Nhân Lễ Tạ Ơn năm 2020, xin tạ ơn tổ tiên ông bà cha mẹ của quê nghèo Bà Bài - Châu Đốc sản sinh ra tôi, tạ ơn đời nhà giáo an vui hạnh phúc chấp cánh cho tôi đến đời nhà binh 13 năm quân ngũ hào hùng. Tạ ơn Trời Phật cho tôi sống còn ở nhà tù khắc nghiệt cộng sản gần 10 năm. Tạ ơn gia đình vợ con cùng đồng lao cộng khổ và lời tạ ơn cuối cùng xin tạ ơn nước Mỹ cưu mang, người dân Huê Kỳ sẽ cho tạm trú tại nhà quàn tiển đưa tôi vào lòng đất lạnh Để tránh dịch bịnh COVID 19 lây lan, tôi ngồi độc ẩm lẻ loi một mình với món ăn ngon đưa cay gà tây truyền thống của dịp lễ này tại xứ Huê Kỳ do con cháu tôi mang đến. Tôi vừa ăn gà tây vừa nhăm nhi chút rượu cognac dù vào trưa mà trời lại lạnh của tiết thu đang chuyển mình sang mùa đông giá buốt. Những bắp thịt săn chắc của tôi - một huấn luyện viên thể dục thể thao năm xưa, nay chạy đâu mất tiêu chỉ còn trơ lại xương và da nhăn nheo mà lại lấy bụng ở đời, phệ ra mới ngầu dễ sợ!.
<!>
Thân xác biến đổi
làm cho giới cao niên thêm dễ bị lạnh bị cảm cúm vì thời tiết đổi thay, thay đổi
xoành xoạch của thung lũng Sacramento. Sự lo lắng của mọi người, nhất là giới gần
đất xa trời, già bấm không lủng như tôi thuộc U90 trong mùa đông cảm cúm. Nay lại
được tăng cường nàng mắc dịch Cô Vi 19 tiếp sức với mùa cúm định kỳ tạo thành
hai mũi giáp công tấn kích tới tấp vào giới già cả hom hem đang chờ Chúa Phật từ
từ gọi về, lại lo sợ được gọi đột biến khẩn cấp vĩnh biệt thế gian về cõi trên,
cũng nao nao tất dạ, buồn ơi là buồn!
Món ngon gà tây
tuyệt vời và rượu mạnh martell ngọt lịm, cùng lúc tâm trí tôi đang hoạt động
suy nghiệm mông lung, bỗng những chuyện xưa gợi nhắc lại quá khứ vui tươi hạnh
phúc thời nhà giáo mô phạm chuyển qua nhà binh hào hùng và đi đến nhà tù cộng sản
nghiệt ngã làm cho ngụm rượu mạnh trong miệng trở nên nhạt nhẽo không còn nồng ấm
nữa. Cuốn phim dĩ vãng một thoáng cuộc đời hiện ra, từ dân tới lính tới tù lại chầm chậm quay lại...
Trước năm 1957, tôi là giáo viên và huấn luyện viên thể dục thể thao trường Nam tiểu học tỉnh lỵ Châu Đốc. sau lên Sài Gòn học tiếp và dạy trung học. Năm1962, tôi đang dạy trường Trung học Phước Kiến từ niên học 1959 - 1960 (266 Đại lộ Khổng Tử - Chợ Lớn) chuyên dạy luyện thi trung học đệ nhất cấp, đa số học sinh gốc Hoa đã có bằng Tú Tài Hoa, trên dưới 20 tuổi, nhỏ hơn tuổi thầy vài tuổi, tối đa 5 tuổi. Lúc bấy giờ, thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, có lệnh những công ty, tiệm buôn, trên bảng hiệu, giấy tờ, sổ sách kế toán, thương mại phải có chữ Việt là chánh, cạnh bên hay ở dưới chữ Việt có thêm chữ Hoa, chữ Anh chữ Pháp...mới hợp pháp, đúng luật vừa ban hành trước đó, khoảng năm 1959 -1958.
Các
công ty, xí nghiệp, tiệm buôn của người Hoa, từ thời thuộc địa Pháp cho đến thời
điểm có luật bắt buộc đòi hỏi trên bảng hiệu, giấy tờ buôn bán phải có chữ Việt
như là thay chữ Pháp mà còn được xếp hạng cao hơn chữ của chủ nhân có hay chưa
có quốc tịch Việt Nam. Vì vậy, giới Hoa kiều phải biết thích nghi với luật lệ mới
của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa đang dành chủ quyền trên thương trường ít nhứt
trên giấy tờ. Bảng hiệu của các xí nghiệp, công ty người nước ngoài, sinh sống,
làm ăn buôn bán trên đất nước Việt Nam có chủ quyền thể hiện qua chữ Việt. Lúc
bấy giờ, giới thương mại người Hoa cho con em họ rầm rộ học chữ Việt mà trước đó họ xem thường, các
trường học của giới Hoa kiều từ tiểu học đến trung học đều xem ngôn ngữ Hoa là
chánh, chữ Việt, chữ Pháp hay chữ Anh là sinh ngữ mà sinh ngữ Việt lại đứng hàng
thứ ba sau sinh ngữ Pháp, Anh.
Khi
có luật mới ban hành, giới thương mại Hoa Kiều phải tuân hành, nếu không, sẽ bị
phạt từ nhẹ đến nặng hay bị đóng cửa...Các trường học người Hoa đang dạy ngày
hai buổi sử dụng chính là chữ Hoa tiếng Tàu. Nay họ đổi lại chương trình học,
tiếng Hoa được dạy vào buổi chiểu, còn chương trình dạy bằng ngôn ngữ Việt vào
trọn buổi sáng nhằm ứng phó với các đoàn thanh tra giáo dục của Tổng Nha Thanh
Tra - Bộ Giáo Dục, thường đến các trường vào buổi sáng kiểm soát sự chấp hành dạy
học theo đúng chương trình Việt Ngữ?. Đa số trường học của người Việt thời bấy
giờ, mỗi ngày chỉ dạy một buổi. Theo lý thuyết, chương trình học bằng ngôn ngữ
Việt của trường Tàu, phải đúng với chương trình học chung của các trường học trên
toàn quốc. Trong chương trình dạy bằng tiếng Việt, có môn học ngoại ngữ Anh văn
mà chương trình dạy bằng tiếng Hoa cũng có môn học này, gần cả chục giờ/tuần.
Trường học của người Hoa vừa nhạy bén vừa linh động xếp môn tiếng Anh vào chương
trình dạy bằng tiếng Việt buổi sáng, giáo chức giảng dạy tiếng Anh sử dụng tiếng
Hoa mà nếu có gặp thanh tra thì họ cũng có lý do giải thích suôn sẻ.
Từ
thời điểm đó, tất cả trường học từ tiểu học đến trung học của Hoa kiều đều có
chương trình dạy bằng tiếng Việt, y chang với chương trình dạy tiếng Việt của các
trường học Việt Nam. Vì vậy, ở Sài Gòn - Chợ Lớn, ba "bang" lớn của
giới Hoa kiều: Phước Kiến có trường trung tiểu học Phước Kiến (sau đổi thành
Phước Đức - nay là trường Trần Bội Cơ) - Quảng Đông có trường Tuệ Thành - Triều
Châu có trường Nghĩa An (cả ba trường lớn này như là trường công của giới người
Hoa). Ngoài ra còn có nhiều trường học khác không nằm trong sự điều hành, yễm
trợ, chăm lo của các bang (như là trường tư) cũng đồng loạt có kèm dạy thêm chương
trình Việt ngữ (thường che mắt giới giáo dục đi thanh tra). Còn các trường học
do mỗi bang tài trợ phải tuân hành đúng luật pháp. Giới Hoa kiều ba bang lớn;
Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, ngoài xây dựng trường học họ còn có bịnh viện
lớn của mỗi bang, có "chùa Tàu còn gọi là chùa Ông hoặc chùa Bà) và các câu
lạc bộ thể thao, nhất là môn bóng rổ.
Tôi
được một ông trong Hội Đồng Quản Trị Bang Phước Kiến có một đứa cháu học chữ Việt
với tôi, nói với ông giới thiệu tôi vào dạy trung học Phước Kiến. Không những tôi
được ông Hiệu Trưởng An Cư nhận ngay mà còn cử tôi làm chủ nhiệm lớp đệ tứ vừa
mới thành lập. Về tổ chức tại học đường, người Hoa đi trước Việt Nam vì chúng
ta bị Tây đô hộ cả trăm năm, học theo chương trình Pháp, sau này, chủ nhiệm lớp
cũng không có tiền trợ cấp hàng tháng. Trường Tàu, tùy theo lớp, giáo viên chủ
nhiệm đều có phụ cấp hàng tháng, ngoài tiền lương, mỗi tháng gần 5 ngàn, cộng với
trợ cấp chủ nhiệm lớp đệ tứ bảy trăm. Mỗi lục cá nguyệt dạy chừng bốn tháng rưởi
mà lãnh lương luôn cả năm 12 tháng và đến Tết Nguyên Đán lãnh thêm lương tháng
13. Khi tôi được bổ nhiệm thêm chức Giám học các môn dạy Việt ngữ, chỉ riêng tiền
trợ cấp chủ nhiệm lớp gần bằng lương lính (9 trăm/tháng) cộng với tiền trợ cấp
Giám học khoảng một ngàn. Nếu so sánh với bạn tôi, tốt nghiệp Phó Đốc Sự - Quốc
Gia Hành Chánh chưa tới 4 ngàn/tháng. Chúng ta thấy rằng, người Hoa họ đặt nặng
vấn đề giáo dục mà còn "tôn sư trọng đạo" đúng nghĩa "quân sư phụ"
của cửa Khổng sân Trình.
Phần
đầu bài này bằng cách "lung khởi" dài dòng nhằm giải thích những gì tôi
biết về văn hóa giáo dục của giới Hoa kiều ở Việt Nam mà tôi xuất thân là nhà
giáo dạy nhiều trường Việt từ tiểu học đến trung học nên tổng hợp sự hiểu biết
của mình về nền giáo dục của hai thể chế giáo dục khác nhau cùng với nhiều sự tương
đồng, khác biệt cần bổ sung cho nhau.
Tôi
cũng thường đại diện cho trường trình bày, giải thích với các đoàn thanh tra giáo
dục đến trường Phước Kiến kiểm soát. Các đoàn thanh tra rất ngạc nhiên vì lớp đệ
tứ, mà trường còn dạy học sinh một hai tháng đầu tập đọc, tập viết chữ Việt vì
các môn học toán lý hóa, anh văn học sinh đã học qua hết rồi chỉ chuyển đổi từ
chữ Tàu sang Việt ngữ, không cần học thêm. Có nhiều học sinh không nói được tiếng
Việt hay nói không rành hay phát âm sai, ngọng nghịu rất đáng quan tâm nâng đở.
Tôi còn gợi ý em trưởng lớp, bắt buộc các em học với tôi, chương trình văn thơ
Việt Nam, phải nói tiếng Việt dù có khó khăn, nghĩa là giờ tôi dạy, em nào nói
tiếng Hoa bị phạt đóng tiền cho quỹ của lớp do học sinh trưởng lớp giữ. Bên ban
Hoa văn dạy văn học cũng bắt chước làm y chang, nghĩa là học sinh nói chuyện với nhau trong lớp phải dùng tiếng
Quan Thọai (tiếng Bắc Kinh) mà người ở Hoa lục và Đài Loan đều nói và dạy học thứ
tiếng này. Còn người Hoa, di dân khắp thế giới họ quen nói theo tiếng điạ phương
của họ - người Quảng Đông chỉ biết nói tiếng Quảng Đông - Phước Kiến chỉ nói được
tiếng Phước Kiến , Triều Châu là một huyện của tỉnh Quảng Đông mà cũng có tiếng
nói riêng, họ cũng không chịu học nói tiếng Quảng Đông hay quan thoại. Người
Hoa có óc kỳ thị, địa phương quá nặng, nói khác tiếng là "không chơi".
May mắn của người Hoa, dù các tỉnh có tiếng nói khác nhau mà chữ viết lại hoàn
toàn giống nhau, dù hai người Hoa của hai tỉnh không thể nói chuyện hiểu nhau được
thì họ còn có bút đàm. Sau cuộc "làm loạn" nổi dậy của cộng sản Tàu, năm
1949 chiếm được toàn Hoa lục, nhà cầm quyền cộng sản cưỡng bách người dân phải
nói tiếng phổ thông (còn gọi là tiếng quan thoại, Bắc Kinh) là tiếng nói chung
của người Hoa. Còn sót lại Hồng Kông vẫn còn nói tiếng Quảng Đông trong học đường
mà nay nhà cầm quyền Bắc Kinh bắt buộc các trường học ở Hồng Kông phải dùng tiếng
phổ thông giảng dạy, còn tiếng Quảng Đông chi dùng giao tiếp trên thương trường
hay ngoài xã hội là một ngôn ngữ phụ như tiếng Anh.
Vì,
tôi dạy trường Tàu mà còn làm chức sắc nữa
nên cần phải biết chữ Tàu tiếng Tàu (tiếng phổ thông) mới dễ sinh hoạt tiếp xúc
với nhà trường và giáo giới, học sinh... Tôi ghi danh theo học chữ Hoa tiếng Tàu
- chương trình bốn năm - tại Trung Tâm Ngoại Ngữ, trong khuôn viên Đại học Sư
Phạm Sài Gòn vào các buổi tối. Học được hai năm, đọc được báo Tàu (lỏm bỏm) và
nói tiếng phổ thông đủ từ "tán tỉnh các a muối"... được lệnh gọi nhập
ngũ nên chuyện học chữ Hoa dang dở và dự định cưới vợ Tàu kể như trớt quớt.
Tôi nhận được lệnh gọi nhập ngũ Khóa 13 Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức vào đúng ngày 15 tháng 3 năm 1962 mà chiều hôm đó, tôi đọc báo, có tin Khóa 13 Thủ Đức đã làm lễ khai giảng buổi sáng. Nhiều bạn bè tôi cũng sanh năm 1935, sau tôi nhiều tháng, mà đã nhận được giấy gọi nhập ngũ khóa 13 từ tháng 2.1962, tôi tưởng thoát khóa này và sẽ nhập ngũ khóa 14, sau ba bốn tháng nữa.
(H: Phù hiệu Liên Trường Võ
Khoa Thủ Đức)
Ngày
16.3 tôi trình giấy gọi nhập ngũ, trường Phước Kiến cho tôi lãnh lương nguyên một
tháng, hình như có tặng cho tôi thêm mấy ngàn nữa và cuối tuần đó, ông Hiệu trưởng
Tăng Kim Đông có mời tôi dự tiệc tiển đưa của trường Phước Kiến khoản đải tại
nhà hàng sang trọng Ngọc Lan Đình, có trên dưới 200 giáo chức trung tiểu học và
nhân viên của trường tham dự.
Một
dung rủi, tình cờ ngẫu nhiên ngồ ngộ, từ nhà giáo đến nhà binh và đến nhà tù cộng
sản cũng đều có tiệc thết đải tôi do một nhà hàng mà tôi thường đến ăn trong hàng
chục nhà Tàu nổi tiếng khác của giới người Hoa. Đó là nhà hàng Ngọc Lan Đình, cả
hai lần tiển đưa tôi vào đời lính và vào đời tù, tôi đều được nhà hàng này khỏan
đải.
Tôi
nhớ rõ, trong tiệc tiển đưa tôi lên đường tòng quân "cổ lai chinh chiến kỷ
nhơn hồi", tôi có phát biểu, đọc bài thơ tứ tuyệt chữ Hán:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã
thượng thôi.
Túy ngọa sa trường,
quân mạc vấn (tiếu)
Cổ lai chinh chiến
kỷ nhơn hồi.
Có
một người bạn dạy tiếng Hoa lên dịch liền bằng tiếng quan thoại, cả phòng tiệc
như lắng đọng trong vài phút, chia xẻ, thông cảm với tôi vì cuộc đời là vô thường
và đời lính lại càng khó lường. Tôi rất cảm động nghẹn ngào khi phát biểu lời
chia tay cám ơn các đồng nghiệp và nhà trường Phước Kiến đối xử đẹp với tôi, vì
tôi có suy nghĩ người lính ra trận chiến đấu ít có ai trở về còn lành lặn nguyên
vẹn. Trường hợp tôi sống đến ngày hôm nay sau gần 60 năm từ ngày tôi vào Quân Đội
1962, trải qua mười năm ở nhà tù nhỏ và tám năm nhà tù lớn của cộng sản mà vẫn
còn nguyên vẹn, đó là ân đức của tổ tiên ở ấp Bà Bài và cha mẹ tôi để lại.
Trong
mười ba năm trong quân ngũ, tôi trình diện nhập ngũ trể, khóa 13 đã khai giảng
trước một tuần, chúng tôi từ Trung Tâm Nhập Ngũ số 3 ở Quán Tre (Hốc Môn) chuyển
về Liên trường Võ Khoa Thủ Đức được bổ sung vào đại đội 8 do Trung úy Long làm Đại
Đội Trưởng. Tôi vừa gia nhập đại đội 8 có bạn cũ giới thiệu, đại đội mình có tiến
sĩ Trần Quang Thuận (một nhân vật lịch sử của Phật Giáo - từng tham chánh thời
Nội Các Chiến Tranh với chức Bộ Trưởng Bộ Xã Hội), một tu sĩ Phật Giáo vừa hoàn
tục, tốt nghiệp đại học Mỹ, về nước gặp lệnh nhập ngũ khóa 13 Thủ Đức.
Chúng
tôi, Khóa 13 Thủ Đức, thi hành lệnh Tổng Động Viên đầu tiên thời Đệ Nhất Việt Nam
Cộng Hòa, dù luật động viên bắt đầu áp dụng trước đó mấy tháng với Khóa 12, nhưng
không trọn vẹn cả khóa. Khóa 12 Thủ Đức có đến ba thành phần nhập ngũ, những
người tình nguyện dự thi tuyển, những thanh niên tình nguyện có bằng văn hóa đủ
điều kiện theo học và những người ở lớp tuổi cao có bằng cấp văn hóa đúng tiêu
chuẩn động viên được gọi vào Khóa 12 từ cuối năm 1961. Vì vậy, khóa 12 Thủ Đức
có nhiều sĩ quan tốt nghiệp rất trẻ và nhiều sĩ quan cao tuổi như giáo sư Nguyện
Ngọc Linh (sanh 1930), Thủ Khoa khóa 12.
hiện
gia đình anh Thuân ở Pháp. Anh Nguyễn Văn Thùy, lúc nhập ngũ có bằng cử nhân
Sinh vật học, sau có bằng tiến sĩ ở Mỹ, từng làm Tổng Thư Ký Viện Đại Học Cần
Thơ mới thành lập thời Giáo sư Phạm Hoàng Hộ làm Viện Trưởng (định cư ở Long
Beach - CA) và anh Nguyễn Văn Thạnh, giáo sư, hiện ở Atlanta, Georgia. Riêng điêu
khắc gia Nguyễn Thanh Thu vượt biên (hay diện HO?) sang Mỹ ở miền Nam, nhập được
quốc Mỹ, anh lại về nước ở luôn bên đó. Khi tôi về Việt Nam có ghé thăm và tiếp
tế cho bạn đồng môn, anh bị điếc nặng vì cai tù cộng sản đánh tàn bạo bằng cách
dùng hai tay đập mạnh vào hai lỗ tai anh cùng một lúc nhiều lần, tai bị thủng màn
nhĩ và điếc từ trại tù cộng sản đầu tiên. Từ Bắc chuyển về trại tù B (K2) của
trại tù Hàm Tân Z30 D, tôi gặp lại bạn ta Nguyễn Thanh Thu ở trong một đội rau
xanh mà tôi cũng ở đội rau xanh khác, cùng ở chung một lán nên chúng tôi có dịp
trò chuyện hỏi thăm nhau. Tôi biết anh Nguyễn Thanh Thu bị Việt cộng hành hạ,
thường bị nhốt conex vì cái tội là tác giả tượng Thương Tiếc "linh thiêng"
tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, cũng như trại tù ra lệnh anh nắn tượng
"bác". Ngoài cái mặt, các phần khác đều giống trong các mẫu hình trại
tù đưa cho anh. Tôi chưa có dịp hỏi anh chuyện đó có không, nghĩa là cái mặt của
"già hồ", anh Thu lại nhớ gương mặt Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nên
anh nắn y chang chỉ khác là có thêm râu. Có ăng ten báo cáo hay cán bộ trại phát
hiện điều này hay chụp mũ thêm tội cho anh Thu nên chúng có cớ hành hạ bỏ đói, đánh
đập dã man anh thành người điếc nặng, anh không chết trong nhà tù cộng sản là
chuyện may mắn hiếm có.
Trong 13 năm quân
ngũ, những cấp chỉ huy, những bạn bè cùng khóa hay cùng đơn vị với tôi, đa số
trên 80 tuổi nếu còn sống. Một số lớn đã ra
đi
vì tuổi già, bịnh tật hay chết trong các nhà tù cộng sản nghiệt ngã.
Nhân
Lễ Tạ Ơn năm nay - 2020, tôi soát lại trí nhớ coi xem ai còn ai mất theo thời
gian và đơn vị từ ngày đầu đến ngày cuối đời quân ngũ.
Đầu năm 1963, từ Bộ
Tư Lệnh Sư Đòan 21 ở Bạc Liêu, tôi được bổ nhiệm và cùng với 12 sĩ quan mới ra
trường Đà Lạt - Thủ Đức - Nha Trang về Trung Đoàn 33 Bộ Binh đang trú đóng tại Thị
xã Long Xuyên. Ở Long Xuyên vài ngày, cả Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 33 được lệnh về
trú đóng tại Thị xã Châu Đốc và tôi được ăn cái Tết Nguyên Đán đầu tiên ở đơn vị
tác chiến tại quê nhà Châu Đốc năm 1963. Đúng với câu người xưa thường nói:
"Tái ông mất ngựa", không ai biết trước họa hay phúc, tôi bị bong gân
vì đánh vũ cầu với học trò trường Phước Kiến về quê Bạc Liêu ăn Tết. Cả bàn chân
sưng phù, đi phải chống gậy, không mang giày được, Thiếu tá Trung đoàn trưởng
cho 13 sĩ quan biết, mỗi tiểu đoàn có bốn sĩ quan, riêng Chuẩn úy bị sưng chân ở
lại Bộ Chỉ Huy Trung đoàn sẽ có lệnh bổ nhiệm sau. (H:Phù hiệu Sư Đoàn 21 BB)
Thế
là tôi được ăn Tết tiếp tại nhà với gia đình sau giờ làm việc, dù tôi chưa có
chức, việc gì để làm.
Tôi
thử kiểm điểm lại ai còn ai mất từ sau ngày Quốc Hận 30.4.1975 đến nay, hai vị
Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB, Trung Tướng Cao Hảo Hớn - Trung Tướng Đặng Văn Quang cũng
như hai Trung đoàn trưởng 33 là Đại tá Nguyễn Ngọc Điệp và Trung Tá Nguyễn Văn Thanh
đều đã qua đời. Riêng Trung tá Nguyễn Văn Thanh với cấp bậc trung tá từ 1963 đến
1975, 12 năm và từ trần ở Cần Thơ cách nay vài năm ở tuổi thọ 97. (H:
Phù hiệu Quân Đoàn IV)
Về
Cần Thơ, Phòng V (Chiến Tranh Tâm Lý - CTCT) của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV &
Vùng IV Chiến Thuật, chỉ định tôi giữ chức vụ Trưởng Ban Phát Thanh Tiếng Nói Vùng
IV Chiến Thuật của đài phát thanh Ba Xuyên, sau đài này di dời về Cần Thơ. Tôi
còn kiêm thêm chức vụ Trưởng Ban Thông Tin Báo Chí thuộc Khối Chiến Tranh Chánh
Trị Quân Đoàn IV (có trong bảng cấp số), kiêm chức tổng thư ký tòa soạn bán
nguyệt san Chiến Sĩ Miền Tây do Khối CTCT biên soạn. May mắn, tôi thường làm việc
nhận chỉ thị trực tiếp với các vị Tư Lệnh Quân Đoàn và tháp tùng vị Tư Lệnh thị
sát các mặt trận hay dự lễ khao quân... Trải qua bảy vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV
& Vùng IV Chiến Thuật kiêm Đại Biểu Chánh Phủ Miền Tây: Trung Tướng Nguyễn
Hữu Có - Trung Tướng Dương Văn Đức - Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu - Trung Tướng
Đặng Văn Quang - Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh - Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng và
Thiếu
Tướng Nguyễn Viết Thanh. Tôi được thuyên chuyển về trung ương - Tổng Cục Chiến
Tranh Chánh Trị năm 1970 lúc Thiếu Tướng Thanh chưa bị ngộ nạn trực thăng trên
chiến trường Kampuchia.
(H: Phù hiệu Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị)
Danh
sách cấp chỉ huy và chiến hữu cùng thời cùng đơn vị với tôi cũng khá dài, đã ra
đi về bên kia thế giới, còn lại đa số thuộc "binh chủng U90" cũng ngáp
ngáp rồi chờ ngày thuyên chuyển về Vùng V Chiến Thuật. Nhân dịp mùa Lễ Tạ Ơn của
xứ Huê Kỳ 2020, tôi kính mời qúy vị hãy cùng về dương thế dự tiệc Tạ Ơn cùng với
anh em chiến hữu còn nặng nợ trần gian chưa trả xong. (H: Phù hiệu Biệt Khu Thủ Đô)
Từ
nơi trình diện vào "tù cải tạo" - trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh
Ký (VC đổi lại tên Lê Hồng Phong), sau Tết Đoan Ngọ Mồng 5 tháng 5 một ngày -
khoảng 15.6.1975 chuyển đến nhà tù "Thành ông Năm" Hốc Môn (doanh trại
của Liên Đoàn V Công Binh Kiến Tạo). Năm 1976, tôi bị chuyển đến trại tù Suối Máu
Biên Hòa, tưởng đâu tôi đã bỏ xác tại đây vì bịnh kiết lỵ, đi không nổi phải bò
trong lán nhà giam, trước khi tôi được chuyển trại ra Bắc ở vùng Sơn La thâm sơn
cùng khổ. Từ trại tù này chuyển sang trại tù khác là một cực hình bị kiểm soát
gắt gao từ thuốc uống đến các thứ cần thiết cuộc sống cũng bị moi móc, hạch xách.
Chưa hết, đến trại tù mới cũng bị kiểm soát thêm một lần nữa cũng y chang như lần
từ trại cũ sang trại tù mới. Ở trại tù Sơn La do Bộ Đội quản lý, chúng tôi được
xếp là loại tù hàng binh trong chiến tranh có quy chế đối xử như quy chế tù
binh, nghĩa là người lính bên thắng cuộc quản lý người lính thua cuộc, còn có
chút tình cảm đối xử với nhau bằng tình lính.
Đến
đầu năm 1978, sau Tết Nguyên Đán ở trại tù binh Sơn La - trại 6, chúng tôi được
chuyển qua trại giam tù hình sự do công an quản nhiệm, với tất cả sự kềm kẹp khó
khăn, hành hạ, đày đọa cùng cực như tù nhân hình sự có bản án, mà chúng tôi lại
là thành phần tù không có bản án. Công an còn xếp loại chúng tôi vào loại tù ác
ôn có nhiều nợ máu với nhân dân, chúng giam cầm đày đọa cùng cá mè một lứa với
tù hình sự mà công an đang giam giữ. Đầu tiên, chúng tôi được chuyển từ trại tù
bộ đội ở Sơn La đến trại trung chuyển công an Hồng Ca thuộc tỉnh Yên Bái. Ở đây,
chừng trên dưới bốn tháng, chúng tôi được chuyển đến Liên trại Tân Lập thuộc tỉnh
Vĩnh Phú, được xếp là cái nôi trồng sắn của tù ở vùng bình nguyên này. Các trại
tù phải có "nghĩa vụ" lao động tạo ra vật chất của cải tự nuôi sống mình
và còn đóng góp cho nhà nước... cho nên chúng tôi về liên trại Tân Lập phải học
nằm lòng khẩu hiệu : "làm ngày không đủ - tranh thủ làm đêm và làm thêm ngày nghỉ".
Liên trại Tân Lập, lúc cao điểm có đến 5 ngàn tù nhân nhốt toàn phe thua cuộc từ
lính đến cấp chức hành chánh, tôn giáo, đảng phái của miền Nam. Ban đầu mới về
trại này năm 1978, còn có tù hình sự giam chung, sau tù hình sự chuyển đi trại
khác, liên trại này dành cho "chúng ông" ngã ngựa.
Trải
qua nhiều trại tù, chưa có trại tù nào hắc ám đối xử nghiệt ngã với tù nhân
thua cuộc như liên trại Tân Lập Vĩnh Phú, đặc biệt là K1. Ban ngày lao động 8
tiếng trồng sắn là chánh, ban đêm bị ngồi đồng thêm 2 tiếng gọi là học tập,
"tẩy não" thì đúng hơn, hết giờ nín thở qua sông, chúng tôi lăn đùng
ra ngủ như chết, sáng lại tiếp tục khổ nhục như những ngày trước. Về đây gần 3
năm, tôi cân sụt mất 23 ký lô, từ 65 ký trước khi đi tù, nay còn 42 ký, đi phải
chống gậy, tưởng đâu, đầu tôi quay về núi tại trại K1. Liên trại Tân Lập, khi tôi
mới về có 7 trại - 7 K, nay còn 5 K mà K nào tôi cũng cũng có dừng chân tạm trú
nhìn trời hiu quạnh, xuống xề ca 6 câu vọng cổ, bắt chước "Vua Vọng Cổ"
Út Trà Ôn xuống xề ngọt xớt: nhìn trời hiu quanh, rừng đêm sương giá lạnh,
chốn quê nhà chạnh nỗi niềm thương... ơ ơ ơ! - Chờ chết.
Ngày
16.6.1976, tôi bị lưu đày đến Sơn La, sau về Hồng Ca Yên Bái, cộng chung trên
dưới hai năm. Về liên trại Tân Lập, đầu tiên ở trại K2 rồi sang K1 ở lâu nhứt, sau
bị chuyển qua trại K4 qua K3 và sau cùng về K5, tập trung tù để chuyển về trại
tù vùng Hàm Tân Rừng Lá Z 30D, năm 1982.
Về
đến trại Z30D, kể như chúng tôi đang đi cuối đường hầm, thấy có ánh sáng le lói
cho ngày ra khỏi trại tù. Ở trại này, cai tù biết chúng tôi sắp được thả hết nên
chúng đối xử còn có lòng nhân, không phải như trên đất Bắc chúng xem tù như là
con thú dữ chúng đày đọa cho chết mà lại không chết, đó là phép mầu của Thượng
Đế xót thương cho những người yêu nước bị ngã ngựa.
Đầu
năm 1985, được thả khỏi trại tù Z30D về nhà tù lớn ở Sài Gòn, bị quản chế thêm
5 năm nữa, gia đình tôi sinh sống bằng cách bán quần áo ở chợ trời gần chợ An Đông
và sau đó được bán chánh thức trong chợ An Đông mới xây dựng khang trang to rộng
có thang cuốn, tân tiến nhứt Việt Nam thời bấy giờ.
Sau
tám năm sống ở Sài Gòn lần thứ ba, chúng tôi gồm bốn người, hai vợ chồng cùng
hai con còn độc thân được sang Mỹ diện HO. Đây là cuộc đổi đời lớn nhứt của tôi,
sống vui khỏe cho đến hiện nay, 86 tuổi, trải qua biết bao cực nhọc trong 5 năm
đầu mới tới Mỹ với nhiều công việc lao động chân tay thức khuya dậy sớm. Sau đó,
tôi trụ lại với công việc xưa trước khi bị đi tù cộng sản năm 1975, nghề làm báo
và viết báo cho tới bây giờ. Ở Mỹ được gần 10 năm, chúng tôi bảo lãnh hai con lớn
và cháu nội ngoại cộng chung 8 đứa đã sum họp trùng phùng với gia đình chúng tôi,
tất cả đều ở quanh quẩn tại thung lũng tình thương Sacramento - California. Các
con cháu đang và sẽ có tương lai sáng lạn hơn cha mẹ ông bà chúng là di dân tỵ
nạn tiên phong làm gạch nối cho thế hệ hậu duệ tiến lên.
Trong
13 năm quân ngũ, tôi đã phục vụ tại bốn đơn vị: Sư Đoàn 21 BB - Quân Đoàn IV -
Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị và Biệt Khu Thủ Đô.
Sau
ngày mất nước 30.4.1975, tôi đã trải qua hơn mười trại tù cộng sản từ Nam ra Bắc
rồi chuyển về Nam được thả ra đầu năm 1985 và ở thêm trong nhà tù lớn tại Sài Gòn
thêm tám năm nữa. Các trại tù: Thành Ông Năm - Suối Máu Biên Hòa - Mường Cơi
Son La - Hồng Ca Yên Bái - Năm K Liên trại Tân Lập Vĩnh Phú - Z30D, Rừng Lá Hàm
Tân.
Đến
ngày 7.4.1993, chúng tôi gồm có bốn người: hai vợ chồng và con dưới 21 tuổi còn
độc thân được sang Mỹ diện H.O. 16.
Hai
ông bà già giết giặc, thuộc binh chủng U90 từ hai người nay thành một gia đình
19 người. Chúng tôi đã dọn sẵn sân chơi trên vùng đồi thoai thoải của thung lũng
tình thương Sacramento làm nơi hò hẹn
cho tương lai về "Bến Mơ" - Bến Giác của MỘT THOÁNG CUỘC ĐỜI trần thế.
Amen - A Di Đà Phật!!!
Tạp ghi
Anh
Phương Trần Văn Ngà
(Sacramento, mùa Lễ Tạ Ơn 2020)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét