Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2023

Đồng Đăng Có Phố Kỳ Lừa... Tùy bút Hoàng Chính


Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Từ khi có trí nhớ tôi đã nghe được câu hát ru ấy của Mẹ tôi. Và suốt thời thơ ấu thỉnh thoảng tôi lại hỏi Mẹ phố Kỳ Lừa ở đâu. Mẹ tôi thường trả lời qua quắt rằng Phố Kỳ Lừa ở xa lắm, tận ngoài Bắc cơ.Thời học trò một đôi lần tôi nghe thầy dạy Việt Văn đọc hai câu ấy. Tôi rụt rè không dám hỏi cái câu thuở bé vẫn thường hỏi Mẹ mình. Nhưng một cô bạn học (cái cô tên Ngọc nhanh nhảu ấy) hỏi dùm tôi và dùm luôn cả lớp. Thày bảo phố Kỳ Lừa ở Lạng Sơn và chùa Tam Thanh dựng trong lòng vách núi gần ba hang sâu, gọi là động. Thầy còn bảo đứng ở cửa động nói thật to, tiếng của mình sẽ vang và dội lại ba lần từ ba lòng hang sâu, vì vậy mới có tên Tam Thanh.
<!>
Từ đó, tôi luôn mơ tưởng một ngày quê hương hết chiến tranh, được về xứ Bắc, thăm phố Kỳ Lừa, chuyện trò với nàng Tô Thị và đứng ở cửa động Tam Thanh, gọi lớn tên Việt Nam, để nghe những chữ Việt Nam vang động không gian.

Năm 1975, súng ngưng nổ, đạn thôi bay nhưng chiến tranh chưa thực sự chấm dứt trên mảnh đất hình chữ S. Một ngày nghe tin nàng Tô Thị đã bị đám người được mệnh danh là “bọn xấu” đục đẽo lấy đá vôi đem bán, tôi buồn, như đã buồn khi nghe tin mất Đã Nẵng những ngày cuối tháng Ba năm xưa.

Cái tên Đồng Đăng với Kỳ Lừa chìm dần vào quên lãng, mãi đến lúc gần đây Đồng Đăng, Kỳ Lừa với chùa Tam Thanh bỗng ùa về trong trí nhớ.

Tất cả cũng từ cái chuyện năm xưa:

Cái chuyện xa xưa ấy như thế này: Tháng 01 năm 1978, trong chuyến viếng thăm chính thức Thái Lan, Malaysia, Singapore nhằm thăm dò và tìm hậu thuẫn, Đặng Tiểu Bình - bạn còn nhớ cái tên này chứ? Lãnh tụ tối cao của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ở thời điểm 1979 đấy - Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học.”

Ngày 17 tháng Hai, 1979, Trung Cộng xua quân, vượt qua biên giới, tràn vào sáu tỉnh phía bắc của Việt Nam để chém giết và hãm hiếp phụ nữ; cắt cổ, chặt tay chân trẻ con quăng xuống giếng; để san bằng mọi thứ... Và họ gọi những hành vi man rợ ấy là “cuộc chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam.”

Tôi còn nhớ vào thời kỳ căng thẳng ngoại giao giữa Trung Cộng và Cộng Sản Việt Nam những năm từ sau 1975, những buổi học chính trị trong khuôn viên trường đại học, những tay lớp trưởng, lớp phó luôn miệng huyênh hoang “Trung quốc sẽ không bao giờ dám đánh Việt Nam chúng ta.”

Bọn sinh viên chúng tôi biết những con vẹt ấy tin chắc như thế bởi vì thời điểm ấy bộ đội Cộng Sản Việt Nam vừa mới đọ sức với quân đội Việt Nam Cộng Hòa và các nước Đồng Minh; sau chiến tranh, vũ khí chiến cụ Mỹ để lại còn nhiều; thêm vào đó, tháng 11, 1978 Cộng Sản Việt Nam ký với Liên Xô hiệp ước hữu nghị hợp tác, đồng thời gia nhập Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế và được Liên Xô tấn phong là “Tiền đồn đáng tin cậy của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa ở Đông Nam Á.” Chẳng những thế, cộng sản Việt Nam còn mở hải cảng Cam Ranh cho Hạm Đội Thái Bình Dương của Liên Xô ra vào thoải mái. Trước những chuyện được xem là chướng tai gai mắt ấy, trước mối tình càng lúc càng keo sơn giữa Cộng Sản Việt và đàn anh (số 1) Liên Xô, Cộng Sản Tầu (đàn anh số 2) nóng máu bèn cắt đứt hoàn toàn viện trợ cho đàn em và gọi ngay Việt (Nam) là “tiểu bá” và Liên Xô là “đại bá”.

Những màn minh xác quan hệ toàn diện giữa hai đảng Cộng Sản Nga và Việt ấy khiến các ông trùm cộng sản Việt ở cả hai miền Nam & Bắc cùng tin là nếu có chuyện va chạm giữa Tàu và Việt thì ông anh có cái tên rộn rã là Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết sẽ nhảy vào bênh vực ngay.

Họ đã lầm to!

Dưới tầm đại pháo của kẻ láng giềng phương bắc, người dân kéo nhau chạy giặc. Người sống sót - ở Cao Bằng chạy giặc xuôi về Bắc Kạn - kể chuyện về một người phụ nữ có tên Dén. Cô Dén cùng người làng lũ lượt níu kéo nhau cố chạy sao cho càng xa tầm đạn của quân Tàu càng tốt. Họ len lỏi trên những lối mòn, qua khúc đường có trạm đóng quân của lính Trung Cộng. Đứa bé trên tay cô Dén khóc vì đói, vì khát, vì những tiếng nổ inh tai, vì khói cay mù con mắt. Những người cùng chạy giặc với cô gầm gừ bắt cô dỗ cho thằng bé nín khóc. Đồn lính Trung Cộng nằm ngay bên lối mòn. Chỉ một tiếng động khả nghi là cả đoàn sẽ mất mạng. Suốt mấy ngày qua họ còn nhớ như in hình ảnh những đứa bé bị lưỡi lê đâm xuyên thân thể, những người đàn bà quê mùa lam lũ bị quân Tầu nắm tóc kéo lê lết trên đường, những tiếng phụ nữ hét thất thanh khi bị lưỡi lê đâm xuyên sau khi bị hãm hiếp. Những hình ảnh ấy còn đặm nét trên võng mạc đoàn người chạy giặc. Vì vậy người thiếu phụ vừa chạy vừa bịt miệng, bịt mũi thằng con để nó không khóc được, để đoàn người chạy giặc không bị chết oan. Thằng bé càng giẫy giụa, bàn tay mẹ nó càng bịt chặt. Đoàn người nín thở lom khom chạy thoát khỏi khu vực có lính Tầu trấn giữ. Khi lẩn vào được dưới những tàng lá xanh rậm rạp, cô Dén rời bàn tay tê dại khỏi miệng, khỏi mũi thằng bé. Và cô chỉ thấy cái mặt tím bầm, chỉ thấy hai còn mắt trợn trừng và dấu vết những ngón tay cứng như những thanh sắt của cô bầm tím trên má, trên môi thằng bé. Nó không còn khóc nữa. Nó không bao giờ khóc nữa!

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa.

Mãi sau này tôi mới được biết thêm về cái địa danh đi lạc vào ca dao ấy. Khi – đã không thể bưng bít thêm – nhà cầm quyền Hà Nội nới lỏng những vòng dây siết cổ dư luận, người ta mới có dịp nghe kể lại những chuyện tưởng chừng chỉ xảy ra ở đất Miên năm 1975, nơi những Cánh Đồng Chém Giết có bọn Khờ Me Đỏ một thời làm mưa làm gió. Mãi sau này tôi mới để ý tới hai câu còn lại của bài ca dao ngắn ngủn về Đồng Đăng, về phố Kỳ Lừa, về Nàng Tô Thị, về chùa Tam Thanh:

Ai lên xứ Lạng cùng anh
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.

Nếu hồi xưa để ý hai câu sau ấy, tôi đã không phải hỏi mẹ tôi Kỳ Lừa ở đâu. Và nếu nhà cầm quyền Hà Nội không bưng bít thông tin thì tôi và bao nhiêu người Việt Nam khác đã biết hơn bốn mươi năm trước, sau chuyến công du thủ đô Washington, được tổng thống Mỹ Jimmy Carter tiếp kiến (và bật đèn xanh?), 5 giờ sáng ngày 17 tháng Hai, 1979, Đặng Tiểu Bình chính thức xua 120,000 quân với xe tăng, thiết giáp tấn công sáu thành phố Việt Nam dọc theo biên giới Việt Hoa: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Vậy là Đồng Đăng trong câu hát ru của Mẹ tôi nằm trong tầm đại pháo của quân Tầu. Những đỉnh đồi xanh biếc như nguồn sống của người dân miền cao bỗng biến thành sân tập của bọn pháo thủ Trung Cộng. Những ngọn đồi mất tên, chỉ còn là những cao điểm mà trong đó hai cao điểm quen tên với những người bộ đội Cộng Sản Việt Nam thời đó là Cao Điểm 685 và Cao Điểm 772. Những núi, những đồi tan tác dưới mưa pháo của quân Tầu tới mức những người có mặt trong chiến trận nơi ấy đặt cho địa danh cái tên “Lò Vôi Thế Kỷ”.

Cuộc xâm lăng biến thành cuộc thảm sát kinh hoàng. Quân xâm lăng không chỉ thực hiện những hành vi dã man trên con người mà trên cả những vật vô tri giác. Những người sống sót kể rằng ngay cả những cột điện ở Cao Bằng cũng bị lính Tầu gài chất nổ cho gẫy gập, tới xe cộ cũng bị trả thù; xe của Tầu được tha, xe của Nga thì bị đặt mìn nổ tung. Trâu bò không kéo về Tầu được thì bắn chết sạch. Cao Bằng cũng là nơi mà hôm trước ngày bị tấn công, Thượng Tướng Đàm Quang Trung của Quân Đội Nhân Dân Cộng Sản Việt Nam còn tuyên bố “Có cho kẹo Trung Quốc cũng không dám đánh ta... Đánh không được đâu!” Và cũng chính ở đất Cao Bằng ấy 43 thi thể phụ nữ và trẻ em Việt bị quăng xuống giếng sau khi bị giết bằng búa và lưỡi lê.

Cuộc chiến tranh chìm vào quên lãng. Người ta tránh nhắc tới những ngày tháng ấy. Những mộ bia ghi nhận những địa danh, những trận đánh bị đục bỏ, những tấm bia tưởng niệm bị tháo gỡ. Không một chi tiết nào được nhắc tới. Người ta lập danh sách những “Liệt sĩ chiến tranh chống Pháp”, những “Liệt Sĩ chiến tranh chống Mỹ” nhưng những người gục ngã trong cuộc chiến với quân Tầu thì chỉ được ghi nhận một cách mơ hồ là “Liệt Sĩ chiến tranh biên giới”. Trong chương trình học của học sinh từ tiểu học lên đến đại học hầu như không có dòng nào trong cách sách sử nhắc đến cuộc chiến tranh biên giới.

Bốn mươi năm sau, một nông dân đi cày ở thuở ruộng cằn ven biên, nhặt được cái nón sắt đầy lỗ đạn, định đem bán đồng nát lấy ít tiền mua gạo, nhưng nghĩ sao anh lại đem cất đi. Khi được hỏi lý do, anh trả lời đại khái là cứ giữ đấy, để mai sau khi kể cho con cháu nghe về những ngày chinh chiến, còn có chút bằng chứng đưa ra cho chúng nó xem.

Tôi mến phục người đàn ông quê mùa ấy. Một con người cày cuốc vô danh còn thấy mình có trách nhiệm với lịch sử. Trong khi bọn cầm quyền không bao giờ nhắc tới những gì đã xảy ra ở những thành phố, những thôn xóm, những bản làng vùng biên giới Việt Hoa năm 1979 và bao nhiêu năm sau đó.

Và bạn có đồng ý với tôi là từ cuộc chiến tranh biên giới ấy, có thể rút ra một bài học cho người Việt nói chung, đó là chẳng nên tin tưởng bất kỳ ngoại bang nào. Trước khi tấn công Cộng Sản Việt Nam năm 1979, Trung Cộng cũng lo lắng là Liên Xô có thể can thiệp vì Việt Nam đã ký với Liên Xô một hiệp ước gì đó, nghĩa là Liên Xô sẽ can thiệp nếu Việt Nam bị kẻ nào đó tấn công, thế nhưng Liên xô đã chẳng làm gì hết khi quân Trung Cộng tấn công qua biên giới, gây máu lửa khắp nơi!

Năm 2019 tức là bốn mươi năm sau những ngày tháng kinh hoàng ấy, lúc sắp đến ngày kỷ niệm đau thương của cuộc chiến tranh biên giới 1979, một tay giáo sư nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đưa ra những lập luận cho rằng Tầu và Ta cần phải ngồi xuống với nhau để thảo luận, để trình bày, để thống nhất về những sự kiện lịch sử liên hệ đến cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 (và liên tục nhiều năm sau đó) để viết ra một thứ tạm gọi là “chính sử”, cho học trò Việt bên này biên giới có bài học lịch sử giống hệt bài học lịch sử của học trò Tầu bên kia biên giới. Tay giáo sư này còn đưa ví dụ sau Thế Chiến I, Pháp và Đức cũng tìm cách ngồi lại để cùng thảo luận việc ghi chép các sự kiện lịch sử, nhưng hai nước ấy đã không đi đến được kết luận chung, kết quả là Thế Chiến II lại bùng nổ. Tay giáo sư đề nghị Việt Nam không nên vội vã ghi những biến cố lịch sử vào sách sử mà phải bàn bạc với Trung Cộng hầu tìm ra những điểm chung trong cuộc chiến ấy mà cả hai nước đều có thể đồng ý.

Nghe cái đề nghị ngây ngô của anh giáo sư sử học kia, những người có chút suy nghĩ hẳn sẽ ngạc nhiên ghê lắm. Bởi sự kiện lịch sử thì đứng ở đâu nhìn vào cũng vẫn là sự kiện lịch sử. Đặng Tiểu Bình phán “Dạy cho Việt Nam một bài học” thì tường trình từ góc nào cũng vẫn là “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Chuyện quân Tầu ném lựu đạn vào hầm trú ẩn đầy những đàn bà và trẻ con Việt Nam, rồi chờ ai chạy ra thì bắn chết... thì nhìn từ bên này hay bên kia biên giới cũng vẫn là quân-tầu-ném-lựu-đạn-vào-hầm-trú-ẩn-đầy-những-đàn-bà-và-trẻ-con-Việt-Nam-rồi-chờ-ai-chạy-ra-thì-bắn-chết.

Chẳng lẽ phải ngồi xuống chờ đám viết sử Trung Quốc phán chuyện này quả là có xảy ra thật nhưng kể lại sẽ gây mất đoàn kết, các đồng chí phải xóa bỏ vân vân và vân vân rồi mới quyết định nên kể hay không nên kể lại cho đám con Rồng cháu Tiên?

Anh giáo sư còn dạy rằng chúng ta phải học hỏi từ những nước khác. Nhưng mà những nước khác là những nước nào? Giáo sư muốn nói tới Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ chăng?

Bạn thân mến. Tôi viết những dòng này vào tháng Hai năm 2019 khi ở quê nhà bên kia bờ biển Đông, cái gọi là “ban tuyên giáo” ra thông báo số 78 chỉ thị cho báo giới “không được dùng từ ‘chiến tranh xâm lược’, không phân tích nguyên nhân cuộc chiến, không chỉ trích Đặng Tiểu Bình, không dùng các từ ngữ như ‘đẫm máu, tội ác’, không dùng ngôn ngữ kích động việc tưởng nhớ những người lính đã chết trong cuộc chiến 1979 và nhất là tuyệt đối không chỉ trích nhà cầm quyền Trung Quốc.”

Vậy là bài viết này đã vi phạm toàn bộ những điều cấm đoán của bọn cầm quyền Hà Nội; vi phạm từ A đến Z.

Bạn thân mến, khơi lại chuyện xưa tôi không muốn nuôi mãi sự thù hận, nhưng tôi cũng không thể đưa bàn tay hiền hòa (người Việt Nam rất hiếu hòa) ra để bắt tay với kẻ đang cầm trong tay lưỡi dao mà ngàn năm trước tổ tiên gã đã dùng để cắt cổ mổ bụng những đồng bào tôi. Bắt tay làm sao được khi tôi còn nhìn thấy vết máu những người dân miền núi đất nước tôi dính cứng trên mũi dao nhọn, bởi lưỡi dao hung hãn ấy là thứ cái gã đang muốn bắt tay tôi kia đã sử dụng ở Đồng Đăng, ở Thanh Thủy, ở Thanh Đức, ở Lao Chải, ở Cao Điểm 685, ở cao điểm 772, ở Tổng Chúp... cách đây mới chỉ 40 năm. Bọn cầm quyền Hà Nội chắc đã quên nhưng những người Việt Nam khác sẽ không quên.

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa.

Một ngày không xa Đồng Đăng với Kỳ Lừa sẽ có tên tiếng Tầu. Tuy nhiên Đồng Đăng với Kỳ Lừa, với chùa Tam Thanh sẽ không bao giờ bị đổi tên trong trí nhớ tôi và trí nhớ những người Việt Nam tha thiết với từng vuông đất quê nhà đang dần mất vào tay kẻ thù phương Bắc.

Không có nhận xét nào: