Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2025

Những vết sẹo tinh thần sau thiên tai - Hồng Phúc



Sắp tới 49 ngày của ba, nhưng gia đình anh Lê Tấn Đường (39 tuổi) không biết giờ, ngày chính xác ông qua đời để làm lễ cúng. Họ chỉ đoán ông đi vào đêm nước lớn 19/11 - lũ “đánh úp” khu phố Nam Bình 1, phường Đông Hoà, Đăk Lăk.Hơn một tháng từ trận lũ lịch sử, anh Đường vẫn rơi nước mắt khi nghĩ đến cảnh ba mất trong cô độc, bị nước ăn hết quần áo.“Trong mình giờ còn lo. Nó đau, khó chịu lắm”, anh nói.Từ khi ông mất, anh chỉ chợp mắt được hai, ba tiếng mỗi đêm. Bữa ăn bữa bỏ. Xóm giềng, chính quyền và nhà hảo tâm đến động viên gia đình, anh cũng không vui lên. Anh chưa quen với cảm giác mất ba.
<!>
“Giờ chỉ cần có ba bên cạnh là hạnh phúc rồi, chẳng muốn gì nữa”, anh nói.

Trận lũ lịch sử hồi tháng 11 khiến 113 người tử nạn tại Đăk Lăk đã để lại cho những người sống sót và thân nhân như anh Đường "vết sẹo" tinh thần không thể quên.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thiên tai để lại nhiều kiểu sang chấn tâm lý, điển hình là sốc vì mất người thân, tài sản; buồn bã, tự trách bản thân; hay ám ảnh ký ức và mất đi niềm vui sống…

Nghiên cứu tổng hợp 2024 của TS Ahlke Kip, khoa Tâm lý tại Đại học Munster (Đức), và cộng sự cho thấy, rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD) cùng trầm cảm là hai vấn đề tâm lý phổ biến nhất của các nạn nhân sau thảm họa. Trong năm đầu, khoảng 26% nạn nhân gặp phải PTSD, 21,7% trầm cảm và 15,9% gặp rối loạn lo âu. Các vấn đề này có thể duy trì trong những năm tiếp theo nếu họ không nhận được hỗ trợ phù hợp.

Người mất cha

Suốt một tháng qua, mỗi lần anh Đường nhắm mắt lại, hình ảnh cha nằm úp trên mặt nước sau vườn lại hiện lên. Thi thể ông Trí được tìm thấy lúc gần 9 giờ sáng ngày 22/11, tại ngôi nhà ở khu phố Nam Bình 1.

Chiều hôm trước, dòng nước dữ rút dần sau 36 tiếng, người cùng thôn phát hiện căn nhà ông Trí vẫn ở để làm vườn đã sập mái. Họ nhờ qua ba người mới báo tin được cho anh Đường, khi ấy đang làm thợ hồ ở quận 8, TP HCM.

Cuộc gọi đến lúc 5 giờ chiều, thông báo ngắn gọn: “Ổng mất rồi, mấy anh em về nhận xác”.

“Không nghĩ được gì, không hỏi thêm được gì”, anh nhớ lại.

Dứt điện thoại, anh bắt xe ôm đi thẳng ra bến xe An Sương, lên chiếc xe đò xuất phát sớm nhất. Nghĩ rằng tầm 8 tiếng là về tới nhà, nhưng mọi thứ đều nằm ngoài dự tính.

“Từ lúc nhận tin ổng mất, qua một đêm nửa ngày mình mới về được. Đến khi thấy ổng, qua gần ngày nữa mới đưa được cha về gò (nghĩa trang thôn). Nó trắc trở tùm lum chuyện”, anh kể.

Chiếc xe đò tới hầm Cổ Mã (Đèo Cả) thì khựng lại vì sạt lở và ngập. Chỉ còn cách nhà hơn 25 cây số, nhưng bác tài thông báo phải chờ một ngày mới đi tiếp được. Anh Đường xuống xe, đeo ba lô, cuốc bộ. Vượt Đèo Cả một đoạn xa, thấy có xe ôm, anh trả 200 nghìn để họ chở thêm hơn chục cây số. Không biết là mấy giờ, chỉ thấy màn đêm đen kịt, hai bên đường về nhà mênh mông nước. Đến trụ sở Công an huyện Đông Hoà cũ, anh nhờ họ đưa về nhà.

Người trong đội cứu hộ lấy cano chở anh đi. Chạy được cỡ nửa cây, cano bị gãy chân vịt. Anh phải ngồi lại trụ sở công an tới sáng. Đến khi thấy một nhóm cứu trợ đi vào xã Hòa Xuân bằng xe máy, anh xin đi nhờ, nhưng cũng chỉ được một đoạn. Nước còn cao, xe máy chạy không được. Anh lại xuống lội bộ.

Nước ngang bụng, chảy mạnh. Lội từ 7 giờ kém đến 9 giờ, vượt khoảng 8 km, anh mới tới chỗ cha.

“Mình không nhận ra nhà mình luôn, như chiến trường, hoang tàn lắm”, anh kể.

Anh Lê Tấn Đường trong đám tang ba sau lũ, tháng 11/2025. Ảnh: Đăng Nguyên

Ngôi nhà cấp bốn già nua đã sập mái giữa nền nước. Sóng giật tung cánh cửa, ném ra vườn. Đồ đạc trôi nổi. Anh vào nhà tìm, không thấy ba đâu. Ra sau vườn, anh mới thấy ông nằm úp sau bụi cây, không còn quần áo, nổi lềnh bềnh, được ai đó lấy dây cột vào cái cây bên cạnh cho khỏi trôi.

“Ngón tay ông co quắp, mình nghĩ chắc ổng cố gắng túm đâu đó mà túm không được”, anh kể, “cả người tím rịm hết, lạnh quá mà”.

Mình anh Đường côi cút bên xác cha. Xóm làng xung quanh còn ngâm trong nước.

Anh lội ra ngoài ngõ, đến nhà văn hóa, tìm gặp trưởng thôn cùng một cán bộ xã. Họ theo anh về nhà, xác định ba anh đã qua đời, và thông báo đợi công an tới làm việc và người nhà đông đủ mới được an táng.

“Không biết làm việc là làm việc gì. Từ sáng đến chiều, không thấy ai đến”, anh kể. “Chỉ nhìn mà không làm gì được, thấy nó thảm”.

Hơn 11 giờ trưa, hai người anh Lê Thành Long và Lê Tấn Khai tới. Họ khiêng ba vào sân. Anh Khai lội ra khỏi thôn chừng hai cây số mới kiếm được bộ quần áo khô và một chỗ bán quan tài gần trung tâm xã Đông Hòa, mua chịu một chiếc. Gần tối, người em Lê Tấn Quốc cũng đến.

Chiếc xe tang chở 5 cha con về nghĩa trang thôn Phú Hữu. Quãng đường gần 20 cây số dầm trong bùn lỏng và nước. 7h tối, huyệt mới đào xong giữa cánh đồng đã ngang gối nước.

“Đâu có thủ tục gì đâu, chở đến chỉ cho ba xuống thôi. Có mấy anh em à, chỉ rưng rưng”, anh gạt nước mắt.

Vợ ông Trí, ba người con khác và 12 đứa cháu, không ai được nhìn thấy ông, cha mình lần cuối.

Người mất vịt

Vừa gượng dậy sau khi xém chết bởi dòng nước dữ, ông Dương Hồng Mễ, 66 tuổi, bỏ ăn hai ngày, nhờ cháu trai mượn xe máy chở đi tìm đàn vịt.

Hơn 9.000 con trong đàn 12.500 vịt đẻ trứng của ông cùng 200 con gà, 6 con chó và 400 bao cám thức ăn chăn nuôi đã bị dòng nước quét qua thôn Thạch Tuân 2, xã Hòa Xuân hôm 19-22/11 cuốn trôi.

Hai chú cháu trùm áo mưa, lên đường tìm vịt. Mỗi ngày, họ đi 50-60 cây số, lần theo dòng chảy sông Bàn Thạch, hướng về những cánh đồng và xóm làng nơi nước dồn về trước khi đổ ra biển. Từ 5h30 sáng tới 7h30 tối, cứ thấy người là ông Mễ hỏi: “Hồi nào chú có thấy đàn vịt nào qua đây không?”.

Người bảo có mà họ bắt hết rồi, người nói nó trôi đi rồi. Có người chỉ “thấy đàn vịt vài trăm con đằng kia”, nhưng khi ông lại đằng kia, họ lại hỏi “làm sao biết vịt này của ai?”.

“Cái con vịt nó khôn lắm, mình nuôi nó từ nhỏ, cho nó ăn. Ở với nó nhiều nó quen cái tiếng. Mình la ‘ê, ê’ cái là nó chạy lại liền”, ông nói.

Đàn vịt nghe tiếng ông là gom về. Đúng vịt ông rồi, nhưng họ không trả. Ông Mễ chỉ biết ngồi bên vệ đường, ấm ức khóc.

“Mệt lắm rồi, không đi tìm nữa”.​

Ở nhà, vợ ông, bà Nguyễn Thị Trọng, 64 tuổi, cũng đi bộ hai ngày tìm vịt. Bà men theo đường tàu lửa cạnh trại, dòm theo cột nước trên đồng, cố tìm dấu vết của xác gà, vịt chết.

“Không biết đi bao lâu, chỉ lo nhìn vịt thôi”, bà kể.

Vừa đi vừa ngó, mấy công nhân đang vá đoạn đường sắt bị nước cắn nứt toác móng chỉ cho bà đám vịt ngoài đồng, cỡ hơn ngàn con. Bà không lội xuống ruộng sâu được. Điện thoại bị ngâm nước cũng không gọi được ai.

Không lùa vịt về được, bà đi bộ về, báo với con rể và con gái. Khi con rể đi tìm vịt theo hướng bà chỉ thì không thấy đâu nữa.

“Nó chưa chết, mà nó trôi đi xa lắm, 5-7 cây số, người ta thấy người ta bắt hết. Trôi là mất à”, bà Trọng nói, mắt vẫn hướng ra cánh đồng.

Cuộc tìm kiếm vậy là trắng tay.

“Họ không cho đâu”, ông Mễ gạt nước mắt, báo tình hình cho vợ khi về nhà.

Lấy nhau 47 năm, bà Trọng lần đầu thấy chồng khóc.

Ông Dương Hồng Mễ trong căn nhà đổ nát sau lũ, tháng 11/2025. Ảnh: Thanh Tùng
Cưới vợ năm 1978, ông Mễ vay mượn nuôi 300, rồi 500 con vịt. Chưa có tiền đầu tư trại nên ông thả đồng. Từ sáng đến tối, ông theo đàn vịt đồng này sang đồng khác. Đến khi có đứa con thứ tư, ông bà xin xã chuyển đổi mục đích sử dụng, đổ đất lên mảnh ruộng bố mẹ để lại, dựng trại vịt ngoài cánh đồng.

Ông mua nợ vịt giống từ lò giống, mua nợ cám vịt và cám gà từ lò cám. Nhà cám nhận trả bằng trứng. Cứ thế, hơn hai thập kỷ, hệ sinh thái cộng sinh giữa ba bên: nhà cám, nhà giống, nhà vịt giúp những nông dân không phải vay ngân hàng.

“Xưa đây là gia đình nuôi vịt không à”, ông Mễ kể về sinh kế gia truyền. Ba đời nhà ông đều không biết làm gì ngoài nuôi vịt.

Nhiều năm nay, ông sống luôn với đàn vịt ngoài bờ sông. Khu chuồng trại xây tạm bợ bằng gạch ép, mái tôn, cột gỗ, chỉ cao khoảng hai mét. Một cái giường và chiếc bếp gas mini hoen gỉ để nấu ăn cho ba người chăn vịt.

46 năm tiền lời nuôi vịt và vay nợ, ông bà dồn cả vào đàn gia cầm, tính tổng lên tới hơn 1,2 tỷ đồng. Đến mùa vịt này, ông còn nợ nhà đổ cám và nhà lò đổ giống hơn 600 triệu.

Nhiều lần vợ con thuyết phục ông nghỉ vì tuổi cao, lại nặng tai, tiểu đường. Nhưng ông khăng khăng “khi nào trả hết món nợ hơn 600 triệu thì tao nghỉ”.

Nhưng dòng lũ đã cướp đi kế hoạch hưu trí của người chăn vịt. Giấc mơ trả nợ xong giã từ đời nuôi vịt của ông đứt đoạn vào đêm 19/11. Gia đình động viên ông, còn sống thì còn làm lại được. Đêm ấy, có lúc ông Mễ “tưởng mình đã chết”.

Ông Mễ chưa quên được hình ảnh gia sản 46 năm của mình trôi theo dòng nước. Ảnh: Thanh Tùng

Từ sáng ngày 19, nghe dự báo mưa to, có thể lụt, ông Mễ cẩn thận quây lưới cao gần hai mét để vịt không vượt lưới ra ngoài. Mọi năm nước lên trại chỉ bị ngập hơn một mét. Vậy mà lần này, người nông dân kinh nghiệm hơn bốn thập kỷ bị dòng nước đánh bại.

“Nước vừa vào đến trại đã lên ngang chòi, đang ở trong chòi thì nó lên tới đọt me luôn, y như cái bẫy, vây kín mọi bề, coi như trở tay không kịp”, ông kể.

Ba người cố thủ trong khu trại với hy vọng bảo vệ đàn gia cầm. Nhưng nước càng dâng càng xiết, móng đường ray tàu lửa sát trại sụt xuống sông kêu cái “rầm”.

Một giờ đêm, ba người đàn ông buông đàn vịt, lần theo mép bờ kè trèo lên đường ray tàu hỏa. Nhưng nước vẫn lên đến bụng, rồi ngực. Họ bám vào lan can cầu đường sắt cố thủ trong dòng nước xiết đến tận sáng. Lạnh đến không còn cảm giác.

Trại vịt chỉ còn chỏm mái tôn nhô lên giữa biển nước. Phía xa, cả thôn cũng chìm trong mịt mùng. Họ không biết người thân ra sao. Còn mọi người ở nhà cho rằng ba người chăn vịt đã nằm lại cánh đồng.

Thỉnh thoảng, một chiếc cano cứu hộ chạy qua, họ kêu “cứu!”. Nhưng gió mưa lớn quá, người trên cano không nghe và không thấy ba cái chấm nhỏ trên trụ cầu giữa biển nước. 4h chiều, một cano nữa. Ông Mễ cởi chiếc áo mưa mỏng đang mặc, huơ tay, lấy hết sức gào lên “Cứu với!”.

Chiếc cano quay đầu.

Nhưng dòng chảy quá xiết. Cano không thể tiếp cận. Họ thả dây dài 5 mét buộc một chiếc phao tròn, kéo từng người một lên.

Chân tay ông va đập vào bờ kè và thành cầu tím bầm, chảy máu nhiều chỗ. Nhưng ông không đau. Nằm hai ngày hai đêm, không ăn, thỉnh thoảng ông lại khóc. Ai lại gần, ông bảo: “Đừng có hỏi, tôi không muốn nhắc đến”.

Ba tuần sau cơn lũ, ông Mễ mới dám ra lại trại vịt. Niềm đau mất hết những gì làm lụng gần cả đời để gây dựng chưa ngủ yên. Ông lại khóc.

Ông gầy đi cỡ 5 kg. Bà Trọng nấu cơm, ép ăn, ông chỉ ăn được một chén hoặc một gói cháo ăn liền. Buổi chiều, có khi chỉ uống một gói sữa cứu trợ.

“Mệt lắm, muốn ăn mà ăn không có được”, ông nói. Ông đi nằm lúc 8 giờ tối, 11-12 giờ đêm lại dậy rồi ngồi tới sáng.

Trang trại của ông Mễ nằm lọt thỏm giữa cánh đồng nên khi lũ lên, trại bị cô lập. Ảnh: Thanh Tùng

“Cứu trợ” tinh thần

Hơn một tháng sau trận lũ lịch sử khiến 113 người chết tại Đăk Lăk, dư âm vẫn còn tác động đến nhiều người sống sót và thân nhân như ông Mễ, bà Trọng, anh Đường. Họ xuất hiện những biểu hiện tâm lý như hồi tưởng, ám ảnh về quá khứ hay rối loạn giấc ngủ, thay đổi tâm trạng, nhận thức, bất lực, đau buồn.

Theo TS.BS Nguyễn Hữu Thiện, khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 175, TP HCM, các phản ứng với sang chấn tinh thần giống như một biện pháp phòng vệ của cơ thể khi trải qua những cú sốc, nỗi đau từ thảm hoạ. Nạn nhân đối mặt với mất người thân, thiệt hại tài sản lớn hay bị cô lập trong thiên tai dễ hoang mang, lo lắng, có các mảnh hồi tưởng, rối loạn giấc ngủ, thậm chí hoảng loạn. Các phản ứng với căng thẳng (stress) biểu hiện ở nhiều mức độ và phần lớn có xu hướng cải thiện trong 6 tháng đầu. Tuy nhiên, chúng có thể kéo dài nhiều năm nếu người bệnh không được hỗ trợ hoặc điều trị phù hợp, thậm chí khởi phát hay làm trầm trọng thêm các rối loạn mạn tính như trầm cảm, hoặc thay đổi kéo dài về nhân cách.

Chung nhận định, ThS Vương Nguyễn Toàn Thiện, Giám đốc chuyên môn Trung tâm tâm lý Lumos, đánh giá nếu các nạn nhân sau thiên tai không thể vượt qua được các cú sốc, họ có thể ở trong trạng thái ám ảnh, day dứt thời gian dài, gây khó hòa nhập cuộc sống. Riêng với nam giới tại nông thôn, sinh kế không chỉ là tiền bạc mà còn thể hiện lòng tự trọng, vai trò trụ cột trong gia đình. Mất đi điều này có thể khiến họ cảm thấy mình vô dụng và có nhiều cảm xúc tiêu cực như bất lực, buồn bã hay tức giận.

“Cảm giác bất lực trước sức mạnh thiên nhiên cũng có thể khiến họ buông xuôi, từ chối khôi phục lại sinh kế và dẫn đến đói nghèo”, ông nói.

BS Vương Nguyễn Toàn Thiện đánh giá tại Việt Nam, công tác cứu trợ vật chất sau thiên tai được thực hiện tốt, song chăm sóc sức khỏe tinh thần vẫn còn những khoảng trống. Hiện, Việt Nam chưa có quy trình sàng lọc tâm lý chuẩn hoá cho nạn nhân thiên tai, trong khi đây là thực hành phổ biến tại nhiều quốc gia.

Tại Nhật Bản, sau thảm họa động đất, sóng thần năm 2011, chương trình “Kokoro-no Care” - chăm sóc tâm hồn - thành lập, chuyên hỗ trợ tâm lý cho nạn nhân. Đội ngũ chuyên gia y tế công cộng, nhân viên sức khỏe tâm thần được điều động đến cộng đồng bị ảnh hưởng để lắng nghe, tư vấn và kết nối nhằm giúp nạn nhân giảm cảm giác bị cô lập, hỗ trợ phục hồi dài lâu. Chính phủ Hàn Quốc cũng đồng hành tích cực để hỗ trợ tâm lý cho các gia đình nạn nhân trong thảm họa rơi máy bay cuối năm 2024.

Dòng người nhận hàng cứu trợ ở Đăk Lăk sau lũ. Ảnh: Thanh Tùng

Đã hơn một tháng, anh Đường chưa buông được cảm giác day dứt vì bất lực, không thể làm gì cho ba.

Anh chưa bao giờ lường trước cảnh mất ba. Lúc ở Sài Gòn, nghe tin lũ ở quê, anh vẫn nghĩ xóm làng sẽ giúp đưa ba mẹ sang nhà cao hơn. Mọi năm, nước chỉ đến sân rồi cùng lắm nửa ngày là đi, ai ngờ thiên nhiên lại khó lường đến thế.

“Thấy ba trôi dạt, nghĩ ổng vừa đói mà vừa lạnh, bị ngạt nước, mình không quên được”, anh kể. Mỗi đêm, anh chỉ ngủ được 2-3 tiếng, bữa ăn được bữa không.

Chôn cất ba xong, anh định đi Sài Gòn làm để lấy tiền tiêu Tết, nhưng chưa đi được vì mẹ anh yếu quá. Bà bị ngâm nước lâu và chưa chấp nhận nỗi đau mất chồng đột ngột, bà khóc nhiều và suy nhược.

Đến giờ, bà còn bị ám ảnh bởi cảm giác lẻ loi trong đêm nước lớn. Khi nước vờn đến gác gỗ áp mái, bà dùng búa đánh gãy thanh gỗ, dỡ ngói đưa đứa cháu 6 tuổi ra.

“Nước dâng ngót đầu. Cái nhà mình y như sông biển. Bà cháu ngồi im như hai con tép”, bà kể. Hai bà cháu ngồi trên nóc nhà trong mưa lạnh một đêm nửa ngày, nhờ vậy mà thoát chết.

Cơn lũ để lại cho bà 20 bao thóc - thành quả lao động và dành dụm để ăn cả năm - ngâm nước đã lên mầm, giờ “cho cũng không ai lấy”. Tài sản quý nhất là 21 con gà tính bán để lấy tiền ăn Tết đã trôi đi.

Mẹ anh Đường kể lại đêm sống sót nhờ leo lên mái nhà trong trận lũ lịch sử. Ảnh: Đăng Nguyên

21 ngày sau khi ba mất, gia đình anh Đường mới trả được tiền áo quan. Ông bán hòm thương hoàn cảnh, giảm giá một nửa, còn 5 triệu.

Ở quê, ngoài vài sào ruộng, cả 6 anh em đều đi làm mướn. Cuối năm đi hái cà phê trên Tây Nguyên, tiền công được 700-800 đồng một ký. Bốc vác, phụ hồ, mỗi ngày được 300-400 nghìn đồng. Việc ở quê khi có khi không nên anh theo người quen làm thợ hồ ở TP HCM. Tiền công một ngày khoảng 450-500 nghìn. Mỗi tháng anh gửi về cho ba mẹ hai triệu, còn lại tiêu vào sinh hoạt phí ở thành phố, không có dư.

Sau bão, anh không thiết tha gì Tết. Giờ anh chỉ muốn sửa ngôi nhà kiên cố hơn, làm thêm một gác gỗ chắc chắn trong nhà để tránh những đợt lũ sau, tốn tầm 6-7 triệu. Nhưng số tiền gia đình được mọi người phúng viếng, chính quyền hỗ trợ cũng chỉ đủ sửa và mua lại ít đồ đạc. Anh vẫn chưa biết lấy tiền ở đâu.

Ông Đoàn Minh Phong, Phó chủ tịch thường trực UBND xã Hoà Xuân, cho biết UBND xã đã hỗ trợ tài chính các gia đình có thiệt hại về người, của sau đợt lũ để sớm ổn định lại cuộc sống. Đồng thời, địa phương đã đề nghị tỉnh hỗ trợ lúa giống do phần lớn hộ dân có sinh kế trồng lúa nước. Với các hộ dân có sinh kế chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản, xã đang liên hệ các tổ chức xã hội để có nguồn giống hỗ trợ người dân tái đàn.

Như các hộ trong thôn, gia đình ông Mễ cũng nhận được nhiều gạo, mì tôm, dầu ăn từ các đoàn cứu trợ. Xã cho 500 nghìn đồng và một cá nhân tặng ông 1,5 triệu đồng.

“Thức ăn cứu trợ ăn không hết, tiền thì không có”, ông Mễ cần tiền để lo khoản nợ.

Hôm ông báo cho chủ lò cám “gà, vịt mất rồi”, họ bảo “chỉ cần ông sống thôi”. Nhưng ông biết nợ thì vẫn phải trả, người ta chưa đòi ngay. Chưa kể, ông cần ít nhất vài trăm triệu mới đủ mua giống và cám để tái đàn.

Bây giờ, hồ có xả lũ, bão lụt có lớn đến đâu ông Mễ cũng không sợ nữa.

“Còn gì mất đâu mà phải sợ. Chết thì thôi. Còn nếu sống thì chỉ bế tắc là chưa có đường trả nợ”, ông Mễ nói. 

Trại vịt của bà Nguyễn Thị Trọng và ông Dương Hồng Mễ sau lũ. Ảnh: Thanh Tùng

Nội dung: Hồng Phúc - Đăng Nguyên
Ảnh: Thanh Tùng
Đồ hoạ: Tâm Thảo - Thanh Hạ

Không có nhận xét nào: