm trú ẩn tại một trang trại của gia đình, Hussein bị bắt sau 6 tháng, vào tháng 12 năm 2003. Mùa Hè năm 2004 một tòa án đặc biệt của Iraq xét xử quátrình của nhà lãnh đạo Đảng Baath. Hussein đã bị buộc tội giết chết 148 người, tội tra tấn, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em. Những cáo buộc hầu như không thể chối cãi. Ngày 5 tháng 11 năm 2006, Saddam Hussein bị kết án tử hình. Tòa án tối cao của Iraq bác bỏ kháng cáo của ông. Ngày 30 tháng 12 năm đó ông bị treo cổ.
Trong suốt 42 năm cầm quyền tại Lybia, Muammar Gaddafi đã làm thế giới ngạc nhiên không dưới một lần. Ông mời các nguyên thủ quốc gia tới dự họp trong chiếc lều bedouin, giảng bài về Hồi giáo cho các tiếp viên nữ xinh đẹp. Cực xa xỉ, sang trọng và khó tiên đoán là những gì người ta nói về Gaddafi.
Ông bị cáo buộc hỗ trợ khủng bố và vi phạm nhân quyền, nhưng nhờ có dầu hỏa mà tội lỗi được tha thứ, và ông vẫn tiếp cận được các salon chính trị.
Hoàng hôn phủ xuống triều đại của nhà độc tài từ tháng 2 năm 2011. Tám tháng cách mạng với sự hỗ trợ của phương Tây, đã làm sụp đổ “ngai vàng” của Gaddafi. Sau khi thoát khỏi Tripoli, chạy về Syrty, đoàn xe của ông bị máy bay chiến đấu NATO tấn công và ông bị thương. Quân nổi dậy đã kéo nhà độc tài ra khỏi ống cống mà ông ẩn trong đó. Ông bịđánh đập và bị giết chết trong ngày 20 tháng 10 năm 2011 năm. Cơ thể của ông được đưa về Misrata cho công chúng xem.
Còn nhiều nữa, Mubarak, Morsi (Ai Cập), Zen Ali (Tunesia), Milosevich (Serbia), Janukovich (Ukraina),... mỗi nhà độc tài mang một số phận khác nhau, nhưng cuộc đời của họđều gắn với kết thúc bi kịch.
Vua tập thể
Sau cuộc cách mạng ở Đông Âu và Liên Xô cũ, một số nước Cộng Sản đã khôn ngoan thay đổi cấu trúc chinh trị, điển hình nhất là Việt Nam. Quyền lực không còn tập trung toàn bộ vào một cá nhân và cá nhân cũng không còn cơ hội giữ chức vụ cao nhất cho đến chết.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam là tuyệt đối, nhưng quyền lực được phân ra trong các chức vụ tổng bí thư, chủ tịch nước, chủ tịch Quốc Hội và thủ tướng chính phủ, trởthành triều đại của vua tập thể.
Tùy từng giai đoạn mà một trong bốn vị có thể có ảnh hưởng nhiều nhất trong cán cân quyền lực. Trước hết, nếu kiểm soát được quân đội và an ninh thì sẽ là người có tiếng nói quyết định trong mọi diễn biến. Trong một bộ máy mà tham nhũng tràn lan từ dưới lên trên, ít có ai tay không dính chàm. Tình báo và an ninh nắm được những mánh lới làm ăn bất chính để làm con tin.
Lê Đức Anh là một người như thế. Thời kỳ làm chủ tịch nước ông rất mạnh, dường như tuyệt đối. Nhưng đến thời kỳ Lê Đức Lương, Nguyễn Minh Triết hay Trương Tấn Sang, nhiệm vụ của chủ tịch nước dường như nặng về hình thức.
Ngược lại, quyền lực tập trung vào Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, xuất thân từ công an, từng làm thứ trưởng Bộ Công An và có quan hệ mật thiết với tình báo quân đội. Trong những năm giữ chức thủ tướng, ông Dũng đã ban phát nhiều ơn huệ bằng cách thăng chức tướng (đến trung tướng) cho rất nhiều sĩ quan quân đội và công an.
Do quyền lực bị phân bổ nên các nhóm lợi ích được hình thành trong những lĩnh vực khác nhau. Các nhóm lợi ích thường hay ghen tị, nhòm ngó nhau nhưng cuối cùng phải giữthỏa hiệp để giữ vững sự tồn tại của chế độ. Một số ít bị tiêu diệt khi người nắm giữ quyền phân phát lợi ích thấy có nguy cơ tổn hại đến chung cuộc.
Các quan chức giữ vị trí cao nhất khi về hưu ôm theo tiền bạc và của cải, hạ cánh an toàn, thậm chí có thể ra cả nước ngoài cư trú.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam là tuyệt đối, nhưng quyền lực được phân ra trong các chức vụ tổng bí thư, chủ tịch nước, chủ tịch Quốc Hội và thủ tướng chính phủ, trởthành triều đại của vua tập thể.
Tùy từng giai đoạn mà một trong bốn vị có thể có ảnh hưởng nhiều nhất trong cán cân quyền lực. Trước hết, nếu kiểm soát được quân đội và an ninh thì sẽ là người có tiếng nói quyết định trong mọi diễn biến. Trong một bộ máy mà tham nhũng tràn lan từ dưới lên trên, ít có ai tay không dính chàm. Tình báo và an ninh nắm được những mánh lới làm ăn bất chính để làm con tin.
Lê Đức Anh là một người như thế. Thời kỳ làm chủ tịch nước ông rất mạnh, dường như tuyệt đối. Nhưng đến thời kỳ Lê Đức Lương, Nguyễn Minh Triết hay Trương Tấn Sang, nhiệm vụ của chủ tịch nước dường như nặng về hình thức.
Ngược lại, quyền lực tập trung vào Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, xuất thân từ công an, từng làm thứ trưởng Bộ Công An và có quan hệ mật thiết với tình báo quân đội. Trong những năm giữ chức thủ tướng, ông Dũng đã ban phát nhiều ơn huệ bằng cách thăng chức tướng (đến trung tướng) cho rất nhiều sĩ quan quân đội và công an.
Do quyền lực bị phân bổ nên các nhóm lợi ích được hình thành trong những lĩnh vực khác nhau. Các nhóm lợi ích thường hay ghen tị, nhòm ngó nhau nhưng cuối cùng phải giữthỏa hiệp để giữ vững sự tồn tại của chế độ. Một số ít bị tiêu diệt khi người nắm giữ quyền phân phát lợi ích thấy có nguy cơ tổn hại đến chung cuộc.
Các quan chức giữ vị trí cao nhất khi về hưu ôm theo tiền bạc và của cải, hạ cánh an toàn, thậm chí có thể ra cả nước ngoài cư trú.
Không thể không thanh toán tội ác
Rumani là một quốc gia hậu Cộng Sản cá biệt, trong 25 năm qua, đã không thanh toán tội ác của Cộng Sản, tạo nên sự ngộ nhận cho giới trẻ về giai đoạn này và những kẻ tội phạm thoát lưới pháp luật. Mặc dù từ năm 1989, Rumani tăng trưởng kinh tế ngoạn mục, đời sống nhân dân thay đổi không thể tưởng tượng, nhưng đến 40% thanh thiếu niên vẫn nghĩ thời Cộng Sản sống tốt hơn.
Những kiến trúc sư của cuộc cách mạng lật đổ Ceausescu là những người đã từng phụng sự trong chế độ cũ, nên họ không khuyến khích làm việc này. Trong khi đó, vào thời Cộng Sản đã có khoảng 617 ngàn người chống đối bị ngồi tù, 120 ngàn trong số họ đã chết trong tù vì bị tra tấn, bệnh tật, ít nhất một ngàn người đối lập bị giết chết.
Cũng may mắn là tổng thống mới hiện nay của Rumani vừa tuyên bố sẽ kiểm tra kỹ lưỡng về những gì đã xảy ra trước chế độ độc tài Ceausescu, trong và sau khi nó sụp đổ, và sẽxúc tiến một phép tính lương tâm minh bạch.
Tình hình hậu Rumani rất có thể tái diễn ở Việt Nam trong tương lai theo một hướng khác xấu hơn. Nhìn cảnh dân chúng ra đón ông Nguyễn Bá Thanh từ Mỹ trở về ở sân bay ĐàNẵng cho thấy điều này.
Mặc dù khi chế độ thay đổi cần có sự bao dung để đoàn kết dân tộc, nhưng tội phạm thì không thể tha thứ. Đây không phải là vấn đề trả thù mà là công lý phải được thực thi bìnhđẳng. Không thể thấy Đà Nẵng lột xác, thay đổi thì công trạng của ông Nguyễn Bá Thanh làm lu mờ tội ác mà ông đã làm với giao xứ Côn Dầu và tội tham nhũng.
Một tư duy nhập nhằng như thế rất nguy hiểm và thực sự là một cách che giấu cái ác mà các quan chức Cộng Sản đã gây ra cho dân tộc.
Những kiến trúc sư của cuộc cách mạng lật đổ Ceausescu là những người đã từng phụng sự trong chế độ cũ, nên họ không khuyến khích làm việc này. Trong khi đó, vào thời Cộng Sản đã có khoảng 617 ngàn người chống đối bị ngồi tù, 120 ngàn trong số họ đã chết trong tù vì bị tra tấn, bệnh tật, ít nhất một ngàn người đối lập bị giết chết.
Cũng may mắn là tổng thống mới hiện nay của Rumani vừa tuyên bố sẽ kiểm tra kỹ lưỡng về những gì đã xảy ra trước chế độ độc tài Ceausescu, trong và sau khi nó sụp đổ, và sẽxúc tiến một phép tính lương tâm minh bạch.
Tình hình hậu Rumani rất có thể tái diễn ở Việt Nam trong tương lai theo một hướng khác xấu hơn. Nhìn cảnh dân chúng ra đón ông Nguyễn Bá Thanh từ Mỹ trở về ở sân bay ĐàNẵng cho thấy điều này.
Mặc dù khi chế độ thay đổi cần có sự bao dung để đoàn kết dân tộc, nhưng tội phạm thì không thể tha thứ. Đây không phải là vấn đề trả thù mà là công lý phải được thực thi bìnhđẳng. Không thể thấy Đà Nẵng lột xác, thay đổi thì công trạng của ông Nguyễn Bá Thanh làm lu mờ tội ác mà ông đã làm với giao xứ Côn Dầu và tội tham nhũng.
Một tư duy nhập nhằng như thế rất nguy hiểm và thực sự là một cách che giấu cái ác mà các quan chức Cộng Sản đã gây ra cho dân tộc.
Nguyên nhân thực sự đằng sau việc con người đối xử tàn ác với nhau
- Alex Lickerman
Lily Chan dịch
Hồi học lớp bảy, có một lần, khi đang ở trong phòng thay đồ trước giờ thể dục, tôi bắt gặp một nhóm bạn cùng lớp đang bắt nạt một cậu bạn tên Pino chỉ vì cậu ta có ngực (hội chứng có tên gynecomastia – đôi khi xuất hiện ở các cậu bé vào tuổi dậy thì, thông thường sẽ tự biến mất). Tôi đã không dám đứng ra bảo vệ cậu ấy, bởi tôi sợ rằng chúng sẽ chĩa mũi dùi sang mình, nhưng tôi vẫn nhớ cái cảm giác tội lỗi với Pino và luôn tự hỏi tại sao con người ta có thể đối xử tàn ác với người khác dễ dàng đến thế.
Một điều thường thấy là trẻ con có thể hành xử tệ hại với đứa này đứa kia trong những giai đoạn phát triển nhất định của chúng, có thể nhẫn tâm bắt nạt những đứa bé khác nhưng bằng cách nào đó mà khi trưởng thành đứa trẻ đó vẫn có thể trở thành một người biết cư xử, biết bỏ lại sau lưng quá khứ xấu xa của bản thân khi còn ở thủa thiếu thời (đương nhiên, đáng tiếc là không phải đứa trẻ nào cũng làm được điều đó, nhiều đứa đã không thể cứ như vậy mà bỏ lại mọi thứ sau lưng được, thường là do xung động tuổi trẻ, tính độc ác hay do chúng bị người lớn bỏ bê, thiếu quan tâm). Phần lớn chúng ta đều cho rằng trẻ nhỏ mà có hành vi tàn ác là không thể chấp nhận được vì khi đã trưởng thành, chúng ta thường có xu hướng trấn áp, chấm dứt hành vi đó ngay khi ta nhận biết được về chúng. Và ngay cả khi ta đã biết được nguồn cơn của những hành vi độc ác ấy, chúng ta vẫn cứ cố áp đặt rằng bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể trở thành nạn nhân của hành vi đó, và hơn thế nữa, cho rằng về cơ bản thì giết người hay chiến tranh đều gây ra phản ứng tương tự nhau.
SỨC MẠNH CỦA ĐỊNH KIẾN
(HAY LUNG LẠC NHẬN THỨC -THE SPIRIT OF ABSTRACTION )
Được gọi là sức mạnh của định kiến, là khái niệm do Gabriel Marcel đưa ra trong bài luận về “sức mạnh của định kiến – nguyên nhân gây ra chiến tranh” (The Spirit of Abstraction as a Factor Making for War) của mình, nó được miêu tả như là hệ quả của thói quen nhìn nhận con người ở mặt chức năng hơn là một thực thể sống. Vào những năm đầu trong lịch sử của Hoa Kì, trong một thời gian dài, những người Mĩ gốc Phi bị coi là “nô lệ”, họ không được xem là con người mà bị coi như đồ vật, nhờ vậy mà những chủ nô có thể xem họ như tài sản của mình. Hilter đã thuyết phục được phần đông dân số Đức tin rằng: một phần trong dân số thế giới – “những người Do Thái” vốn là những con người bình thường trở thành những kẻ hèn kém trong mắt người dân Đức đến mức hắn có thể dễ dàng xóa sổ 6 triệu người Do Thái (chưa kể đến gần nửa triệu người dân Gypsies chịu chung số phận). Và khi đến lượt mình, thì người Mĩ cũng xem người Nhật Bản (Japanese) là những “Japs” – biến họ từ những con người có hi vọng, tình thương, gia đình và nỗi sợ hãi trở thành “kẻ thù”, và từ đó hợp thức hóa việc ném hai quả bom nguyên tử xuống nước Nhật.
KHÔNG CHỈ ĐƠN THUẦN LÀ LẦN ĐÓ HAY MỘT NƠI NÀO KHÁC
Khi George H. Bush tuyên bố bắt đầu cuộc chiến tranh Vùng Vịnh vào năm 1990, người ta vẫn đưa tin vui về một trận bóng chày chuyên nghiệp, dù cho cuộc chiến đó là cần thiết, tôi vẫn cho rằng nếu những người tham chiến mà không mang theo một trái tim trĩu nặng thì quả thực là hết sức tàn bạo. Dù vậy thì giờ tôi cũng đã hiểu tại sao cái tin vui kia lại cần thiết đến vậy. Đó chính là sức mạnh của định kiến.
Ngày nay, có những loại dịch vụ quảng cáo qua điện thoại bàn khiến chúng ta phải bắt máy rồi lại cáu kỉnh cúp máy. Lại có cả những chế độ hậu mãi khiến chúng ta mệt mỏi: “không có hóa đơn thì không trả hàng”. Rồi có cả những tay lái xe trên đường khiến ta phải nguyền rủa mỗi lần họ chẹn đường ta đi (một dạng của thói quen đưa ra định kiến mà tôi thường xuyên mắc phải). Những ví dụ trên đây là một trong nhiều cách khiến chúng ta trở thành nạn nhân của định kiến trong cuộc sống thường nhật.
Sức mạnh của định kiến là nguyên nhân chính khiến tôi từ chối tham gia vào bất cứ hội, nhóm nào. Mỗi nền văn hóa hay truyền thống khác nhau đều có cấu trúc vững chắc và sự lôi cuốn nhất định, nhưng lại quá mức dễ dàng khi hình thành định kiến về một ai đó(người Mĩ, người Canada, tín đồ Hồi giáo, người Do Thái, các phật tử, phụ nữ, trẻ em, bác sĩ, phục vụ phòng, thợ cắt tóc) nếu ta gán cho họ quá nhiều thứ quan trọng. Việc đánh giá một con người ở một khía cạnh nhất định nào đó không hoàn toàn là sai trái (trừ khi đó là công việc của bạn), nhưng bất cứ hội nhóm nào – trừ hội lớn nhất ra, tức là cả nhân loại chúng ta (ngay cả như vậy thì vẫn còn quá hẹp) – bằng nhận định của mình mà bài trừ người khác. Chúng ta thường thích giao thiệp với những người có hoàn cảnh và tính tình tương tự nhau để có thể cảm thấy thoải mái và an toàn, nhưng theo tôi, cái giá phải trả quá đắt: đó là thúc đẩy định kiến cho rằng một người phải thuộc về một người hay một nhóm nào đó.
Ngay cả với người bạn đời của mình, bạn có thường xuyên nghĩ về họ với tư cách là một người trưởng thành, có nhu cầu, có ham muốn và có những thú vui mà hoàn toàn không liên quan đến nhu cầu, ham muốn hay thú vui của bạn? Bạn có thường xuyên nghĩ về con mình theo hướng đó không, bỏ qua lối suy nghĩ rằng chúng chỉ đơn thuần là “phần mở rộng hơn” của bạn, từ trong suy nghĩ của mình hãy cho chúng cơ hội để phát triển như một cá thể riêng biệt có vận mệnh của chính mình – thứ vận mệnh mà mới nhìn tưởng như gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của bạn nhưng cuối cùng thì mỗi đứa trẻ đều phải có trách nhiệm với vận mệnh của riêng mình, giống như bạn có trách nhiệm với chính vận mệnh của bạn thôi.
VẬY TA CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC GÌ?
Tôi tin chắc rằng nếu ta rèn luyện bản thân để hạn chế việc đưa ra định kiến về người khác, thì sự độc ác hay bất kì hình thái nào của nó sẽ giảm đi rất nhiều so với hiện nay. Vậy thì bằng cách nào để chúng ta có thể kiên định nâng cao khả năng này?
1, Thừa nhận rằng, giống như bạn, bất kì ai khi làm gì cũng đều có lý do của mình. Có thể với bạn thì lý do đó là không hẳn là tốt(và có thể thật sự là như vậy), nhưng không có ai lại tự thấy bản thân mình vô lý khi làm điều gì đó. Cố gắng hiểu lý do cuả họ trước khi bạn đánh giá ai đó. Một đánh giá tiêu cực đương nhiên vẫn có thể được chứng minh là đúng, nhưng nếu ngay từ đầu bạn thử tìm cách để hiểu hoàn cảnh của người đó, bạn đã bước được một chân ra khỏi định kiến, và tiến thêm một bước tới sự cảm thông.
2, Theo dõi tần suất bạn đặt ra định kiến với người khác trong một ngày. Khi bạn thấy người bưu tá đưa thư cho mình, thì trong tâm tưởng của mình, bạn có thường xuyên nghĩ về cô ấy như mọi con người có hoàn cảnh nhất định, có thắc mắc về mẹ cô ấy, con cái của cô ấy, liệu cô ấy có vấn đề nào về sức khỏe không, hay hy vọng và ước mơ của cô ấy thế nào? Bạn có thường xuyên nghĩ xem người lái taxi phải vất vả thế nào để có được visa, rằng anh ta sợ sẽ không thể tiếp tục sống tại đất nước tuyệt vời này – điều không ngừng dày xéo ruột gan anh ta, tưởng như anh ta thà nghe điện thoại còn hơn là tập trung đưa bạn đến nơi an toàn. Khi tự theo dõi mình như vậy, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận thấy ít ai được tôi nhìn nhận đầy đủ như một con người.
3, Tập thói quen thắc mắc tại sao mọi người không mở lòng với bạn. Có thể bạn là một trong số ít những người có để nhìn nhận mỗi người đến và đi trong cuộc sống của mình một cách toàn diện. Tuy nhiên, phần đông còn lại trong chúng ta, cần tập cách vượt qua những cái “mác” bề ngoài, luôn ghi nhớ rằng mỗi người trong chúng ta từng là một đứa trẻ bé nhỏ, bơ vơ, cần có sự bảo vệ từ những người chăm sóc và nuôi dưỡng mình (tôi từng tham gia một buổi nói chuyện của Bernie Siegel, tác giả của “Tình yêu, thuốc và điều kì diệu” (Love, Medicine and Miracles) ông đã đưa ra bức ảnh về đứa bé đáng yêu nhất mà bất cứ ai trong số chúng tôi từng thấy, khiến khán giả phải thốt lên một tràng dài “Ahhhhhhhhhhhh….”. Sau đó ông đưa ra bức ảnh về một ông lão già nua, và đám đông phía dưới đều co lại. “Sao các bạn lại phản ứng như vậy?” Bernie hỏi. “ Họ là cùng một người cơ mà”. Nguyên nhân nào khiến những khán giả này có phản ứng như vậy? Là bởi định kiến cũng gắn liền với tuổi tác).
Đối với những đứa bạn cùng lớp ở phòng thay đồ nọ từ rất lâu trước đây, Pino chẳng là gì ngoài một thằng nhóc có ngực trông đến ngớ ngẩn, định kiến đó cho phép chúng hành hạ cậu ấy không thương tiếc.Tuy nhiên, đối với tôi, cậu ấy là cậu bé dịu dàng, là người khiến tôi cảm thấy tội lỗi vì đã không dám đứng ra bảo vệ cậu, là một con người thấy ngượng ngùng, xấu hổ khi bị trêu chọc (mặc dù cậu ta vờ như không thấy). Giá như tôi có thể quay ngược thời gian, dũng cảm đứng ra bảo vệ cậu ấy. Giá như tôi nói với cậu rằng trông cậu không ngớ ngẩn chút nào. Tôi không thể tưởng tượng cậu ấy đã phải khổ sở đến mức nào khi bị bắt nạt hết lần này đến lần khác, nhưng bản thân tôi hy vọng rằng ngay cả khi cậu ấy đau khổ vì bị bắt nạt, thì thay vì phải mang theo vết sẹo đó suốt cuộc đời, cậu có thể cảm thông được với nỗi đau của người khác (như cách người ngoài cuộc thường làm) – sự cảm thông giúp cậu khôn lớn và trở thành người không bao giờ lùi bước trước bất cứ sự tàn ác nào.
Lily Chan dịch từ The True Cause Of Cruelty, Redux
SỨC MẠNH CỦA ĐỊNH KIẾN
(HAY LUNG LẠC NHẬN THỨC -THE SPIRIT OF ABSTRACTION )
Được gọi là sức mạnh của định kiến, là khái niệm do Gabriel Marcel đưa ra trong bài luận về “sức mạnh của định kiến – nguyên nhân gây ra chiến tranh” (The Spirit of Abstraction as a Factor Making for War) của mình, nó được miêu tả như là hệ quả của thói quen nhìn nhận con người ở mặt chức năng hơn là một thực thể sống. Vào những năm đầu trong lịch sử của Hoa Kì, trong một thời gian dài, những người Mĩ gốc Phi bị coi là “nô lệ”, họ không được xem là con người mà bị coi như đồ vật, nhờ vậy mà những chủ nô có thể xem họ như tài sản của mình. Hilter đã thuyết phục được phần đông dân số Đức tin rằng: một phần trong dân số thế giới – “những người Do Thái” vốn là những con người bình thường trở thành những kẻ hèn kém trong mắt người dân Đức đến mức hắn có thể dễ dàng xóa sổ 6 triệu người Do Thái (chưa kể đến gần nửa triệu người dân Gypsies chịu chung số phận). Và khi đến lượt mình, thì người Mĩ cũng xem người Nhật Bản (Japanese) là những “Japs” – biến họ từ những con người có hi vọng, tình thương, gia đình và nỗi sợ hãi trở thành “kẻ thù”, và từ đó hợp thức hóa việc ném hai quả bom nguyên tử xuống nước Nhật.
KHÔNG CHỈ ĐƠN THUẦN LÀ LẦN ĐÓ HAY MỘT NƠI NÀO KHÁC
Khi George H. Bush tuyên bố bắt đầu cuộc chiến tranh Vùng Vịnh vào năm 1990, người ta vẫn đưa tin vui về một trận bóng chày chuyên nghiệp, dù cho cuộc chiến đó là cần thiết, tôi vẫn cho rằng nếu những người tham chiến mà không mang theo một trái tim trĩu nặng thì quả thực là hết sức tàn bạo. Dù vậy thì giờ tôi cũng đã hiểu tại sao cái tin vui kia lại cần thiết đến vậy. Đó chính là sức mạnh của định kiến.
Ngày nay, có những loại dịch vụ quảng cáo qua điện thoại bàn khiến chúng ta phải bắt máy rồi lại cáu kỉnh cúp máy. Lại có cả những chế độ hậu mãi khiến chúng ta mệt mỏi: “không có hóa đơn thì không trả hàng”. Rồi có cả những tay lái xe trên đường khiến ta phải nguyền rủa mỗi lần họ chẹn đường ta đi (một dạng của thói quen đưa ra định kiến mà tôi thường xuyên mắc phải). Những ví dụ trên đây là một trong nhiều cách khiến chúng ta trở thành nạn nhân của định kiến trong cuộc sống thường nhật.
Sức mạnh của định kiến là nguyên nhân chính khiến tôi từ chối tham gia vào bất cứ hội, nhóm nào. Mỗi nền văn hóa hay truyền thống khác nhau đều có cấu trúc vững chắc và sự lôi cuốn nhất định, nhưng lại quá mức dễ dàng khi hình thành định kiến về một ai đó(người Mĩ, người Canada, tín đồ Hồi giáo, người Do Thái, các phật tử, phụ nữ, trẻ em, bác sĩ, phục vụ phòng, thợ cắt tóc) nếu ta gán cho họ quá nhiều thứ quan trọng. Việc đánh giá một con người ở một khía cạnh nhất định nào đó không hoàn toàn là sai trái (trừ khi đó là công việc của bạn), nhưng bất cứ hội nhóm nào – trừ hội lớn nhất ra, tức là cả nhân loại chúng ta (ngay cả như vậy thì vẫn còn quá hẹp) – bằng nhận định của mình mà bài trừ người khác. Chúng ta thường thích giao thiệp với những người có hoàn cảnh và tính tình tương tự nhau để có thể cảm thấy thoải mái và an toàn, nhưng theo tôi, cái giá phải trả quá đắt: đó là thúc đẩy định kiến cho rằng một người phải thuộc về một người hay một nhóm nào đó.
Ngay cả với người bạn đời của mình, bạn có thường xuyên nghĩ về họ với tư cách là một người trưởng thành, có nhu cầu, có ham muốn và có những thú vui mà hoàn toàn không liên quan đến nhu cầu, ham muốn hay thú vui của bạn? Bạn có thường xuyên nghĩ về con mình theo hướng đó không, bỏ qua lối suy nghĩ rằng chúng chỉ đơn thuần là “phần mở rộng hơn” của bạn, từ trong suy nghĩ của mình hãy cho chúng cơ hội để phát triển như một cá thể riêng biệt có vận mệnh của chính mình – thứ vận mệnh mà mới nhìn tưởng như gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của bạn nhưng cuối cùng thì mỗi đứa trẻ đều phải có trách nhiệm với vận mệnh của riêng mình, giống như bạn có trách nhiệm với chính vận mệnh của bạn thôi.
VẬY TA CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC GÌ?
Tôi tin chắc rằng nếu ta rèn luyện bản thân để hạn chế việc đưa ra định kiến về người khác, thì sự độc ác hay bất kì hình thái nào của nó sẽ giảm đi rất nhiều so với hiện nay. Vậy thì bằng cách nào để chúng ta có thể kiên định nâng cao khả năng này?
1, Thừa nhận rằng, giống như bạn, bất kì ai khi làm gì cũng đều có lý do của mình. Có thể với bạn thì lý do đó là không hẳn là tốt(và có thể thật sự là như vậy), nhưng không có ai lại tự thấy bản thân mình vô lý khi làm điều gì đó. Cố gắng hiểu lý do cuả họ trước khi bạn đánh giá ai đó. Một đánh giá tiêu cực đương nhiên vẫn có thể được chứng minh là đúng, nhưng nếu ngay từ đầu bạn thử tìm cách để hiểu hoàn cảnh của người đó, bạn đã bước được một chân ra khỏi định kiến, và tiến thêm một bước tới sự cảm thông.
2, Theo dõi tần suất bạn đặt ra định kiến với người khác trong một ngày. Khi bạn thấy người bưu tá đưa thư cho mình, thì trong tâm tưởng của mình, bạn có thường xuyên nghĩ về cô ấy như mọi con người có hoàn cảnh nhất định, có thắc mắc về mẹ cô ấy, con cái của cô ấy, liệu cô ấy có vấn đề nào về sức khỏe không, hay hy vọng và ước mơ của cô ấy thế nào? Bạn có thường xuyên nghĩ xem người lái taxi phải vất vả thế nào để có được visa, rằng anh ta sợ sẽ không thể tiếp tục sống tại đất nước tuyệt vời này – điều không ngừng dày xéo ruột gan anh ta, tưởng như anh ta thà nghe điện thoại còn hơn là tập trung đưa bạn đến nơi an toàn. Khi tự theo dõi mình như vậy, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận thấy ít ai được tôi nhìn nhận đầy đủ như một con người.
3, Tập thói quen thắc mắc tại sao mọi người không mở lòng với bạn. Có thể bạn là một trong số ít những người có để nhìn nhận mỗi người đến và đi trong cuộc sống của mình một cách toàn diện. Tuy nhiên, phần đông còn lại trong chúng ta, cần tập cách vượt qua những cái “mác” bề ngoài, luôn ghi nhớ rằng mỗi người trong chúng ta từng là một đứa trẻ bé nhỏ, bơ vơ, cần có sự bảo vệ từ những người chăm sóc và nuôi dưỡng mình (tôi từng tham gia một buổi nói chuyện của Bernie Siegel, tác giả của “Tình yêu, thuốc và điều kì diệu” (Love, Medicine and Miracles) ông đã đưa ra bức ảnh về đứa bé đáng yêu nhất mà bất cứ ai trong số chúng tôi từng thấy, khiến khán giả phải thốt lên một tràng dài “Ahhhhhhhhhhhh….”. Sau đó ông đưa ra bức ảnh về một ông lão già nua, và đám đông phía dưới đều co lại. “Sao các bạn lại phản ứng như vậy?” Bernie hỏi. “ Họ là cùng một người cơ mà”. Nguyên nhân nào khiến những khán giả này có phản ứng như vậy? Là bởi định kiến cũng gắn liền với tuổi tác).
Đối với những đứa bạn cùng lớp ở phòng thay đồ nọ từ rất lâu trước đây, Pino chẳng là gì ngoài một thằng nhóc có ngực trông đến ngớ ngẩn, định kiến đó cho phép chúng hành hạ cậu ấy không thương tiếc.Tuy nhiên, đối với tôi, cậu ấy là cậu bé dịu dàng, là người khiến tôi cảm thấy tội lỗi vì đã không dám đứng ra bảo vệ cậu, là một con người thấy ngượng ngùng, xấu hổ khi bị trêu chọc (mặc dù cậu ta vờ như không thấy). Giá như tôi có thể quay ngược thời gian, dũng cảm đứng ra bảo vệ cậu ấy. Giá như tôi nói với cậu rằng trông cậu không ngớ ngẩn chút nào. Tôi không thể tưởng tượng cậu ấy đã phải khổ sở đến mức nào khi bị bắt nạt hết lần này đến lần khác, nhưng bản thân tôi hy vọng rằng ngay cả khi cậu ấy đau khổ vì bị bắt nạt, thì thay vì phải mang theo vết sẹo đó suốt cuộc đời, cậu có thể cảm thông được với nỗi đau của người khác (như cách người ngoài cuộc thường làm) – sự cảm thông giúp cậu khôn lớn và trở thành người không bao giờ lùi bước trước bất cứ sự tàn ác nào.
Lily Chan dịch từ The True Cause Of Cruelty, Redux
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét