Đúng vậy ạ! Lấy vợ nước ngoài cũng như lấy vợ ngoài hành tinh khác. Ấy thế mà chúng tôi đã sống với nhau 28 năm. Người ta thường nói lấy vợ về phải dạy từ đầu mà cũng đúng thật đấy. Thật tình mà nói 28 năm về trước tôi không hề biết người Philippines là ai? Ở ViệtNam hồi nhỏ tôi chỉ nghe nói đến người "Phi" nhưng chưa gặp bao giờ. Trong trí óc của tôi lúc nhỏ cứ nghĩ người "Phi" chắc đen lắm lắm... Chuyện tình yêu xa của chúng tôi như một quyển tiểu thuyết. Một tình yêu lãng mạn, một sức hút mãnh liệt, một động lực vô hình đưa đẩy cho chúng tôi gặp nhau qua một quyển Album. Có một ngày tôi đến nhà thằng bạn chơi chợt thấy có một quyển Album nằm trên bàn, mở ra xem thì tình cờ thấy hình vợ tôi trong đó. Hỏi ra thì mới biết là bạn của bà xã bạn tôi.
<!>
Nhìn khuôn mặt vợ tôi, một nét đẹp dịu hiền, không phấn son, tự nhiên tôi có cảm tưởng như đã gặp nhau từ kiếp nào... Một cảm giác lạ bao phủ lấy thân thể tôi, một động lực vô hình đã thúc đẩy tôi phải quen nàng. Thế là tôi được người bạn giới thiệu và cho địa chỉ. Thời gian này chưa có phone tay hay internet, cho nên tất cả liên lạc đều qua thư từ.Thế là tối hôm đó tôi thức trắng đêm để viết lá thư làm quen. Ngày hôm sau tôi chạy ra bưu điện bỏ lá thư và đợi.1 tuần, 2 tuần, rồi 3 tuần trôi qua. Ngày nào tôi cũng ra mở hộp thư xem nhưng rồi lại thất vọng. Trong khi tôi đang hết hy vọng thì tôi nhận được lá thư của nàng qua ngày hôm sau. Mừng như bắt được vàng, ngay tối hôm đó tôi đã viết lá thư dài 4 trang gửi cho nàng... Và từ đó mỗi tuần tôi đều viết 2,3 lá thư để gửi đi và nàng cũng viết trả lời 2,3 lần 1 tuần. Ngày nào tôi cũng mở hộp thư ra xem. Những khi nhận được thư của nàng tôi về đọc ngấu nghiến từng chữ một, và tối hôm đó tôi lại thức rất khuya để viết thư. Tình yêu xa của chúng tôi kéo dài được 3 năm thì tôi quyết định bỏ hết để đi tìm nàng. Thế là một chiều đẹp trời tôi xách ba lô lên đường...
Chuyến bay của tôi khởi hành từ chỗ bang tôi tới San Francisco mất hơn 2 tiếng, từ đây tôi đợi mất 3 tiếng mới có chuyến bay về Philippines. Ngồi ở phi trường đợi qua Phi mà lòng tôi cứ bồn chồn lo lắng. Philippines là ở đâu? Tôi chưa hề nghe nói tới, người Phi ra sao tôi cũng chẳng biết, tôi chỉ biết là nước Phi chỉ cách Việt Nam 2 tiếng bay. Nhưng tôi tin tưởng vào vợ tôi và giác quan của tôi, hơn nữa, sau 3 năm thư từ qua lại tôi biết vợ tôi là một người con gái tốt, gia đình gia giáo, có 11 anh chị em, quê ở một đảo nhỏ xíu, cho nên sau khi tốt nghiệp cử nhân nàng phải lên Manila thành phố lớn để đi làm, và nuôi các em ăn học.
Chuyến bay Philippines airline của tôi đáp xuống phi trường Manila lúc 4 giờ sáng, nhưng trời đã lờ mờ sáng. Bước ra khỏi phi trường là một cảnh chen chúc náo nhiệt. Nào là xe taxi, xe lam, xe đò. Ôi! Đủ thứ loại xe bấm còi inh ỏi.Trời mới sáng sớm mà đã cảm thấy nóng chảy mồ hôi. Cái nóng ở bên này khác với cái nóng ở bên Mỹ, hình như là hầm hơn thì phải chắc ở gần biển. Có 3 thằng nhóc cỡ 13,14 tuổi chạy lại hỏi bằng tiếng Anh:
- Anh có muốn đi taxi không?
Tôi nói là tôi muốn đi đến thành phố Madaluyon city nơi mà vợ tôi cư trú. Trong tay tôi chỉ có cái địa chỉ ngoài ra không có số phone vì nhà nàng không có phone.
3 thằng nhóc cầm tay tôi dẫn ra dàn taxi đang đợi sẵn. Có một ông đen thui mở cửa xe chạy ra nói Hello how are you lia..lịa, tôi đưa cái địa chỉ ra hỏi bao xa? Lão nói cỡ 40 phút. Tôi nói ok rồi nhảy lên xe, quay lại tôi thấy 3 thằng nhóc vẫn đứng nhìn tôi. Tôi móc ví ra cho mỗi đứa 5 đô. 3 thằng mừng rỡ thank you rối rít. Chúng cầm tờ 5 đô hun xong rồi bỏ trong túi cẩn thật. Hồi đó một đô la đổi được 53 tiền Phi gọi là peso. 1 gói thuốc chỉ có 20 peso. Ngồi trong xe tôi quan sát thành phố Manila, một thành phố lớn nhất của nước Philippines. Ngoài đường toàn xe hơi, xe lam người ta gọi là "jeepny" rồi đến xe đò, xe bus, cũng có vài chiếc xe honda hai bánh chạy chen lấn giữa các dòng xe. Một cảnh kẹt xe chưa từng thấy ở bên Mỹ. Còi xe inh ỏi, khói xe mịt mù. Tiếng người chào bán hàng, tiếng những thằng lơ chào mời khách lên xe đò..v..v.. Tôi có cảm giác như mình đang lạc vào một thế giới khác. Thay vì 45 phút mà khi đến nơi đã mất hết trên 2 tiếng.
Xe taxi đỗ lại trước một con hẻm nhỏ xíu vừa đủ hai người đi, rồi bác tài nói tới rồi. Anh cứ đi vào con hẻm này mà tìm số nhà, rồi lão nói 450 peso tính ra chỉ mất cỡ dưới10 đô nhưng tôi đưa cho lão 15 đô nói khỏi thối. Lão mừng lắm nói thank you lia lịa. Tôi bước xuống xe nhìn vào ngỏ hẻm mà cảm thấy ái ngại. 2 bên ngỏ hẻm có những người đàn bà và đàn ông đang ngồi giặt đồ trên những cái thau quần áo bự tổ bố, cho nên lối đi chỉ còn lại con đường duy nhất ở chánh giữa. Nước xà phòng của người giặt làm ướt cả lối đi. Tôi cầm cái địa chỉ nhìn số nhà lại một lần nữa rồi cất bước tiến vô. Cái ngõ hẻm này sâu hút, lâu lâu... lại thấy 1 cái ngõ hẻm khác bắt vào. Mấy người đang giặt đồ ngước mắt nhìn tôi. Tôi vội đưa địa chỉ hỏi thì một người nói vội: Sắp tới rồi, anh cứ đi thẳng 1 khoảng nữa thì nằm phía tay trái. Đến trước cái số nhà tôi đang tìm, đây là 1 căn nhà gỗ nhỏ đã củ kỷ mà nàng đang thuê. Nhà đã nhỏ thì chớ mà chỉ thuê có nửa căn cho nên cái nhà nhỏ xíu này có 2 cánh cửa. Đang do dự không biết gỏ cửa nào đây, thì có 1 thằng nhóc đen thui cỡ 16,17 tuổi mở cửa. Hắn trợn mắt nhìn tôi hỏi tôi bằng tiếng Anh: Anh tìm ai? Tôi đưa tấm hình và nói: Tôi tìm người này. Hắn nhìn vào hình rồi nói chị em đang ở nhà thờ. Tôi bỏ bao lô vào trong nhà rồi theo chân thằng nhỏ. Chuyến đi này của tôi, nàng không hề hay biết, vì tôi muốn biết con người thật của nàng có đúng như những gì trong thư không? Và cũng là dành cho nàng một sự ngạc nhiên. Nhà thờ rất gần, đi khoảng 5 phút là đến nơi. Nhà thờ rất lớn hình như là lâu đời lắm rồi, nhìn rất cổ kính. Người ta đi lễ đông đến nỗi phải đứng đầy ra sân. Thằng nhỏ dẫn tay tôi len lõi qua những hàng người đến một cái cửa bên hông nhà thờ. Hắn chen vào giữa đám người đang đứng đó chỉ tay và nói chị em đang ngồi đó, mặc áo màu hồng. Tôi hồi hộp nhìn theo tay nó. Đúng là nàng rồi, làm sao tôi quên được mái tóc đó và khuôn mặt đó. Con tim tôi bắt đầu đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài. Tôi dúi cho thằng nhỏ một ít tiền rồi nói nó về trước đi. Tôi đứng đó đợi cho tan lễ rồi mọi người lần lượt ra về. Tim tôi lại bắt đầu đập mạnh hơn nữa khi tôi thấy nàng làm dấu rồi đứng lên.Nàng đi ngang qua tôi rồi bất chợt quay lại,bốn con mắt nhìn nhau rồi nàng òa lên khóc và ôm chầm lấy tôi.Mọi người đều nhìn chúng tôi như cảm thông, có người còn nói với chúng tôi lời chúc mừng.
Sau 2 ngày chúng tôi lên phường đăng ký kết hôn. Chỗ này mọi người xếp hàng chờ ra đến đầu ngỏ rất đông. Chúng tôi đợi cả nửa tiếng cũng chẳng thấy nhúc nhích xíu nào nên tôi nói nàng đứng đó tôi đi lên xem sao! Đến nơi là 1 văn phòng chật nít người,tôi mon men tiến lại gần nhìn vào thì thấy có 2 cái bàn và 2 người đàn bà ngồi làm việc. Hình như ở đây họ lo về giấy tờ hôn thú, đám ma đủ hết. Người đàn bà ngồi bàn phía tay phải ngững đầu nhìn tôi rồi hỏi: Anh đến đây làm gì? Tôi nói tôi ở Mỹ về đây làm giấy tờ hôn thú. Bà ta hỏi bạn gái anh đâu? Tôi nói đang xếp hàng ngoài kia. Bà ta nói kêu cô ấy lên đây. Tôi chạy ra vẫy gọi bà xã lên. Hai chúng tôi ngồi vào ghế. Bà ta nói thủ tục giấy tờ là 375 peso. Tôi móc ví ra đưa cho bà ta 500 peso và ra dấu cho bà ta khỏi thối. Ba ta mừng ra mặt nói thank you và làm việc rất nhiệt tình. Sau 5 phút bà ta đóng cái dấu tròn đỏ chót vào lá đơn rồi đưa cho tôi. Tôi nói cám ơn rồi chào tạm biệt. Có cái giấy hôn thú trong tay chúng tôi mới làm đám cưới ở nhà thờ hợp lệ được. Nàng nói phải lên sở làm xin nghỉ,thế là chúng tôi đón xe đến nhà băng nơi nàng làm việc. Nàng đi vào rồi 15 phút sau đi ra mắt đỏ hoe nói là ông xếp không cho nghỉ 2 tuần, mà chỉ được 1 tuần mà thôi. Tôi nói thôi nghỉ luôn đi em. Anh sẽ ở đây đến khi nào em đi cùng với anh về Mỹ.
Chúng tôi mua vé thuyền để về đảo,vé hạng nhất, ở lầu 3 có phòng riêng, có phòng tắm,có tủ lạnh đựng đầy bia và nước ngọt muốn uống bao nhiêu cũng được.Mở cửa kính ra là balcony có bàn có ghế để ngồi hứng gió nhìn biển, đẹp tuyệt vời. Hành trình của chúng tôi là 3 ngày, 3 đêm mới tới cái đảo lớn, từ đó chúng tôi mới đón cái ghe nhỏ đi thêm 6 tiếng mới tới nơi.
Chiếc ghe nhỏ đã ghé vào một cái đảo nhỏ nước trong veo, trên đảo toàn là cây dừa. Mọi người trong làng chạy ùa ra đón vì nơi đây ít có khách tới thăm, hơn nữa là người nước ngoài. Ở đây không có chợ búa gì hết. Điện cũng không có chỉ mở buổi tối từ 6 giờ cho đến 10 giờ tối là hết. Vì họ tiết kiệm xăng. Trên cái đảo này có chưa đến 100 gia đình. Nghề của họ là trồng được cái gì ăn cái đó, phần đông họ bắt cá mà ăn. Bà xã nói: Một năm may lắm họ mới được ăn thịt 2,3 lần. Ở đây không có việc làm nên phần đông họ cho con cái đi làm ở những thành phố xa để nuôi gia đình. Trước khi về đây chúng tôi đã đi siêu thị mua đủ loại đồ hộp, thịt cá, bánh kẹo... nhưng chỉ ngại là không có nước đá uống. Lâu lâu có người lên tỉnh mua đồ về thì mới có đá để mua. Mọi người xúm lại vác đồ mang về nhà bố vợ. Căn nhà duy nhất trên đảo được làm bằng gạch là nhà ông bố vợ. Căn nhà cũng dài và rộng, có vườn trước, vườn sau, còn tất cả nhà hàng xóm là nhà bằng lá. Từ nhà bước ra khoảng 10 bước là ra bãi biển xanh và trong veo. Cát trắng tinh như ở những nơi du lịch. Từ ngày có tôi ở đây dân làng cứ kéo đến nhà đông nghẹt. Từ sáng tinh sương cho đến tối. Tôi nói với ông làng trưởng mở điện tối đa tôi bao tiền xăng, và tôi nói bà xã mua 3 con heo mang về đào lổ quay luôn sau nhà. Thế là cả làng kéo đến tha hồ ăn uống bia, rượu như ngày hội. Dân ở đây rất hiền và hiếu khách, họ bắt được con gì cũng mang đến biếu.
Đám cưới của chúng tôi trong một ngôi giáo đường nhỏ bé nhưng đầy tình thương của mọi người dân ở đây. Ở đây được 3 tuần thì chúng tôi chào biệt mọi người về lại Manila để làm giấy tờ bảo lãnh qua Mỹ. Mọi người ra tiễn đưa mà lòng bồi hồi khó tả.
Về đến Manila chúng tôi mướn hotel gần us embassy để sáng sớm ra làm giấy tờ. 4 giờ sáng chúng tôi ra tới nơi mà họ đã xếp hàng cả nửa cây số.Tôi dẫn bà xã lên trên cùng, bà xã cứ do dự vì sợ người ta la.Tôi cầm tay bà xã tiến thẳng vào cổng nơi có thằng MP người Mỹ đang đứng cầm khẩu M16 và đeo khẩu súng colt 45. Tôi đưa us passport ra hắn liền mở cửa cho tôi vào. Bên trong cũng đông nghẹt. Nhưng có bốc số thứ tự ngồi đợi. 1 tiếng sau có người gọi cái số bà xã tôi cầm. Thế là bà xã tôi đi vào. 15 phút sau bả chạy ra nói nó kêu anh vào. Bước vào thì có 1 cái cửa sổ nhỏ xíu và 1 cái ghế. Bên trong là 1 lão Mỹ râu dài tới rún. Hắn hỏi anh quen vợ anh ở đâu? Bao lâu? Có thư từ gì không? Vợ anh sinh năm nào, sống ở thành phố nào? Hai vợ chồng anh làm đám cưới ở đâu? Tôi móc ra 1 xấp thư hắn mở ra đọc vài lá, rồi coi ngày gửi... Sau khi hắn coi của hai bên xem có trùng hợp lời khai không, xong hắn đóng dấu cái bịch vào tờ giấy trước mặt,hắn nói anh chị về đợi ngày gọi lên phỏng vấn. Tôi trở lại Mỹ nhưng mỗi tháng tôi vẫn gửi tiền để bà xã tôi trả tiền nhà và lo cho các em. 4 tháng sau vợ tôi được gọi đi phỏng vấn. Tôi vội bay qua một lần nữa. Sau khi phỏng vấn xong và bà xã tôi đã được cấp giấy visa để đi Mỹ, lúc đó chúng tôi mới thở phào nhẹ nhỏm. Cũng có nhiều người làm đơn nhưng không được đi vì lý do gì đó. Hai vợ chồng đứng cải vả nhau trước cổng.
Trở về nhà, thì nhà của em bị cháy, cháy cả mấy trăm căn nhà một lúc. Quần áo, đồ đạc của tôi mang theo đều cháy rụi, nhưng may phước là ngày hôm đó chúng tôi mang giấy tờ theo để đi phỏng vấn chứ không cũng phiền lắm. Chúng tôi đi mua vé máy bay cho nàng rồi lại đi về đảo chơi thêm 2 tuần trước khi về Mỹ.
Tôi dẫn bà xã về nhà ra mắt bố mẹ tôi. Cả nhà tôi nghe tin tôi từ Phi về ai cũng mong thấy mặt cô dâu người Philippines xem sao! Khi thấy mặt vợ tôi mẹ tôi nói: Tao cứ tưởng nó đen thui chứ! Ấy vậy mà cũng đẹp ra phết. Và từ đó vợ tôi ở làm dâu luôn được vài năm thì ra mua nhà ở riêng. Trong thời gian ở với mẹ tôi, bà xã tôi đã học được tất cả những món ăn thuần túy Việt Nam. Từ phở cho đến bún, cá kho, thịt kho, canh cải, chả giò, bánh xèo... đều biết hết. Không những vậy mà món gì cũng biết bằng tiếng Việt. Mỗi ngày nấu cơm là bà xã tôi nấu hết cho cả nhà ăn. Dọn dẹp nhà cửa, hay đi chợ là một mình bà xã tôi làm. Mỗi lần thấy mẹ tôi làm cái gì đều dành để làm hết. Mẹ tôi thường nói trước mặt tất cả mọi người là: Nhà có mấy cô dâu nhưng vợ con tuy không phải là người Việt Nam nhưng cách cư xử và hòa nhập vào gia đình của chúng ta còn hơn cả người Việt Nam. Số con có phước mới lấy được người vợ như vậy.
Phải công nhận lấy được một người vợ tốt, không đua đòi, không cờ bạc rượu chè, chỉ chăm lo cho chồng con là tu cả mấy đời nhe quý ông.
Chiêu Đỗ

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét