Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Chủ Nhật, 6 tháng 8, 2023

THƠ LÀ GÌ? - Louis Tuấn Lê


Chúng ta thích đọc thơ rồi làm thơ nhưng ít khi để ý đến Thơ Là gì? vì đây là một câu hỏi rất khó trả lời. Tôi chia sẻ bài viết Thơ Là Gì? đây là một dạng biên khảo hay một tài liệu đúc kết về thơ, tôi sưu tầm, đã đọc rất nhiều trang tài liệu rồi tóm lược lại viết thành. Nếu có điểm gì sai sót xin độc giả bỏ qua. Thơ là hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người, một hình thức nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu và sự chọn lựa ngôn từ rồi sắp xếp theo vần điệu của thi ca, dưới dạng cô đọng, trừu tượng một cách hợp lý nhất (logic) để tạo ra hình ảnh, mang tính thẩm mỹ cao và âm thanh thể hiện cái hồn trong thơ đem đến một cảm xúc làm rung động tâm hồn người đọc.
<!>
Một câu thơ là một hình thức cô đọng mang nhiều ẩn ý, để truyền đạt một tư tưởng mang nhiều hình ảnh tạo nhiều cảm xúc cho người đọc, ngôn từ và ngữ pháp sử dụng trong thơ sẽ được hoàn chính theo cấu trúc tạo thành bài thơ.

Tính chất cô đọng trong ngôn từ, tính tượng hình và tiếng nhạc trong thơ, biến nó thành một hình thức nghệ thuật độc đáo, mang một sắc thái riêng biệt đứng bên cạnh các hình thức nghệ thuật khác.

Thơ tạo cảm hứng có một giá trị tinh hoa, đó cũng là một dạng đời sống khác biệt của thi nhân, tâm hồn rất dễ bị xúc động để rồi chọn lựa những từ ngữ rất ấn tượng mang tính chất trừu tượng (nửa thật nửa hư) để diễn tả cảm xúc, như một loại "mật ngữ" cúa các vị thần ban cho.

Tôi tìm hiểu thêm về đề tài Thơ Là Gì? Càng đi sâu càng thấy mênh mông như biển cả, không biết bắt đầu từ đâu và kết thúc ở điểm nào.

Tôi mạnh dạn bước vào xem thử ra sao, vì vậy bài viết này như một dạng biên khảo rồi đúc kết lại, tôi phải lục tìm rất nhiều trang tài liệu trên hệ thống Google Search nhận ra có nhiều nhà văn nhà thơ đã viết về chủ đền này, mỗi bài đều có sắc thái riêng. Tôi đọc rất nhiều, rút tỉa những điểm có ý nghĩa nhất về chủ đề Thơ Là Gì? Để nêu ra những điểm chính trong bài viết này. Nếu có sai sót xin quý độc giả bỏ qua cho.


Thơ có một lịch sử lâu dài nhất. Thơ có một định nghĩa sớm nhất tại Châu Âu qua sự nhận xét của nhà triết học Hy Lạp Aristotle (384-322 TCN). Aristotle sinh ra vào khoảng năm 384 TCN tại Macedonia thời Hy Lạp cổ đại nơi cha ông từng là một bác sĩ hoàng gia. Ông được xem như nhà triết học, có ảnh hưởng nhất với biệt danh khiêm tốn được mọi người gọi là “Thầy” hay chỉ đơn giản là “triết gia”.

Đối với Aristotle, những khuôn mẫu đặc thù của âm thanh và nhịp điệu, văn phong và thi pháp, chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Cái chính đối với ông là những gì bài thơ nói tới, nó là một chuỗi nối tiếp những động thái có quan hệ hỗ tương của con người.

Ông nói tiếp:

Tôi muốn biết yếu tính của thơ là gì, cái gì làm cho nó khác với các loại trước tác khác. Có phải nó là vấn đề những giá trị vững chãi, vấn đề sắc thái và nhịp điệu của âm tiết, từ ngữ, và các dòng chữ? Hay yếu tính của thơ nằm trong một cảm tưởng, một sự nhạy cảm, hoặc một thái độ nào đó đối với sự vật?

Aristotle, trong tiểu luận của mình về thơ, nói rằng thơ là sự mô phỏng động thái con người, được biểu hiện trong ngôn ngữ, với sự trợ giúp của hòa âm và nhịp điệu. Từ ngữ “mô phỏng” ông không có ý nói là bản sao của những biến cố thực tế, như cái máy ghi âm hay máy quay phim có thể đem lại. Ông muốn nói đến việc trình bày lại của những phương diện phổ quát của kinh nghiệm nhân sinh được tâm trí nhà thơ thu nhận.

Nhà thơ khác với nhà điêu khắc, họa sĩ, nhạc sĩ và các nghệ sĩ khác, nhà thơ làm việc với từ ngữ sử dụng ngôn ngữ để sáng tạo.

Nhà thơ, đối với Aristotle, căn bản là người kể chuyện, người sáng tác huyền thoại, người viết truyện mang tính chất hư cấu.

Nếu chúng ta chỉ nghĩ đến thực chất của thơ, như Aristotle khuyên, chúng ta nhất định sẽ xếp các tiểu thuyết và các vở kịch văn xuôi vào loại thơ. Nên chúng ta đừng ngạc nhiên khi nghe những nhà văn như: Cervantes, Fielding, và Melville, tự xem mình là nhà thơ. Thật vậy, các nhà phê bình đương thời đọc những tiểu thuyết lịch sử về Scotland của Scott và gọi chúng là những bài thơ. Và chúng ta sẽ hoàn toàn đúng khi gọi Hemingway, Faulkner, Arthur Miller, và Tennessee Williams là những nhà thơ.

Tuy nhiên, Plato ông cho rằng thơ mang lại sự thích thú và sự thanh thoát cảm xúc đáng ao ước. Mặt khác, ông nói rằng thơ tượng trưng cho những phương diện phổ quát của hiện hữu. Sự tưởng tượng của thơ, đối với Aristotle, trình bày những thực thể thiết yếu nên phải hết sức coi trọng nó.

Nhà phê bình Nga Bielinski từng nói: "Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật." Quả thật một bài thơ có giá trị là khi nó thể hiện được tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ, là khi nó viết lên bằng những dòng thơ, những câu thơ chân thành, bắt nguồn từ thẳm sâu trái tim người viết.

Tuy nhiên nếu muốn thơ là cầu nối giữa tác giả và bạn đọc thì "nội dung và hình thức luôn đồng nhất chặt chẽ với nhau".

Trở về với quan niệm Đông Phương vể thơ. Chúng ta không thể bỏ qua nền văn học Trung Hoa

Bàn về giá trị của thơ, trong tập thơ cổ "Trung Hoa Cổ kim hoàn ca tập", Viên Mai đã viết:

“Thơ bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ.”

Bạch Cư Dị, sinh ngày 28 tháng 2 năm 772 SCN tại Hà Nam, tên tự là Lạc Thiên. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc, đời nhà Đường. Đối với một số người yêu thơ văn thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch, Đỗ Phủ.

Bạch Cư Dị, cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịnh, Vương Kiến, chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức.

Ông nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm. Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân.

Ông chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giầu tính nhân bản, nói lên được nỗi lòng của mọi người trước thời thế, phản ánh được nổi thống khổ của người dân sống trong xã hội.

Bạch Cư Dị, nổi tiếng qua hai bài thơ Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca đã đủ chứng tỏ tài làm thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo.

Có thể nói rằng nếu không có một cuộc đời gian truân, hẳn là Bạch Cư Dị khó mà cảm thông với muôn sự éo le của mỗi số phận. Và nhiều khi, đọc thơ ông, ta còn thấy rõ cả tâm sự của ông khi ông kể và tả về người khác. Bài "Tỳ bà hành" là một ví dụ. Trong bài thơ dài này, khi thuật lại hành trạng đáng thương của người kỹ nữ, Bạch Cư Dị cũng đã giãi bày nỗi phiền muộn xót xa cho chính thân phận mình là người có tâm đức, tài năng mà bị bọn quyền thế gạt bỏ. Thơ của ông chính là sức mạnh lên án, tố cáo thực trạng vô nhân đạo của xã hội phong kiến trong sáng tác thơ ca Bạch Cư Dị chính là ở đó.


Tỳ Bà Hành
“Bản dịch Phan Huy thực”

Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khi hầu rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.

“Trích đoạn trong bài thơ Tỳ Bà Hành”

Bạch Cư Dị tiễn chân người bạn ra bến sông Tầm Dương lên thuyền về nhà, tại đây ông tình cờ nghe tiếng đàn tỳ bà của một kỹ nữ về già, ông liên tưởng đến thân phận mình, vì ông lên tiếng phản đối quan lại, nên bị bọn quyền thế lưu đầy. Ông đã gửi gấm tâm sự của mình qua bài thơ Tý Bà Hành.

Trong thời gian tù tập trung cải tạo tại trại 6 Nghệ Tĩnh. Tôi bị tập trung cải tạo cùng trại tù số 6 với Cụ Hà Thượng Nhân tức Trung Tá Phạm Xuân Ninh, ông có nhắc đến bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Bạch Cư Dị, đó là bài Tỳ Bà Hành.

Bài thơ diễn tả tâm trạng của hai người bạn, tiễn đưa khách tại bến Tầm Dương, chắc có lẽ vì (Bến Tầm Dương), cùng âm với Huyện Thanh Chương, (nơi đây có dòng sông Lam) cụ Hà đang bị giam cầm tập trung cải tại tại đây, cho nên cụ Hà đã viết:
Ý tưởng bài thơ Tỳ Bà Hành, như gợi nhớ lại âm điệu đoạn trường của tiếng đàn ngày xưa, trên bến Tầm Dương, sông nước mênh mộng, nhưng cũng chính là tiếng lòng rung động của một người bị trói buộc vào những cảnh ngộ đau lòng. Cho đến ngàn năm sau vẫn còn lại một mình ta.


Cụ Hà đã viết:

“Ôi cơn gió heo may thuở trước
Lạnh ngàn năm sông nước Tầm Dương
Về đây rừng núi Thanh Chương
Nghe heo may nổi canh trường ngẩn ngơ.
Trước đã có nhà thơ cùng quẫn
Ngàn năm sau sao vẫn còn ta?
Đời gần tưởng đã rất xa
Bâng khuâng vì tiếng tỳ bà chưa nghe.”

Thông qua giao tiếp giữa các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Thơ đã chuyển biến từ những cấu trúc đơn giản đến những cấu trúc phức tạp. Những xu hướng gần đây cho thấy, cấu trúc không còn là yếu tố quan trọng trong thơ.

Trong các thể loại thơ ở Việt Nam, chúng ta có thể kể đến vài thể thơ như:

Lục bát, Song thất lục bá, thơ Đường luật Thất ngôn bát cú, Thất ngôn tứ tuyệt, Ngũ ngôn bát cú rồi đến các loại thơ mới và thơ tự do.

Ngoại trừ thơ tự do, một hình thức hầu như không có một cấu trúc rõ rệt, các loại thơ khác đều phải tuân theo một cấu trúc nhất định.

Nhà thơ giống như một con ong biến trăm hoa thành mật, tha về một giọt mật trong một chuyến bay của hàng ngàn con ong. Chính là những ngôn từ được chọn lựa cho một bài thơ.

Cho dù bất cứ thể loại nào của thơ cũng cần phải có hồn. Hồn thơ làm cho nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm sinh động, có sức sống và mang một bản sắc riêng của nhà thơ.

Hồn thơ là mẫu số chung:

Hồn thơ chính là nguồn cảm xúc đầu tiên của một tác phẩm. Hồn thơ chính là mẫu số chung cho toàn thể các loại thơ khác nhau. Hồn thơ không chỉ hàm chứa bên trong một nội lực, sáng tạo nhiều cảm xúc cho thi nhân, mà hồn thơ còn là yếu tố tạo thành điểm đặc trưng, nét đặc biệt của người nghệ sĩ thể hiện qua từng trướng phái khác nhau của thơ.

Tiếng nhạc trong thơ:

Ngoài ra trong thơ phải có tiếng nhạc, đây chính là yếu tố làm cho bài thơ dễ được cảm nhận bởi người nghe hay người đọc. Câu chữ trong thơ văn, hay trong ngôn ngữ, giúp con người tái tạo lại hình ảnh mà nó miêu tả, song âm thanh và vần điệu của các từ lại gây cảm xúc về âm nhạc.

Hình ảnh trong thơ:

Tính chất hội họa trong thơ, hay còn gọi là tính tạo hình, là một tính chất cơ bản. Người làm thơ, trước khi viết thơ, thường rơi vào tình trạng mà người ta gọi là "cảm hứng". Trong tình trạng này, các hình ảnh thu được trong trí nhớ, có thể bao gồm tất cả những khung cảnh ở bên ngoài quan sát được, liên kết với nhau, tạo nên một bức tranh trong một thế giới nhỏ bé. Hình ảnh có thể rõ đến mức người ta gần như cảm thấy như có thể động vào những vật thể, hay ngửi thấy mùi vị, thấy được màu sắc và sự chuyển động thật sự trong bài thơ.

Bạch Cư Dị đã nêu lên những yếu tố then chốt trở thành điều kiện, để sáng tác một bài thơ và giữ được cái hồn của thơ đó là:

Cái cảm hoá được lòng người:

- Chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm,
- Chẳng gì đi trước được ngôn ngữ,
- Chẳng gì gần gũi bằng âm thanh,
- Chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa”

Có bốn nguồn gốc gắn bó cấu tạo cho thơ:

1- Gốc là tình cảm,
2- Mầm lá là ngôn ngữ,
3- Hoa là âm thanh,
4- Quả là ý nghĩa.

Quan niệm này không chỉ dừng lại ở việc nêu lên các yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng, giống như gốc rễ, mầm lá, hoa, quả, gắn liền với nhau trong một thể thống nhất hoàn chỉnh và sống động. Đây có thể coi là quan niệm về thơ toàn diện và sâu sắc nhất trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa.

Nữ văn hào Emily Dickinson là cây bút thơ đặc sắc nhất của Mỹ thế kỉ XIX. Bà đã để lại cho hậu thế tới 2000 bài thơ với nhiều bài có ý tưởng hết sức độc đáo. Trong quan điểm về thơ ca, bà cũng có cách nhìn rất ấn tượng.

“Nếu một cuốn sách làm cho tôi cảm thấy giá lạnh mà không một ngọn lửa nào có thể sưởi ấm, tôi biết đó là thơ”

“Nếu tôi cảm thấy mình đang cất cánh, tôi cũng biết đó là thơ. Đó là cách duy nhất để tôi biết những điều này, liệu còn cách nào khác nữa không?”

Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu viết rằng:

“Triết lý khô như vách đá. Thi ca ướt như sương đẫm. Vách đá nhuốm hơi sương. Sương đẫm tươi vách đá, cả hai hỗ tương nhau tạo thành sức sống như năng lượng phù trầm, tương dung tương nhiếp, một mực không rời.”

Thơ ướt át nhiều tình cảm mang đậm nét trữ tình

Thơ trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh học của ngôn ngữ (như cao độ, cường độ, trường độ…) không được tổ chức thì trong thơ, trái lại, những đặc tính ấy lại được tổ chức một cách chặt chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ không nói hết.

Bởi thế, đặc trưng tính nhạc trong thơ, được coi như điểm trọng yếu nâng cao hồn thơ lên tầm mức thi ca làm rung động lòng người.

Hiện nay, thơ trở thành hình thức nghệ thuật hầu như ai cũng biết đến. Không một ai đã từng ngồi ghế nhà trường thông qua giáo dục mà không biết vài câu thơ.

Thơ còn trở nên hình thức để bày tỏ tâm tư và chứa đựng tính sáng tạo của con người. Có thể nói, sự tồn tại của thơ đi song song với sự tồn tại của ngôn ngữ.

Thơ bắt nguồn và đơm hoa kết trái từ sự rung động của tác giả, chuyển hóa tư tưởng qua vần điệu thi ca gửi đến người đọc bằng cảm xúc mãnh liệt.

Tiếng lòng chính là nội dung của bài thơ, được ví như gốc rễ, phần nằm sâu trong lòng đất, là bộ phận quan trọng, hút dinh dưỡng nuôi sống thân cây. "Rễ” quan trọng như vậy nhưng nó lại khó thấy, vì nằm sâu trong lòng đất.

Do đó thơ bắt nguồn từ thẳm sâu trong trái tim người viết, từ những xúc cảm ngọt ngào, êm ái khi hấp thụ chất phù sa, sau khi hút chất dinh dưỡng ấy, nó sẽ dơm hoa kết trái.

Đó là sự thăng hoa của nghệ thuật, mà cụ thể ở đây là “từ ngữ”. Từ ngữ trong thơ ca cũng chính là chất liệu được thi sĩ mã hóa, sàng lọc từ cuộc đời để tạo ra những câu thơ tinh túy nhất. Chính nhờ những ngôn từ bay bổng, cảm xúc từ tận đáy tâm hồn của tác giả mới được thăng hoa.

Trong thang bậc giá trị nghệ thuật, thơ đứng vị trí đầu tiên. Thơ tạo cảm hứng, sự rung động có một giá trị tinh hoa, đó cũng là một dạng đời sống khác biệt của thi nhân.

Họa sĩ giúp ta nhìn bằng chất liệu là màu sắc, nghề cầm bút thì chất liệu giúp ta nhìn là ngôn từ.

Có thể nói ở Việt Nam khi bất kỳ ai đó cất lên vài câu nghe có vần có vè thì mọi người cho đó là thơ. Vậy làm thơ dễ dàng như thế sao? Thơ là loại hình nghệ thuật ngôn từ cao cấp, là tinh túy của ngôn ngữ.

Có rất nhiều người làm thơ mà không hiểu thơ là gì, thậm chí ngay cả những người phê bình thơ, cũng không hiểu thơ là gì. Ngày nay thơ đã trở nên bội thực vì có quá nhiều nhà thơ, tuy nhiên nếu xem xét trên thực tế, thì liệu có bao nhiêu tác phẩm được cho là thơ đúng với khái niệm mà nó hàm chứa?

Không phải ai muốn viết cũng viết được, không phải ai có vốn sống phong phú cũng có thể viết được, nhưng tất nhiên, nếu họ muốn viết thì một ngày nào đó họ cũng sẽ viết được và cũng không phải ai cũng cứ ngồi xuống là có thể viết được (đó là những người siêu đẳng).

Điều quan trọng nhất đối với người cầm bút, là không được tách rời giữa việc viết với đời sống thực sự. Nhờ sự tiếp xúc, cọ sát thường xuyên mà ý tưởng mới căng tròn, và một lúc nào đó thích hợp, ta vui sướng viết ra ý tưởng đó.

Nhà thơ người Mỹ (W. H. Auden) nêu ra ý tưởng mang tính chất định nghĩa này đối với Thơ:

“Thơ là biểu đạt trong sáng của những cảm xúc rối bời”
(Poetry is the clear expression of mixed feeling).

Chúng ta có thể chứng minh định nghĩa này qua bài thơ Ru con của tác giả vô danh có lẽ đây là một người đàn bà đang nuôi con nhỏ ở một vùng thôn quê nào đó tại Việt Nam. Chúng ta thử tìm hiểu qua bài thơ này để chứng minh một cảm xúc rối bời được viết ra như thế nào.

Ru con

Bồng bồng con nín con ơi
Dưới sông cá lội, ở trên trời chim bay.
Ước gì mẹ có mười tay
Tay kia bắt cá, còn tay này bắn chim.

Một tay chuốt chỉ luồn kim
Một tay đi làm ruộng, một tay tìm hái rau.
Một tay ôm ấp con đau
Một tay vay gạo, một tay cầu cúng ma.
Một tay khung cửi guồng xa
Một tay lo bếp nước, lo cửa nhà nắng mưa.
Một tay đi củi muối dưa
Còn tay để van lạy, để bẩm thưa, đỡ đòn.
Tay nào để giữ lấy con
Tay nào lau nước mắt, mẹ vẫn còn thiếu tay.

Bồng bồng con ngủ cho say
Dưới sông cá vẫn lội, chim vẫn bay trên trời.

Người đàn bà vô danh tác giả của bài thơ Ru con, đang muốn nói điều gì trong cảm xúc rối bời đó. Có muốn nhăn nhủ gì đó với người chồng của minh, hay với mẹ chồng, em chồng hay không?

Người đàn bà chân quê tác giả bài ru con, có biết chữ hay không? Hay chỉ là một cảm xúc rối bời, buột miệng nói lên những suy nghĩ của mình, bài thơ như một câu vè hay lời ru con trong ca dao tục ngữ.

Hay giống như người cổ đại xa xưa vẽ tranh trong hang động mà họ không cần biết chữ, những bức tranh trong hang động có thể là một bài thơ nhắn nhủ cho hậu thế.

Đại thi hào Nguyễn Du đã viết lên tác phẩn Truyện Kiều qua hình thức thi ca dài hơn 3000 câu thơ, cậu chuyện như một tiếng kêu xé ruột, đau lòng. Khi viết xong tập thơ Truyện Kiều, Nguyễn Du chưa thấy ai có thể đồng cảm với mình.

Ông đã viết:

“Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
“Ai biết hơn ba trăm năm nữa, liệu có ai thầm khóc thương Tố Như này?”

Tố Như chính là Nguyễn Du

Chưa thấy ai đồng cảm với mình, Nguyễn Du vẫn viết, cũng như người đàn bà vô danh không biết chữ vẫn hát lên bài Ru con.

Như vậy chúng ta thấy rằng người làm thơ khi nói ra hoặc viết ra bài thơ thường là nói cho chính mình và viết cho chính mình, nói ra hoặc viết để làm vơi đi nỗi lòng đang thôi thúc trong tâm hồn của mình.

Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ cô đọng đầy cảm xúc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu mang tính âm nhạc trong thơ.

Qua kinh nghiệm của chính tôi, dường như tôi có một cơ duyên đến với thơ. Khi tôi bị tập trung cải tạo tại trại tù số 6 huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ Tĩnh, trong giai đoạn này tôi ở chung đội tù với nhà thơ Tô Thùy Yên tức Thiếu Tá Đinh Thành Tiên, hơn nữa tôi lại nằm cạnh ông, tôi thấy ông làm thơ, và tôi cũng bắt trước làm thơ nhờ ông đọc qua và nhận xét.

Tô Thùy Yên đã nhân xét, ông nói với tôi:

- Tuấn à! Anh thấy thơ em viết cũng rất có hồn, nên viết nhều hơn nữa.
Có lẽ từ đó tôi bắt đầu viết nhiều hơn, tuy nhiên theo tôi muốn làm thơ hay cần phải đọc thật nhiều, cả những bài hay và những bài không hay, vì bên trong những bài thơ này luôn ẩn giấu nhũng “mật ngữ” rất hay, chính điểm này sẽ làm cho thư viện từ ngữ trong tâm hồn mình có nhiều ngôn từ hơn để diễn tả.

Thơ Là Gì? Đây là một câu hỏi rất lớn, nếu muốn giải thích hết ý nghĩa của câu hỏi, thì không có bút mực nào viết hết được.

Tôi không phải là nhà phê bình và cũng không tự nhận là nhà thơ, tôi chỉ là người thích thơ và muốn tìm hiểu thêm về thơ, tự mình đi tìm tài liệu rồi viết lại như một dạng biên khảo hay dạng tài liệu để từ đó người đọc có thể tìm hiều thêm.

Trong bài viết này chắc chắn có nhiều sai sót rất mong độc giả bỏ qua cho. Tôi xin dừng lại ở đây và mượn bài thơ Ngôn từ trong thơ do tôi viết để kết thúc bài biên khảo này.




Ngôn Từ Trong Thơ

Chữ trong thơ chợt ngoi lên
Bồng bềnh ngôn ngữ nằm bên cuộc tình
Thả trôi theo khóm lục bình
Hỏi em che dấu bóng hình nơi đâu.

Gió đưa dải yếm qua cầu
Hương thơm tơ lụa tầm dâu ngỡ ngàng
Soi nghiêng vạt áo lụa vàng
Dáng em quyến rũ dịu dàng bước đi.

Dấu chân hoa nở xuân thì
Môi xinh cười nụ tình si lạ thường
Đồng xanh bát ngát quê hương
Cỏ mền ướt đọng giọt sương bàng hoàng.

Nhớ em thung lũng hoa vàng
Thương nhau ôm cả hành trang vào đời
Dù mai góc bể chân trời
Theo em phố núi rong chơi tháng ngày.

Tóc em thơm ngát hương say
Môi em mềm mại ngất ngây đậm đà
Khói trầm hương phủ bóng tà
Mắt xanh liếc nhẹ mặn mà trao duyên.

Vai nghiêng suối tóc tơ huyền
Đôi gò bồng đảo hai miền tuyết băng
Đêm huyền ảo dưới bóng trăng
Tay em dài nụ búp măng gợi tình.

Tình yêu không phải vô hình
Chạm môi mới biết chân tình thật hư
Yêu là hiện hữu thiên thu
Quanh co dấu hỏi trầm tư mập mờ.

Tế Luân

Xin kết thúc bài viết nơi đây
Louis Tuấn lê

Viết xong 08-06-23
Ghi chú:

Tài liệu tham khảo từ nhiều nguồn trên Google Search
Và trang Vikipedia.


Không có nhận xét nào: