
PART 4
Chương 17: Trẻ Em
Dương Quang Sơn
“Nước Mắt Trước Cơn Mưa”
Đêm nào tôi cũng khóc cho Việt Nam. Tôi nhớ và tôi khóc. Trong bóng đêm đen, trí nhớ biến thành nước mắt. Những giọt nước mắt cho bố, cho mẹ, cho các anh chị em tôi, cho tất cả những người đã bỏ đất nước ra đi, cho cả những người không ra đi được. Tôi không muốn ký ức của tôi mất đi như nước mắt trong mưa. Nên tôi xin kể cho ông nghe câu chuyện của tôi để ông kể lại cho những người khác, nhờ thế có thể có nhiều người sẽ biết đến những gì xảy ra ở Việt Nam. Nhờ thế ký ức của tôi không uổng phí. Nhờ thế ký ức của tôi sẽ là những giọt nước mắt trước cơn mưa. Vậy xin lắng nghe. Những gì tôi kể rất quan trọng. Những gì tôi nhớ. Những gì xảy ra cho tôi. Những gì tôi nói đây chính là những giọt nước mắt trước cơn mưa lũ.
<!>
Bố tôi tên Trần Phong. Ông theo Phật giáo, sinh trưởng ở Hải Phòng, Bắc Việt. Ông đã đi kháng chiến chống Pháp, nhưng khi Cộng sản chiếm miền Bắc năm 1954, ông di cư vào Nam, định cư ở Sài Gòn. Bố tôi ghét Cộng sản. Bố tôi yêu Tự Do. Chỉ vì muốn một đời sống Tự Do mà năm 1954 ông đã phải trở thành người di cư.
Ông rất buồn vì đất nước chia đôi, nhưng ông lại muốn tránh xa Cộng sản. Mẹ tôi cũng sinh trưởng ở miền Bắc. Cũng di cư vào Nam với bố tôi năm 1954. Bà ngoại tôi, các anh chị em của mẹ tôi đều ở lại ngoài Bắc cả.
Cuộc sống chúng tôi tại Sài Gòn rất tốt đẹp. Bố tôi kiếm được khá tiền nhờ nghề sửa tàu biển. Trong gia đình, tôi là đứa con bé nhất, nên bố tôi gọi là thằng “Út”, tiếng Việt nghiã là “đứa con nhỏ nhất”. Tôi có một người anh, hai người chị. Cô tôi cũng ở chung với gia đình tôi trong một căn nhà rộng rãi tại Quận Nhứt, Sài Gòn. Tôi học Trung học Công lập, anh tôi đã học Đại học. Mùa xuân năm 1975, tôi vừa được mười sáu tuổi. Lúc này bọn học trò đều chộn rộn về chuyện Cộng sản xâm chiếm. Có đứa bàn tán cả chuyện bỏ nước ra đi. Nhiều hôm trên đường tan trường về, tôi thấy người ta đứng xếp hàng dài để xin giấy tờ hoặc đổi tiền ra khỏi nước.
Có một buổi anh tôi ở Đại học về, bố tôi bảo hai anh em tôi rằng bố tôi muốn đưa hai đứa ra khỏi nước một thời gian. “Chúng mày hãy còn bé”. Bố tôi nói “Chúng mày còn có tương lai. Khi nào yên ổn, các con lại về”. Bố tôi nghĩ chúng tôi nên sang Mỹ học, khi trở về, tương laì chúng tôi sẽ khá hơn. Nhưng bấy giờ ra khỏi Việt Nam là việc thực khó, nên suốt một thời gian, hai anh em tôi chẳng ai tin là sẽ đi được.
Tôi có một thằng bạn thân tên là Quang. Chị nó tên Hương làm thư ký Tòa Đại sứ Mỹ. Thằng Quang bảo tôi là chị nó có thể đưa chúng tôi đi được. Người Mỹ đã hứa cho chị nó cùng thân nhân ra khỏi Việt Nam. Nếu chúng tôi muốn đi, chị nó chỉ cần thêm tên vào danh sách là xong.
Chúng tôi nói thế thì tốt quá. Chị ấy bèn đến nói với thượng cấp cũng là người Việt – rằng chị có hai chú nhỏ muốn rời Việt Nam nhưng không có họ hàng gì. Chị muốn đánh thêm hai tên này lên danh sách, chẳng biết có được hay không? Cấp trên của chị bảo rằng được.
Thế là sau khi đã cho tên chúng tôi vào đanh sách, chị ấy bảo chúng tôi phải sẵn sàng, đêm ngày gì cũng vậy, có thể đi bất cứ lúc nào. Chị cũng bảo chị sẽ cho biết địa điểm và lịch trình chuyến đi.
Thế là mười giờ sáng ngày 28 tháng Tư, chị Hương đến nhà nói với tôi: “Sơn ạ, em sửa soạn ngay. Một tiếng đồng hồ nữa phải đi.” Chị cho chúng tôi biết phải đến chỗ nào. Xe buýt sẽ đưa chúng tôi ra phi trường. Chúng tôi chỉ được phép mang theo mỗi người một túi áo quần. Chúng tôi chẳng có thời giờ từ biệt ai cả. Tôi chỉ còn kịp bảo: “Bố ạ, con thương bố lắm. Con phải đi ngay bây giờ”. Sáng hôm ấy bố mẹ tôi đều khóc. Bố mẹ tôi căn dặn anh tôi: “Con phải săn sóc thằng ‘Út’ cho cẩn thận”.
Bố tôi lái xe chở chúng tôi đến địa điểm đón xe buýt. Chúng tôi chẳng có giấy tờ gì đặc biệt, cũng không rõ họ sẽ hỏi han gì. Đến một cao ốc lớn, chung quanh có hàng rào, gõ cửa, một người đàn ông mở cho chúng tôi vào. Ông này có một danh sách. Tên chúng tôi có trong danh sách rồi. Khi qua khỏi bờ rào, chúng tôi ngạc nhiên, bên trong là một cái sân rất rộng đã đầy người đợi. Những người ấy từ khắp nơi, nhiều người rải rác tận các tỉnh ngoài Trung, khoảng ngàn người có mặt. Tôi hỏi thăm vài người xem họ ở đâu đến. Người thì bảo Đà Nẵng. Người thì bảo Nha Trang. Chúng tôi không gặp người quen nào cả, hình như chẳng ai ở Sài Gòn ngoại trừ hai anh em chúng tôi.
Lúc ấy lòng tôi sướng vui rộn rã. Tôi hãy còn nhỏ, tôi không phải sống dưới chế độ Cộng sản, tôi sẽ được đi học ở Mỹ, khi nào hết Cộng sản thì tôi trở về Sài gòn.
Chúng tôi đợi trong sân không lâu thì họ gọi tên. Hai anh em tôi đi ra cổng. Ngoài ấy có tài xế xe buýt đang đứng kiểm người trong danh sách. Lên xe buýt, chúng tôi không tin nổi. Chúng tôi là những người đầu tiên ở trong sân được gọi đi. Hai anh em mỗi người một cái túi, chẳng tiền bạc gì. Bố tôi đã dặn khi đến thì gọi điện thoại, bố tôi sẽ gửi tiền sang vì chúng tôi dự định sẽ đến California ở với một người quen.
Người ta chở chúng tôi ra phi trường. Phi trường đông nghịt người, mặt trời nóng hừng hực. Chúng tôi ra khỏi xe, đứng một bên chờ trong khung cảnh ồn ào ấy: Máy phóng thanh oang oang gọi tên người, hàng quà, hàng nước, người bán hàng rong rao inh ỏi. Bọn đổi tiền lăng xăng gạ gẫm. Nhiều người đứng khóc. Người ta choáng váng chẳng rõ mọi việc ra sao, rồi đây sẽ đến nơi nào.
Chúng tôi cũng chẳng rõ mọi việc ra sao, nhưng đột nhiên máy phóng thanh kêu tên. Ngạc nhiên, tôi hỏi vài người ở đấy xem họ đã đợi bao lâu. Có người bảo: “Cả tuần lễ rồi”. Có người thì hai, ba ngày. Tôi đang nghĩ có lẽ chẳng bao giờ tới lượt anh em chúng tôi, thì chợt họ gọi tên, đưa chúng tôi ra Trạm khởi hành.
Họ khám người, khám hành lỷ. Họ bảo anh em chúng tôi đứng sắp hàng. Một lúc sau, họ dẫn chúng tôi ra máy bay. Bên ngoài máy bay có hai quân cảnh Việt Nam đứng gác để ngăn ngừa những người đào ngũ chạy ra khỏi nước. Họ nhìn mọi người một cách cẩn mật, nhưng không hỏi gì chúng tôi. Anh em chúng tôi bước vào máy bay.
Tôi tưởng là một cái máy bay đàng hoàng, nào ngờ chỉ là một chiếc C-130. Chúng tôi vào theo lối đàng đuôi, bên trong không có ghế. Chúng tôi phải ngồi chen chúc trên sàn như cá hộp. Lúc ấy cửa sổ còn mở, chợt bên ngoài vang lên một tiếng nổ lớn, tôi hoảng hốt nghĩ: “Trời ơi, cái gì thế”. Một tiếng nổ thật lớn ngay đằng sau máy bay.
Chiếc máy bay chuyển dịch. Chạy, trong lúc cửa còn mở. Tôi nhìn qua cửa thấy người ta chạy khắp bốn phía, nã đạn lên trời. Họ đều có vẻ hoảng hốt. Những người bên cạnh tôi trong máy bay rú lên kêu khóc. Vài người bắt đầu cầu nguyện lớn tiếng. Tôi nắm lấy anh tôi mà bảo: “Cầu cho máy bay này đừng rớt”.
Người ta vẫn không có thì giờ đóng cửa. Chiếc máy bay chạy trên phi đạo nhưng cửa vẫn còn mở. Khi máy bay cất cánh, chúng tôi có thể nhìn rõ qua phiá sau, dưới đất người ta chạy toán loạn với hàng trăm tiếng nổ. Trong lửa đạn, cả phi trường đắm trong cơn điên loạn.
Theo sau chúng tôi một chiếc C-130 nữa tiến tới. Chỉ vài giây sau khi chúng tôi cất cánh, nó bốc lên theo. Tôi nghĩ đây là hai chiếc máy bay cuối cùng cất cánh từ Tân Sơn Nhất. Chúng tôi may mắn quá.
Lúc chúng tôi rời Sài Gòn, một người lính Mỹ đứng trấn ở cửa sau máy bay ôm súng bắn xuống đất. Máy bay cất lên rồi, anh ta vẫn cứ bắn. Bên trong máy bay, nhiều người khóc om sòm. Lúc nhìn người lính Mỹ đang bắn, tôi tự hỏi chẳng biết anh ta bắn gì. Tôi nghĩ anh ta đang cố chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ một lần cuối cùng. Tôi nghĩ anh ta muốn bảo mọi người, với khẩu súng, là: “Đừng bắn vào phi cơ chúng tôi! Đừng lộn xộn với cái phi cơ này! Bọn này là Mỹ đây. Trên phi cơ có súng – tránh ra. Để chúng tôi yên!” Nhưng tôi chỉ đoán thế. Tôi không nghĩ anh ta biết được chuyện gì đang xảy ra. Tất cả chúng tôi lúc ấy đều thực rối ren.
Dẫu sao, đó là hình ảnh cuối cùng tôi thấy ở quê nhà. Trong lúc máy bay cất cánh tôi đã thấy hình ảnh Việt Nam với một người lính đang cầm súng bắn vào đất nước ấy. Chúng tôi hạ cánh ở Phi Luật Tân, tại Phi trường Clark. Người ta đưa chúng tôi đến một nhà kho rất lớn, người Mỹ đã sắp đặt mọi thứ chu đáo làm chúng tôi ngạc nhiên. Họ đưa chúng tôi vào một khu chuyển tiếp khá rộng rãi, có cả máy truyền hình, giường nệm đầy đủ. Ngày hôm sau, người ta bảo Cộng sản đã chiếm Sài Gòn. Chúng tôi đều bàng hoàng. Chúng tôi lo lắng chẳng rõ gia đình ra sao. Bố mẹ thế nào. Cuộc đời chúng tôi khi đến đất nước Hoa Kỳ đi đến đâu. Bao nhiêu câu hỏi nảy ra trong tâm trí anh em tôi.
Chúng tôi xem tin trên truyền hình, nhìn cảnh Bộ đội Cộng sản tiến vào Sài Gòn. Nhiều người khóc khi thấy cảnh đó. Anh em tôi cũng khóc. Gia đình chúng tôi vẫn còn ở Việt Nam. Anh em tôi nhìn nhau tự hỏi: “Rồi ngày mai, cuộc đời chúng tôi sẽ ra sao?”
NGUYỄN THỊ HOA
“Má ơi, con đi bây giờ đây. Con sẽ làm cho má hãnh diện vì con”
Tôi lớn lên ở Saigon. Ba má tôi mở một quán ăn nhẹ, một quán cafeteria bán cho Mỹ. Nhưng khi Mỹ rút vào năm 1973, ba tôi mất cái quán vì chẳng còn buôn bán gì được. Không đủ khách. Ba tôi cũng bảo nhiều người Mỹ đã quỵt tiền, họ ăn đến cuối tháng mới trả, nhưng lúc đi, họ không thanh toán nên ba tôi thua lỗ, mất luôn chỗ buôn bán. Từ đó ba tôi trở nên chua cay, không còn thích người Mỹ nữa. Ba má tôi phải tìm việc khác. Chúng tôi cũng không còn được sống đầy đủ như trước.
Vào khoảng mùa Xuân năm 1975, bạn tôi và tôi rất sợ chuyện Cộng sản chiếm Saigon. Người ta kể Cộng sản sẽ giết hết mọi người giống như chúng đã làm hồi năm 1968 ở Huế. Tết năm ấy chúng đã giết 3,000 người mà chẳng có lý do. Chúng trói giật cánh khuỷu, bắn vào đầu họ. Cho nên chúng tôi rất sợ hãi.
Ba tôi không sợ. Ông bảo toàn chuyện tầm phào. Ông nói Cộng sản có chiếm thì cũng chẳng có chi thay đổi. Tôi không tin, tôi muốn đi khỏi nước, em gái tôi cũng vậy. Nhưng ba tôi nói: ’’Không đứa nào đi đâu hết nghe. Chẳng chết chóc gì mà lo. Tụi bay không nghe người ta nói sao? Cộng sản không đụng chạm gì tới bay đâu!”
Tuy nhiên, tôi vẫn quyết ra đi. Trước, tôi trù tính đi với anh tôi, nhưng rồi ảnh đổi ý, ở lại. Tôi bèn quyết định đi với em gái tôi. Lúc ấy, tôi mới có mười sáu. Em tôi tên Nguyễn Thị Thiết, kém tôi hai tuổi.
Đầu tiên phải kiếm đường dây, tất nhiên tôi không có tiền bạc gì. Nhưng tôi kiếm được một người bạn tên là Nguyễn Thị Xuân. Cha mẹ bạn tôi là chủ tàu. Bạn tôi bảo nếu chị em chúng tôi muốn đi, nó cho đi, khỏi cần tiền nong. Tôi nói tôi muốn đi. Bạn tôi bảo vậy khi nào đi, nó sẽ kêu.
Sáng 29 tháng Tư, bạn tôi kêu tôi đi. Nó biểu tụi tôi ra một góc đường sẽ có xe tới chở xuống bờ sông Saigon. Tôi và em gái tôi mỗi đứa đem theo một túi quần áo, hai chị em phải lén ra khỏi nhà vì ba tôi đâu có muốn cho đi. Do đó chúng tôi không chào ba tôi. Nhưng chúng tôi đi tới tiệm ăn, nơi má tôi làm. Bả nào có biết hôm đó chúng tôi đi. Tôi nói với má tôi rằng: “Má ơi, con đi bây giờ đây. Con sẽ làm cho má hãnh diện vì con”. Má tôi ôm hôn tôi, ôm hôn em gái tôi, má tôi nói “Thôi được. Má cầu Trời khấn Phật cho các con được mọi điều tốt lành”. Lúc đó má tôi thiệt cứng cỏi, bả không khóc khi nói lời từ biệt. Nếu lúc đó má tôi khóc chị em chúng tôi cũng ở lại rồi, có lẽ má tôi biết nhưng bà muốn cho chị em chúng tôi đi. Tên má tôi là Trần Thị Thanh. Má tôi đã giúp cho tôi có đủ nghị lực mà ra đi.
Chị em chúng tôi tới góc đường, nơi hẹn xe tới đón. Chúng tôi đợi hoài đợi hủy, xe không thấy tới. Em gái tôi biểu rằng: “Để em đi kiếm điện thoại kêu thử xem họ có tới không rồi quay về”. Em tôi bỏ túi quần áo lại, đi kiếm điện thoại. Khi em tôi đi thì xe tới. Trên xe đầy nhóc người ngồi. Tôi năn nỉ người tài xế chờ em tôi thì ông ta nói chẳng có cách gì: “Bây giờ mà chờ thì hết đi nổi”. Ông biểu vậy, nên tôi đành vô trong xe, bỏ quần áo em tôi lại trên vỉa hè. Lúc ấy, tôi vừa bấn loạn, vừa kinh hoảng vì không có em tôi.
Khi tới bờ sông, mọi người đều phải xuống tàu thiệt lẹ. Vào lúc bối rối như vậy, tôi mất luôn túi quần áo. Như vậy tôi chỉ còn một bộ quần áo trên người mà đi khỏi nước. Chiếc tàu chúng tôi đi tên là tàu Tân Nam Việt. Tàu này lớn lắm, chở được tới năm sáu trăm người. Tôi thầm mong cho em tôi tới kịp trước khi tàu đi, nhưng em tôi không bao giờ đến được nữa.
Khi tàu chạy, tôi rất sợ. Nhiều người đứng trên boong nhìn Việt Nam lần cuối. Hình ảnh cuối cùng là bãi biển Vũng Tàu, nhưng tôi không nhìn lui nữa vì buồn quá. Tôi đã bỏ hết mọi thứ lại nhà, chẳng biết từ nay trôi nổi tới đâu.
Sau này tôi được tin em tôi cũng cố tìm cách đi nữa nhưng bị bắt lại. Nó bị nhốt tù. Ra khỏi tù, nó lại đi nữa, rồi lại bị bắt nữa. Lần này nó bị nhốt vô một nhà giam đặc biệt. Nó vẫn còn kẹt lại ở Việt Nam.
TRẦN TRÂM
“Nhìn họ kìa, toàn những thiên thần”
Tôi chưa bao giờ từng thấy quê hương tôi có hoà bình. Lúc nào cũng chỉ thấy lính, hoặc lính Việt, hoặc lính Mỹ. Bấy giờ tại Saigon, xóm tôi có hai căn nhà to lớn, kín cổng cao tường, bên trong có hồ bơi và đủ các tiện nghi giải trí. Người ta gọi đây là những biệt thự cho Mỹ ở. Những cánh cổng luôn luôn khoá kỹ. Thỉnh thoảng vài người Mỹ mở cổng cho những người Mỹ khác ra vào, rồi cánh cổng lại đóng chặt. Tôi nhớ khi còn nhỏ tôi vẫn tò mò đến nhìn. Họ có nuôi những con chó to để canh gác. Mỗi lần cửa mở, bọn trẻ lảng vảng đến gần nhòm ngó, nhưng khi chó ầm ĩ sủa thì ù té chạy. Đó là một trò chơi cho bọn chúng tôi. Đó là một nơi đầy bí mật. Và đối với lính Mỹ, lũ trẻ con cũng rất thân thiện. Chúng tôi thường vẫy tay mà nói “Hê lô, Salem”, như tên thuốc lá vậy. Họ cũng tươi cười vẫy tay. Lúc ấy chúng tôi ré lên mà chạy. Tôi kể cho ông nghe chuyện ấy bởi vì cuối cùng, khi đi khỏi Việt Nam, tôi đã từng rất ghét Mỹ. Những cảm xúc của tôi trải qua trạng thái biến đổi ngược ngạo chỉ trong thời gian ngắn, và tôi không biết chính xác tại sao đã xảy ra như vậy.
Cha tôi làm ăn với Mỹ bằng nghề may cờ. Một hôm, có mấy người Mỹ đến đặt cha tôi may khá nhiều cờ cho các đơn vị của họ. Họ muốn thêu hình con chó Snoopy lên mấy lá cờ. Họ đưa cho cha tôi xem tấm hình con chó Snoopy. Cha tôi bảo cái hình này xấu quá, người vẽ này chả biết vẽ con chó ra làm sao. Nên ông bảo để đó, ông sẽ vẽ lại. Lúc đầu, mấy người Mỹ đồng ý. Suốt ba, bốn ngày sau cha tôi cặm cụi vẽ một loạt hình đủ thứ chó. Rất giống. Con nào con nấy đều dữ dằn để thêu lên mấy lá cờ. Ông đắc ý, chắc mẩm họ phải thích công trình của ông lắm, những cái hình này giống hệt như chó thật. Nhưng mấy người Mỹ không thích chút nào. Họ kêu lên: “Không phải! Chúng tôi muốn con Snooopy kia!” Cha tôi không thể hiểu tại sao họ thích cái hình một con chó như thế. Chó mà chẳng giống chó, tức cười quá. Dầu bất mãn ra mặt, ông vẫn phải đồng ý làm cho họ một loạt cờ khác với hình chó Snoopy. Sau này cha tôi bình phẩm rằng bọn Mỹ không thích người Việt. Chúng không biết kính trọng các binh sĩ Việt Nam đang chiến đấu dưới lá cờ của họ. Bọn Mỹ có thể xông pha ra chốn hiểm nghèo để chết cho con chó Snoopy, chứ không phải cho người Việt Nam.
Rồi họ lại đặt ông làm một lá cờ Mỹ cỡ lớn. Cha tôi nghe nói hai Tiểu bang Hawaii và Alaska đã nhập vào Hiệp Chủng Quốc, ông muốn làm cho họ một lá cờ tân tiến, gồm đủ các tiểu bang mới. Cho nên ông cẩn thận cải tiến tấm hình lá cờ Mỹ họ giao cho ông. Ông nghĩ tổng cộng có 52 tiểu bang thì phải mang đủ 52 ngôi sao. Suốt mấy đêm, ông thức trắng để xếp đặt 52 ngôi sao cho được cân đối. Khi mấy người Mỹ đến nhận hàng, họ thấy có chuyện trục trặc, nhưng loay hoay chẳng rõ tại sao. Họ đếm mấy ngôi sao. Té ra có tới 52 ngôi sao tất cả, nhưng đành lấy vậy. Cho nên, lúc ấy ở một chỗ nào đó tại Việt Nam, có những người Mỹ đã treo lá cờ 52 ngôi sao cả thảy mà đứng chào.
Cha mẹ tôi là người Bắc di cư, rất chống Cộng. Người miền Bấc biết rõ Cộng sản, họ đã sống dưới chế độ ấy. Phần tôi mặc dầu nghe nói Cộng sản, Cộng sản, nhưng chưa bao giờ thấy mặt mũi Cộng sản ra sao, cho đến trước khi chiến tranh chấm dứt. Tôi cũng nghe những chuyện Cộng sản hay lén lút vào thành phố bí mật phao tin đồn, nhưng tôi chưa gặp gỡ tiếp xúc Cộng sản bao giờ. Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy một xác chết nào tại Saigon cả.
Gia đình tôi là một gia đình âm nhạc, chỉ vì thích âm nhạc, chứ không hẳn giỏi nhạc. Sài gòn bấy giờ có một Nhạc sĩ nổi tiếng là ông Lê Văn Khoa, ông đã để ý đến gia đình tôi, vì các cô tôi thích nhạc. Ông sử dụng hết mọi người trong gia đình tôi vào các sản phẩm âm nhạc của ông. Ông dạy một số bản nhạc cho tất cả lũ trẻ chúng tôi, các cô tôi, cả mẹ tôi. Ông dạy chúng tôi một số bản vũ cổ truyền Việt Nam. Chúng tôi cũng tự chế ra một số bản vũ riêng. Thế rồi ông đưa tất cả chúng tôi đến các nhà thương, lúc đầu ở Saigon; sau, ra các vùng quê, nơi quân đội đóng. Chúng tôi đi đến các địa điểm mỗi lúc một xa Saigon hơn để giải trí cho binh sĩ. Có những bệnh viện ở các vùng quê chỉ là những dãy lều được dựng vội lên cho các thương binh.
Thỉnh thoảng chúng tôi đi trực thăng, đôi khi bằng xe Jeep. Đến những nơi đó, chúng tôi đều được giới thiệu với các thương binh, các bác sĩ mặc đồng phục. Đa số thương binh không bị nặng lắm, và đang bình phục. Những người đang bình phục thường đến lều thăm chúng tôi, đôi khi chúng tôi cũng đến tận lều họ để cho họ phấn khởi. Chúng tôi thường hát những bài ca vui tươi và luôn luôn được mọi người tán thưởng. Tôi cảm thấy đây là giai đoạn lãng mạn nhất đời tôi. Tôi cảm thấy mình là một thiên sứ mỗi khi trình diễn trong bộ đồng phục học sinh hoặc trong bộ quần áo trắng tinh. Tôi luôn luôn thích quần áo màu trắng vì tôi thấy mình như một nàng tiên bé nhỏ mỗi khi trình diễn.
Tuy nhiên, không khí ở đây làm người ta choáng váng. Mùi hôi hám bốc lên khủng khiếp, thường trời rất nóng. Nhưng tôi vẫn không để ý, vì tôi đã sung sướng ngất ngây khi được làm nàng tiên bé nhỏ cho các chàng chiến sĩ. Nên một bên là nỗi buồn bã khi nhìn thấy cái đau đớn, bên kia chúng tôi đóng vai vui sướng để tạo ra và tiếp nhận nguồn vui.
Ở Việt Nam, tuổi thơ được xem là thời gian của niềm vui và hạnh phúc. Những chiến sĩ muốn tin rằng vì sự hy sinh của họ, vì sự đau đớn của họ mà các thiếu nhi Việt Nam vẫn được sung sướng. Cho nên tôi đáp ứng lòng mong ước ấy bằng cách rũ bỏ đau buồn của riêng tôi, mà dù trong thâm tâm cảm thấy, tôi vẫn không lộ ra cho họ biết.
Suốt thời thơ dại của tôi, tôi không biết chuyện gì khác ngoài chiến tranh. Trên một mức độ, tôi đã tự bảo cuộc sống là như thế, đời là thế, vì tôi nào biết một cuộc sống khác đâu. Trên lý thuyết, tôi có thể phỏng đoán: có lẽ còn có những gì khác nữa. Nhưng tôi luôn chịu đựng một nỗi buồn trong thâm tâm, tôi chấp nhận như chẳng thế nào còn cách khác. Khi đến Mỹ, thấy như chẳng ai buồn khổ, thì nỗi buồn riêng tư trong tôi lại càng thấm thía sâu đậm hơn. Đến nỗi, có lúc tôi từng muốn hủy mình. Tôi cũng đã nói chuyện với nhiều người khác muốn tự tử sau khi tới Mỹ. Tôi nghĩ nhiều người Việt Nam cũng có một tâm trạng như tôi, nhưng chỉ vì tự ái mà không nói ra thôi.
Có một lần, trước buổi du ca của chúng tôi, chẳng may tôi đạp phải một cái đinh, sắp tham dự một buổi trình diễn lớn thì vết thương tấy mủ. Tôi bực bội vì muốn đi trình diễn mà vết thương đau quá. Cho nên tôi chịu đựng nó. Tôi sống với cái đau. Đến lúc đi, vết thương làm độc, trời nắng nóng, tôi đau và cái đau lộ liễu quá. Tôi cảm thấy lần đầu tiên trong đời tôi đã đau cái đau của những người lính. Tôi đau đớn mà vẫn phải giả tảng như không. Đấy, biết bao người lính đã sống cuộc đời như thế. Và tôi nghĩ, dầu hãy còn là một đứa bé con, tôi đã cố chia sẻ cái đau của những người lính trẻ. Lúc ấy thực khó khăn cho tôi. Tôi cảm thấy nỗi đau và những bất hạnh xảy ra khắp chung quanh, nhưng mọi người vẫn mong đợi ở tôi, một đứa bé gái vui tươi hạnh phúc.
Năm 1973 tôi nghe người ta đoán sau khi Mỹ rút, Việt cộng sẽ tấn công trở lại. Chẳng ai tin Việt Cộng sẽ tôn trọng Hiệp định Ba Lê. Có lẽ, Mỹ thì tin, ngoài ra chẳng ai tin cả. Sau khi Mỹ rút, hai căn biệt thự trong xóm tôi không còn lính Mỹ nữa. Bây giờ vẫn còn Mỹ ở, nhưng là Mỹ dân sự. Tôi tin Việt Cộng sẽ tấn công, nhưng tôi không sợ. Tôi luôn luôn tin phe chánh thắng phe tà. Tôi luôn luôn tin Cộng sản sẽ thua, và đến bây giờ mới nghĩ rằng quả đó chỉ là nhãn quan của đứa trẻ nhìn ra thế giới. Tôi đã được dạy rằng bên ngoài có một lực lượng tốt, đó là Hoa Kỳ. Họ giúp đỡ chúng tôi, đặc biệt vì chúng tôi là những người bị tấn công chứ chúng tôi không tấn công ai. Chúng tôi là những người bị xâm lấn. Dẫu cho họ có được một số trận chiến thì cuối cùng chúng tôi vẫn thắng thôi.
Vào năm 1975, hầu hết mọi người trong gia đình như các cô chú tôi đều đã ra đi từ đầu tháng Tư. Nhà cửa trống rỗng. Bà tôi bắt đầu đem đốt tất cả thư từ giấy tờ chứng tỏ chúng tôi có liên hệ đến chính quyền. Tất cả những gì Việt Cộng có thể thấy quá khứ chúng tôi, bà nhặt nhạnh đốt hết. Khi thấy bà lặng lẽ ngồi đốt giấy tờ, tôi hỏi bà ơi tại sao bà đốt. Bà không trả lời, nhưng rồi tôi cũng hiểu. Chúng tôi thiêu hủy mọi hình ảnh, tất cả, kể cả giấy tờ khai sinh. Bây giờ hồi tưởng lại, tôi vẫn còn nhớ căn nhà đã trở nên trống trải, nhiều người thân thích đã ra đi, những lá thư ra tro bụi, tất cả đã đổi thay hết cái không khí và tình cảm gia đình. Đó là lúc tôi ý thức được chúng tôi đã thua và chuyện ấy thực là trầm trọng.
Nhiều thân nhân tôi đã ra khỏi nước, đến được đảo Guam trên đường sang Mỹ. Mấy bà cô tôi làm cho Mỹ, tôi biết chắc chắn họ cũng sẽ ra đi. Những người ra đi không hề một lời từ biệt. Chỉ thấy một hôm, bỗng nhiên họ biến mất.
Tôi trở nên sợ hãi. Tôi nhớ tôi đã bật khóc vì không muốn phải đối diện với nỗi đe doạ Cộng sản tiến đến Saigon. Tôi lại còn sợ những gì đã xảy ra ở miền Bắc rồi đây sẽ xảy cho chúng tôi. Con người sẽ dòm ngó nhau, kiểm soát nhau. Trẻ con sẽ rình mò báo cáo cha mẹ. Cuộc sống mà chúng tôi đã biết trong quan niệm tự do rồi đây sẽ tan rã hết. Chúng tôi ngưng đến trường. Lúc nào cũng luẩn quẩn ở nhà vì giới nghiêm.
Tôi được gia đình dặn kỹ là không được hở môi từ biệt ai, như thế nếu lỡ không đi được thì cũng không bị kết tội bỏ nước. Chúng tôi giữ mọi thứ bí mật.
Vào ngày gia đình quyết định đi, tôi đang ở trong nhà thờ. Cha mẹ tôi kiếm tôi khắp nơi không ra. Sáng hôm ấy tôi đến nhà thờ, ở lại suốt ba Thánh lễ Chủ Nhật. Cho nên cha tôi đành bảo mẹ tôi mang hết mấy đứa trẻ đi trước, ông sẽ cố đi sau với tôi. Lý luận của cha tôi là hai người sẽ có nhiều cơ may hơn là cả chín người túm tụm với nhau.
Tôi rất sùng đạo. Suýt có lần đã trở thành nữ tu. Tôi rất sợ, và trong buổi rước lễ, tôi nghĩ tôi rất gắn bó với ngôi Thánh đường. Trong hai buổi lễ đầu, tôi đến giúp nhà thờ góp tiền quyên, rồi trong khi hành lễ, tôi coi hộ xe gắn máy cho các tín hữu khỏi bị mất cắp. Tới Thánh lễ thứ ba, tôi bước vào. Trong lúc đang ngồi, chợt một người bạn quen bước đến. Vừa thấy anh, đột nhiên tôi cảm thấy rồi đây chẳng bao giờ tôi còn được nhìn lại khung cảnh này nữa. Linh tính đã báo cho tôi biết. Tôi hiểu là anh tìm đến tôi. Anh lại gần nói thầm vào tai tôi làm tôi đứng sững. Anh ta bảo “gia đình đang tìm cô”. Tức khắc tôi hiểu chúng tôi sẽ ra đi. Hôm ấy là Chủ Nhật 27 tháng Tư.
Người bạn bảo lên xe gắn máy để anh chở đi, nhưng tôi từ chối. Tôi chạy một mạch về nhà. Tôi nhảy ngay lên chiếc xe Vespa của cha tôi, chúng tôi cố đuổi theo cho kịp những người trong gia đình đã ra đi. Suốt một tháng trường, chúng tôi đã gói ghém quần áo sẵn sàng để phòng bị ngày ra đi. Chúng tôi chạy đến một điểm đón xe buýt ra phi trường. Một người cô tôi đáng lẽ đã có thể đi từ trước, nhưng tình nguyện ở lại, cô biết nếu không có cô giao dịch mọi chuyện thì gia đình tôi không thể nào đi được. Cả gia đình tôi chắc chắn không cách gì ra đi, nếu cô không ở lại giúp đỡ chúng tôi.
Vài tuần lễ trước, một người cô khác bảo người cô này đến sở bà để dọn dẹp bàn làm việc của bà, rồi bất cứ có món gì đáng giá để lại cứ việc lấy. Vì thế bà cô này đã đến dọn dẹp cái bàn làm việc ấy. Tại văn phòng này có một ngưòi Mỹ vừa đến Việt Nam được có một ngày. Ông tưởng cô tôi là nhân viên trong văn phòng nên ông sai phái cô tôi đủ thứ việc. Chừng đến giữa ngày, ông hỏi cô tôi một số giấy tờ, cô tôi trả lời chẳng biết đâu. Ông ta quát mắng, bảo tại sao làm việc ở đây mà không biết gì. Cô tôi bảo là chỉ đến lau chùi hộ cái bàn làm việc cho người chị, chứ đâu có làm ở đây. Ông ta áy náy xin lỗi, nói với cô tôi rằng nếu cô chịu ở lại làm việc với ông thì bù lại, ông ta sẽ đưa cho cả gia đình ra đi.
Đó là nguyên do đã giúp gia đình tôi ra khỏi nước. Tôi vừa vui vừa buồn lẫn lộn. Buồn vì mặc dầu mới mười ba tuổi đầu nhưng đã đủ lớn khôn để hiểu việc rời bỏ đất nước ra đi là việc quan trọng đến đâu. Nhưng tôi cũng mừng vì tôi cảm thấy như thế là tôi sống sót.
Chúng tôi bắt kịp những người khác trong gia đình tại cao ốc, nơi xe buýt đến đón chúng tôi. Chúng tôi kẹt lại đó cho đến tận ngày 28. Chúng tôi ở trong cao ốc đợi, mãi đến sáu giờ chiếc xe mới tới. Chúng tôi suýt đã định về nhà nếu cha tôi không cản lại, bảo rằng ông đã mất công tìm kiếm mọi người suốt một buổi sáng. Cha tôi bảo tất cả phải ở lại, dẫu có ngủ đêm ở đấy cũng vẫn phải ở. Cách gì đi nữa, mọi người cũng phải ở sát bên nhau. Có một số người mất kiên nhẫn, họ đã ra về trước khi xe buýt tới.
Phi trường xảy ra vụ pháo kích đúng đêm 28. Người ta chạy túa ra núp ở mấy hầm cát. Nhưng cha tôi nói: “Bây giờ không được lạc nhau nữa. Nếu bom rơi trúng hầm cát thì cũng vậy thôi”. Do đó chúng tôi cứ chụm lại với nhau giữa trời đất. Chúng tôi không thấy máy bay, nhưng thấy lửa cháy và những vụ nổ tung lên.
Đối với trẻ con, chuyện đó rất kích thích. Tôi không đến nỗi quá sợ mà lại thấy hào hứng. Chỉ sau này khi đã đến Hoa Kỳ, sống trong cuộc sống an bình tôi mới bắt đầu nghĩ chiến tranh là chuyện bất thường. Nhưng lúc đó, chiến tranh là những gì rất bình thường đối với tôi, cho nên vụ pháo kích lại làm tôi sôi nổi.
Một năm sau khi đến Mỹ, chúng tôi tới phố Tàu ở San Francisco dự Tết Nguyên Đán, em tôi chợt vụt chạy, ré lên khóc. Lúc ấy em tôi mới năm tuổi. Nó vừa khóc vừa bảo: “Pháo kích! Pháo kích!” Tôi mới biết chuyện ấy chỉ hào hứng với tôi, nhưng với em tôi thì không hào hứng chút nào. Không phải chỉ có pháo kích mới làm tôi sôi nổi. Mọi thứ đã lẫn lộn pha trộn nhau trong những ngày tháng đó: Sướng vui pha lẫn kinh hoàng. Nửa này nửa nọ làm cho mọi cảm giác của tôi chia xẻ ra từng mảnh.
Đêm hôm ấy chúng tôi ở trong phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày hôm sau, cuối cùng chúng tôi đi được bằng trực thăng. Chúng tôi thấy những người Thủy quân Lục chiến Mỹ từ trực thăng đổ tới phi trường. Tôi phải nói lính Thủy quân Lục chiến Mỹ rất đẹp. Tôi chăm chú nhìn khi họ đến. Bấy giờ ý nghĩ của tôi là: “Nhìn kìa! Toàn những Thiên Thần!” Đối với tôi, họ thực đẹp đẽ, bởi vì họ đã đến để giải cứu chúng tôi.
Cả gia đình chẳng ai biết nói tiếng Anh ngoài cô tôi, nên chẳng ai chuyện trò gì được nếu cô tôi không phiên dịch. Trong phi trường, người rất đông, tôi quan sát hết mọi gia đình. Việc quan sát các gia đình khác đối với tôi còn thú vị hơn là nghĩ ngợi về chính mình lúc bấy giờ.
Tôi thấy một bà bụng chửa rất to đi cùng với ông chồng. Mỗi lần di chuyển, lại thấy ông chồng nhét một mớ tiền dưới bụng bà vợ chửa, rồi dùng băng keo dán lại. Nhìn thấy như vậy khá mắc cỡ nhưng cũng thú vị. Đấy là lần đầu tiên trong đời tôi thấy rõ bụng đàn bà chửa, và thấy một người đàn ông lấy băng keo dán tiền dưới bụng bà. Bà ta chắc sẽ sanh đứa nhỏ trên tàu, vì lúc ấy bụng chửa đã lớn lắm rồi.
Đêm hôm ấy chúng tôi đổi chỗ hoài vì có nhiều đàn ông trong tuổi lính. Nếu Cộng sản đến, họ bị bắt, mà Cộng Hoà đến thì cũng chẳng tha. Ông xếp Mỹ của bà cô tôi lúc ở phi trường cũng tận tình săn sóc chúng tôi. Ông rất tử tế, nhưng tôi không nhớ được tên ông ta. Lúc ấy tên Mỹ đối với tôi xa lạ quá.
Trẻ em đều im lặng vì chúng tôi cảm thấy được là tình hình nghiêm trọng. Người Mỹ mang cho chúng tôi đồ hộp. Khi họ đi rồi, đồ ăn vung vãi khắp phi trường. Tôi còn nhớ một miếng phô mai to tướng bỏ lại. Trước kia mấy thứ ấy ở Saigon đắt kinh khủng, giờ đây trở thành miễn phí, chúng tôi ngấu nghiến ăn phô mai bằng thích. Lại còn cả những hộp súp mì gà hiệu Campbell. Đang đói lại được ăn thoả thích. Bấy giờ có một nhóm người đứng thành hàng để dọn súp mì gà Campbell cho chúng tôi ăn, nhưng chúng tôi không biết họ là ai.
Tôi chỉ có một túi nhỏ, nhưng khi ra đi, phải vứt cái túi lại vì trực thăng không chở nặng được. Nhưng lúc ấy tôi đã mặc hết vào người đến ba cái quần, ba cái áo. Cần nhất là phải lo đứng chung với nhau cho khỏi lạc. Bấy giờ em gái tôi mới lên bốn, đứa kế lên sáu. Khi người ta bảo chạy, tất cả mọi người trong gia đình chụm lại chạy, cả đứa em bốn tuổi cũng đã chạy rất nhanh. Nó hiểu chuyện ấy bấy giờ quan trọng đến đâu.
Chuyến trực thăng chở chúng tôi đi là chuyến cuối cùng. Đáng lẽ chúng tôi được đi với nhóm đầu nhưng vì chúng tôi quá bi quan về việc ra đi, nên khi người ta kêu tên, chúng tôi đã không lên chuyến bay đầu tiên. Vì thế chúng tôi phải chờ suốt ngày, người ta không kêu tên chúng tôi nữa. Chúng tôi vừa bắt đầu sợ không có tên trên danh sách thì một ngưòi Mỹ tiến lại hỏi. Cô tôi trả lời. Ông ta nói gia đình tôi đã được kêu tên trước rồi sao chưa đi. Vì thế chúng tôi được đi buổi chiều tối hôm đó.
Tôi đã từng đi hát cho lính bằng trực thăng nên đây không phải là lần đầu tiên lên trực thăng. Nhưng lần này tôi ý thức được là phút giây hệ trọng. Cả gia đình có mười ba người, gồm chín người trong gia đình trực tiếp,- tức là cha mẹ và các chị em chúng tôi – rồi thì cô tôi, bạn cô tôi và ông bà tôi bước vào chiếc trực thăng. Chúng tôi đã chờ lâu quá. Tôi nhớ khi chiếc trực thăng đầu tiên bay tới, người ta gọi người Mỹ đi trước, rồi đến lượt người Việt. Bấy giờ ai nấy đều lo bị bỏ, nhưng họ hứa. Họ bảo: “Đừng rối lên, chúng tôi sẽ trở lại đón quý vị”. Chúng tôi chờ khoảng một giờ nữa thì đột nhiên đủ các loại trực thăng bay tới trên đầu chúng tôi. Mọi người vỗ tay, vẫy, khóc, người thì cầu nguyện. Ai nấy đứng cả dậy, quá vui mừng.
Trước đây khi thấy người Mỹ để lại đồ ăn thức uống trong phi trường, cha mẹ tôi đã lo người ta bỏ rơi. Phản ứng của cha mẹ tôi và tôi thực khác nhau. Phần tôi, mặc dầu biết phút giây nghiêm trọng nhưng cũng không kiềm được vui mừng với những đồ ăn mà lần đầu tiên trong đời mới thấy nhiều như thế. Khi Mỹ đi rồi, những người làm cho Mỹ bưng đồ ra ăn tùy thích, chả khác đồ ăn từ trời rơi xuống.
Khi người Mỹ quay trở lại, trời vẫn còn ánh sáng ban ngày. Trước khi nhìn thấy họ, chúng tôi đã nghe thấy và tôi chợt có cảm giác sung sướng biết bao. Từ lúc rời nhà thờ cho đến lúc lên trực thăng, tôi đã có cảm giác sẽ đi được và tôi đã giữ niềm tin suốt lúc ấy. Cha mẹ tôi và những người chung quanh có lo lắng, riêng tôi không lo lắng gì.
Tôi nhớ khi trực thăng đến, gió cánh quạt đã đẩy chúng tôi lui lại. Em tôi nắm chặt lấy tay tôi mà đỡ gió. Tất cả chúng tôi ào chạy tới cho nhanh, nhoài mình về cái trực thăng. Tôi nhớ một lần còn bé khi một cơn bão từ đại dương thổi vê cũng giống hệt như vậy. Ở cửa trực thăng có hai ba người Mỹ giúp chúng tôi vào. Tôi nhớ chúng tôi đã chạy lọt giữa mấy người Mỹ, một người bế bổng tôi đưa vào trực thăng. Tôi được dịp ngồi bên cửa sổ cạnh người bạn của gia đình tôi. Ông ta bảo “Cầu nguyện đi”. Ông muốn tôi đọc kinh Cám ơn. Rồi ông ta bảo: “Hãy nói cám ơn!” Tôi nhìn ông ta và chợt thấy mắc cỡ. Mắc cỡ hết sức. Bởi vì đột nhiên đó là giây phút đầu tiên tôi thấy tôi ghét người Mỹ quá.
Tôi cảm thấy rất tổn thương. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ khi chiếc trực thăng cất lên. Cảnh tượng cuối cùng tôi thấy ở Saigon là một màu đỏ rực chiếu từ mặt trời, trên những ngọn lửa hắt ra.
Tôi không còn hào hứng gì. Lúc ấy tôi bắt đầu thấy ghét người Mỹ. Tôi đã bị chấn thương. Khi máy bay cất khỏi mặt đất, tôi ý thức có một điều tệ hại lắm đang xảy ra. Tôi cố khóc, nhưng chỉ dăm ba giọt nước mắt chảy xuống chứ không nhiều như tôi muốn. Tôi muốn bi thảm hóa những cảm xúc trong tôi, nhưng chỉ có vài giọi nước mắt còn sót lại. Tôi ngồi bên cửa sổ nhìn, thấy những người hãy còn lại Tân Sơn Nhất. Họ bé dần đến khi mất hẳn.
Chúng tôi qua bãi biển, rồi ra tới biển Nam, tôi đều nhìn thấy hết qua cửa sổ. Nhưng những cảnh tượng Saigon mới làm tôi nhớ đến rõ rệt nhất. Tôi không biết những người khác đang làm gì, họ có khóc hay không, vì cuối cùng tôi đã tự chặn lại hầu hết những ký ức khác trong ngày hôm ấy. Chiếc trực thăng rất đông người.
Tôi không sợ hãi. Tôi có một cái cảm giác khá vô lý là tất cả mọi chuyện đều ổn thoả. Một trong những ý nghĩ cuối cùng của tôi là đã không mang theo một nắm đất Việt Nam. Tôi đã đọc đâu đó trong một câu chuyện lãng mạn về một chàng đàn ông đã mang theo nắm đất của quê hương chàng. Tôi cũng định làm như thế, nhưng với đủ các chuyện đã xảy ra ở phi trường nên tôi không còn có dịp. Tôi đã bi thảm hoá mọi chuyện, có lẽ tôi không nên làm như thế.
Chúng tôi đáp xuống tàu Midway. Sau khi chúng tôi đến khoảng hai tiếng đồng hồ, họ đưa cho chúng tôi một sợi dây thừng để nắm lấy mà bước qua boong tàu. Trên con tàu, tôi vẫn còn những cảm giác lẫn lộn. Tôi hãy còn phật ý, nhưng cùng một lúc lại thấy những người Mỹ đẹp quá, bây giờ họ chính là những người bảo vệ chúng tôi. Tôi cảm thấy phải đặt niềm tin vào những người lính Mỹ trên chiếc tàu Midway này. Họ có một thể lực đẹp đẽ, cao lớn và khoẻ mạnh.
Rồi chúng tôi được chuyển sang một chiếc tàu nhỏ. Tôi còn nhớ mãi là mặt biển cứ dập dờn và con tàu lên cao xuống thấp. Ba ngày trời rồi không có đồ ăn. Một trong những giả thuyết là có lẽ trên tàu không đủ tiếp liệu, họ phải giữ đồ ăn cho lính Mỹ trên tàu. Giả thuyết thứ hai là họ muốn cho chúng tôi đói lả để chúng tôi khỏi phải gây sự với nhau hoặc với họ đấy thôi.
Mẹ tôi bảo thằng em tôi ngủ đi, nhưng nó kêu suốt ngày không ăn, đói quá. Chúng tôi có nước, nhưng lại chẳng có gì ăn. Cuối cùng tôi ăn vụng một ít đồ ăn. Đến bây giờ tôi hãy còn mắc cỡ. Tôi khám phá được một thùng cá hộp vẫn để ở một chỗ, tôi nhón lấy vài con rồi đậy hộp lại. Ngon hết nói. Mùi cá tanh và lạnh, nhưng lúc ấy rất ngon. Sau đó tôi phát bệnh, nhưng tôi không thể nói cho ai biết là tôi đã lấy trộm cá hộp mà ăn.
Chiếc tàu nhỏ chuyển chúng tôi đến Phi Luật Tân. Trên tàu, tôi cứ nghĩ mãi về Tân Sơn Nhất và những đồ ăn vất ở đấy. Phải chi lấy một ít đem theo. Trên tàu chúng tôi nằm chật cứng, ngủ ngay trên sàn. Còn đến Subic thì như thiên đàng, chúng tôi ở lều, nhưng ngủ có nệm đàng hoàng. Chúng tôi được chích thuốc, chủng đậu trước khi sang Guam.
Người ta cũng cho chúng tôi tắm rửa để khỏi mang chấy rận sang Guam rồi đưa chấy rận vào đất Mỹ.
Gia đình tôi muốn đến định cư ở California vì chúng tôi nghe nói ở đây có nhiều người gốc Á Châu và ở đây khí hậu tốt. Vì thế, lúc ở Guam, khi người ta bảo có chỗ đi Fort Chaffee thuộc Tiểu bang Arkansas, gia đình tôi từ chối. Chúng tôi muốn đi California chứ không muốn đi Arkansas. Do đó chúng tôi phải ở lại Guam lâu hơn.
Chúng tôi không biết gì nhiều. Nhưng hễ biết được gì, chúng tôi dứt khoát. Chúng tôi biết chúng tôi muốn đến California.
VŨ THỊ KIM VINH
“Chúng tôi bật khóc khi nhận ra rằng: Thôi thế là xong”
Năm 1961, mẹ tôi sinh tôi ở Tây Ninh rồi đưa tôi về Saigon. Chúng tôi là người Công giáo. Cha mẹ tôi có mười người con, tôi là con giữa. Tôi có sáu chị lớn, hai anh trai và một em gái. Bây giờ tôi chỉ còn lại một anh trai. Một người đã mất vì chứng sưng ruột mà anh bị từ lúc còn ở trong trại tỵ nạn Mã Lai. Vượt biên đến Trại, anh đã mổ một lần tại đây. Sang Mỹ, mổ thêm năm lần nữa, chết lúc hai mươi bảy tuổi.
Tôi vẫn còn nhớ chiến tranh diễn ra từ khi tôi còn bé, vì tôi thường được mẹ tôi đưa đi thăm ba tôi, lúc ấy ở trong quân đội, đóng tại tỉnh Bình Dương. Lúc còn bé, có lần đau nặng, tôi đã xuống ở với ba tôi vài tháng để nhờ các Bác sĩ Quân Y săn sóc cho tôi. Những gì làm tôi nhớ nhiều đến cuộc chiến và những hiểm nguy của cuộc chiến là vào năm 1968, khi Cộng sản tấn công trong dịp Tết. Lúc ấy gia đình tôi đang ăn trưa, cha tôi nhận điện thoại của ông Tướng bảo phải trở về đơn vị ngay lập tức. Mọi người trong gia đình đều lo lắng vì đang dịp Tết, ai nấy đang vui Xuân. Chỉ còn mẹ tôi bên cạnh, chúng tôi đều lo sợ cầu cho cha tôi được tai qua nạn khỏi. Mẹ tôi hết lòng khấn nguyện. Cha tôi lúc ấy là Trung tá trong quân đội.
Tôi rất hãnh diện về cha tôi. Ông hồi hưu từ trước 1975. Sau những trận đánh 1968, ông đã nhận được nhiều bằng tuyên dương công trạng của Tổng thống Nixon và của tướng Westmoreland, bởi chính ông là người đã lấy lại tỉnh Bình Dương, mở đường cho các đơn vị khác, do đó Cộng sản bị đánh bại. Ông là người rất can đảm. Sau đó xin về hưu, ông nghĩ mọi chuyện dây dưa quá nhiều đến chính trị. Cha tôi đã du lịch nhiều nơi. Ông nói được tiếng Anh, tiếng Pháp. Ông không xa lạ gì với đất Mỹ vì ông đã từng được đi huấn luyện ở Mỹ.
Khi dư luận xôn xao về những chiến thắng của Cộng sản vào năm 1974 và 1975, chúng tôi không lo lắng vì lẽ cha tôi tỏ vẻ không quan tâm. Cả đến khi họ tiến tới gần Saigon, chúng tôi vẫn không lo, cha tôi tin Cộng sản sẽ chẳng bao giờ thắng nổi.
Chị tôi lấy một người chồng, anh này có một người cha giàu có. Cha anh quen biết nhiều sĩ quan cao cấp trong chính quyền ông Thiệu, biết rõ tình hình xảy ra. Anh rể tôi khuyên cha tôi nên thu xếp tiền nong, gói ghém quần áo ra khỏi Việt Nam vì lẽ đã tuyệt vọng rồi, đồng minh không giúp chúng tôi nữa. Lúc ấy khoảng đầu tháng Tư.
Cho đến 21 tháng Tư chúng tôi vẫn tin là với một quân đội và binh lính mạnh mẽ, không cách gì thua được. Mặc dầu chúng tôi không ưa chính quyền ông Thiệu, nhưng chúng tôi cũng chẳng thích gì Cộng sản. Chúng tôi đâm ra bối rối. Nghe dư luận bảo Cộng sản sẽ tiến đến thiết lập một chính quyền mới, nhưng chúng tôi chẳng còn gì khác để tin, chẳng có một đường lối nào ở giữa để chiến đấu. Mặc dầu chúng tôi đã chiến đấu, nhưng đó chỉ vì bó buộc mà phải chiến đấu thôi.
Chúng tôi đều đã chán ngán chiến tranh. Chúng tôi sợ cho gia đình và tính mạng lâm nguy nếu Cộng sản chiếm đóng. Và vấn đề là, đến giữa tháng Tư, thì những người quan trọng trong chính quyền bắt đầu di tản cả. Điều ấy làm cho mọi việc náo loạn, kinh hãi. Sau đợt di tản đầu tiên, nhiều người đã trở nên hoảng hốt.
Chú tôi làm việc cho ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Ông xếp đặt cho những người rời khỏi nước, đưa họ ra phi trường lên máy bay. Khi mất Ban Mê Thuột, rồi mất đến Nha Trang thì mọi người thất kinh. Gia đình tôi bắt đầu kiếm đường đi, chỉ vì thấy ai cũng đi cả. Quan niệm gia đình Việt Nam là quan niệm gia đình mở rộng, họ hàng gần gũi thân thiết nhau. Nếu gia đình này đi mà gia đình khác không đi, người ta thấy vắng vẻ buồn bã vì không có thân nhân bên cạnh, cho nên người này đi, người khác cũng đi. Nhưng gia đình tôi bị kẹt, chính vì có quá nhiều lựa chọn. Một người chị tôi làm cho ngân hàng Mỹ. Chị cho biết ngân hàng của chị sẽ di tản nhân viên, họ sẽ cho chị mang theo một người nữa. Gia đình tôi quyết định cho một chị nữa đi cùng. Và rồi một người chị khác, là người lấy chồng con nhà giàu, cũng muốn mang con đi. Bà chị này đi sớm hơn, ra đến Tân Sơn Nhất mới biết hễ ai lọt qua cổng phi trường là đi được, không hạn chế gì. Chị ấy cố tìm cách điện thoại kêu chúng tôi đi, nhưng điện thoại tại phi trường kẹt. Cả một hàng dài người đứng chờ nên không thể nào gọi được. Nếu chị ấy gọi được, có lẽ chúng tôi đã cùng đi được với chị ấy rồi. Chị có đứa con tám tháng, lại thêm đứa nhỏ của người chị khác nữa, cứ phải lu bu cho bú. Đêm hôm ấy, chị bay được sang Guam. Sau đó gia đình tôi bắt đầu gặp hết chuyện này đến chuyện khác. Người anh rể tôi trở về nhà thì cha mẹ anh ấy đã đi cả mà không hay. Anh hoảng hồn tìm đến chúng tôi. Bấy giờ anh đang ở trong Không quân, lại về Saigon không giấy phép. Chúng tôi phải đưa anh trốn rồi tìm đường cho anh đi trước.
Người chú làm ở ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến cố giúp đưa tên anh vào danh sách. Nhưng nhiều người biết anh là con triệu phú, người ta nghĩ anh phải mang nhiều vàng và đô la lắm nên có người báo cảnh sát. Anh ấy là phi công. Bấy giờ luật không cho quân nhân được rời Việt Nam không giấy phép, nên nếu anh bị bắt thì có thể bị bắn không cần xét xử gì. Anh bị bắt ngày 27 tháng Tư, vì thế chúng tôi kẹt lại. Mẹ tôi là người rất tử tế. Một người đàn bà can đảm với trái tim vàng. Đôi khi bà lo lắng cho người khác còn hơn cả cho con đẻ của mình. Thấy anh rể tôi bị bắt, mẹ tôi bảo bà chỉ chịu đi khi nào thấy tận mắt anh rể tôi lên được máy bay.
Hôm 28, chị tôi – vợ của anh phi công , ra đi. Chị có thai nên đi trước. Mẹ tôi hỏi tôi có muốn đi theo săn sóc cho chị không. Tôi trả lòi tôi muốn, nhưng em tôi lại thân với chị tôi hơn. Nó khóc khi thấy chị tôi đi. Vì thế tôi đã rất ngu mà bảo nó thay chỗ tôi mà đi. Quyết định này làm tôi phải trả giá năm năm dưới chế độ Cộng sản.
Tất cả những vấn đề lôi thôi gây ra là do chú tôi. Đáng lẽ phải lo cho bà con đi trước, ông lại lo cho những người giàu có hơn, họ trả ông vàng và đô la, vì thế ông đã trì hoãn những chuyến đi của chúng tôi để sắp đạt cho các người lạ đi thế vào. Tôi không trách chú tôi vì ông cần tiền, ông phải lo cho gia đình, và chẳng biết ngày sau sẽ ra sao. Phần ông cũng định sẽ đi sau chót. Một hôm về nhà ông nói: “Trời ơi! Hôm nay có tới ba chỗ trống người ta bỏ chuyến đi. Đáng lẽ em có thể xếp cho chị đi được”. Mẹ tôi rất giận, hỏi sao chú lại đối xử với chúng tôi như thế. Chú tôi chỉ bảo chú không có thì giờ.
Chính chú tôi cũng bị kẹt. Hôm 29 là ngày cuối cùng, chú về nhà khóc mà nói: “Tuyệt vọng rồi”. Mẹ tôi kinh hoàng hỏi chú tại sao. Chú tôi đáp các nhân viên ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đã đi hết, chú tôi không đi được. Ở Tân Sơn Nhất người đông quá, chú không lọt qua nổi. Các nhân viên khác không đợi, họ đã đi cả.
Chị tôi bèn gọi cho người bạn làm ở Tòa Đại sứ Mỹ, nhưng điện thoại đã cắt, nên chúng tôi tới thẳng Tòa Đại sứ. Hôm ấy là 28, một đám đông đang vây quanh khu này. Người ta la thét, khóc lóc, xô lấn nhau tìm cách vào cổng. Bấy giờ lại có những người biết gia đình nào đã đi thì họ tràn vào nhà hôi của: lấy tủ lạnh, bàn ghế V..V… Bọn hôi của có thể là bất cứ người nào trên đường phố.
Đến Tòa Đại sứ, chúng tôi biết chẳng cách nào vào được. Bây giờ tôi không thấy sợ hãi, chỉ bực bội giận dữ, và tê hết cảm giác. Tôi cứ nghĩ “Thế này thực không công bằng”. Tôi không thể hiểu vì sao mọi chuyện đã xảy ra với dân tộc tôi như thế. Nhưng ai có thể nói là có công bằng trong cuộc đời này?
Tôi còn nhớ lúc ấy trời mưa, cha mẹ tôi bảo không thể nào đứng đợi mãi, nên chúng tôi quay về kiếm đường khác. Chúng tôi cần về nhà cũng vì cũng lo bọn hôi của có thể đến nếu họ thấy chúng tôi đi lâu quá. Nhưng khi về nhà rồi, cha tôi không muốn đi nữa. Bà nội tôi vẫn còn ở ngoài Bắc, tôi biết cha tôi muốn gặp lại bà. Ông bảo thôi bất kể chuyện gì xảy ra, ít nhất cũng được gặp lại mẹ và các chị em của ông. Nhưng mỉa mai thay, cha tôi sẽ không bao giờ có dịp gặp lại bà tôi. Ông bị đi “cải tạo”, và bà nội tôi mất trong khi ông hãy còn đang cải tạo.
Ngày 29 chúng tôi mở truyền hình xem chương trình cuối cùng của chính phủ tự do. Chúng tôi nghe ông Vũ Văn Mẫu lên án người Mỹ, yêu cầu người Mỹ ra khỏi xứ. Chúng tôi thấy một người trong đám sinh viên cấp tiến từng bí mật hoạt động cho Cộng sản nay mới ra tù, lên tuyên bố rằng: “Bây giờ là lúc thanh niên sinh viên học sinh hãy sửa soạn đón chào niềm vui mới. Niềm vui thống nhất đất nước Việt Nam”.
Lúc ấy tôi ngây thơ hy vọng người ta sẽ không phản bội lời nói mình. Tôi nghĩ những người bên kia cũng yêu nước, như thế có lẽ mọi sự cũng ổn thoả thôi.
Sáng sớm 30 tháng Tư, tôi không thấy có quân đội nào trên đường phố. Chừng chín giờ sáng mở máy phát thanh thì nghe tướng Minh kêu gọi quân đội ngừng chiến đấu. Ông tuyên bố cuộc chiến chấm dứt.
Chừng buổi trưa chúng tôi thấy bộ đội Cộng sản đi xe Jeep có cắm cờ chạy qua nhà tôi. Điều đầu tiên sau khi thấy họ là chúng tôi đi thay quần áo. Chúng tôi đều đổi sang mặc quần áo đen. Dư luận nói họ không thích thấy ai ăn mặc tử tế vì lẽ như thế chứng tỏ có tiền, sẽ bị họ giết. Tướng Minh tuyên bố ông không còn là Tổng Thống nữa. Chúng tôi bật khóc khi nhận ra rằng thế là xong. Cha tôi cũng khóc.
Tôi là người đem đốt tất cả giấy tờ văn bằng mà cha tôi đã nhận được do người Mỹ và do chính phủ cấp, các giấy tờ do ông Thiệu, do Nixon và tướng Westmoreland đã gửi cha tôi để cám ơn về các công tác ông đã thực hiện. Tôi cũng đốt hết các hình ảnh cha tôi vẫn giữ làm kỷ niệm. Tôi bật khóc. Tôi lên sân thượng, thấy chiếc máy bay cuối cùng rời khỏi nước, một chiếc DC-3. Tôi thấy cái máy bay cố cất cánh, rồi bùng nổ trong không trung. Tôi thấy rõ một cái hỏa tiễn bắn trúng, cái máy bay bùng nổ. Tôi thấy những mảnh vụn và những thây người rơi ra ngoài trời rồi rơi xuống đất. Đó là buổi sáng ngày ba mươi.
Chúng tôi cũng thấy một chiếc trực thăng quần trên ngôi nhà một Bác sĩ quân y, cũng là Giám đốc quân y viện. Chiếc trực thăng cố bốc ông Bác sĩ ra đi, nhưng cái dây hơi ngắn, thả xuống không đủ, ông không sao lên được. Chiếc trực thăng quần trên ngôi nhà một lúc, nhưng ông Bác sĩ không vào nổi, chiếc trực thăng bay đi, bỏ ông lại. Bao nhiêu người đang cố tìm đường đi, đây là người có phương tiện ra đi, nhưng không vào trực thăng được.
Sau ngày 30, người ta vẫn có thể rời khỏi Việt Nam khá dễ dàng. Nhưng kẻ chiến thắng vẫn còn bận ăn mừng nên đã không kiểm soát mặt biển kỹ càng. Cha mẹ tôi cố tìm cách trả tiền kiếm tàu đi. Nhưng trên đường, cha mẹ tôi gặp mấy người lính Cộng sản đi nhờ xe. Cha mẹ tôi nói chuyện với họ, họ nói mọi sự yên ổn, sẽ không có chuyện tắm máu đâu. Cha mẹ tôi hỏi thăm về việc nghe nói những người ở trong quân đội sẽ phải vào trại tập trung, họ bảo: “Không! Không có đâu! Mọi sự sẽ yên ổn thôi”.
Rồi họ kể cho chúng tôi nghe con gái ở ngoài Bắc ăn mặc đẹp còn hơn con gái trong Nam như thế nào. Họ bảo chẳng có chuyện trả thù: “Đừng biến chúng tôi thành những con quỷ, chúng tôi không phải thế đâu”.
Nhưng rồi ngày mùng Một tháng Năm là một ngày rất buồn. Một ngày nặng nề u ám. Điện tắt nhưng Cộng sản không sửa được. Chúng tôi nghe trên đài phát thanh một giọng nói miền Bắc to và sắc buốt của người xướng ngôn viên lên án Mỹ và những người cộng tác với Mỹ.
Anh ta hạ nhục chúng tôi bằng cách nói chúng tôi là lũ đầy tớ, lũ chó săn của chính phủ Mỹ, bởi chúng tôi đã hoạt động với họ trong công tác chống Cộng. Chúng tôi hết sức tổn thương khi nghe như thế.
Việc đi ra phố hãy còn nguy hiểm vì người ta vẫn thường đột nhập vào nhà, nếu họ tưởng người nhà đã di tản cả. Tình trạng hết sức rối loạn. Nhiều người có súng đã cướp ngay trên đường phố, gây một bầu không khí cực kỳ kinh sợ.
Tôi đạp xe đạp ra đường thấy vài người lính miền Nam. Họ vừa lột bỏ đồng phục vừa khóc. Người ta thấy họ và trong lúc giao thời mới cũ này, có người đã xua đuổi lính miền Nam để lấy điểm với chính quyền mới. Bấy giờ tôi là một đứa bé, nhìn thấy thế tôi thật ngượng ngùng. Tôi phát tởm khi chứng kiến cảnh tượng ấy. Rồi cũng chính những người này đã đi hoan hô lính Cộng sản. Họ ôm lấy lính Cộng sản như những người anh em thất lạc lâu ngày. Tôi thật ngạc nhiên khi nhìn thấy thế, và cảm thấy không vui vẻ gì.
Vào thời gian này nếu gia đình nào có bà con làm cho chính quyền miền Bắc, dù chỉ một tên lính quèn, người ta cũng cảm thấy ít nhất là được an toàn. “Đấy, gia đình chúng tôi cũng có người chiến đấu chống miền Nam”. Tâm lý ấy làm chúng tôi rối rắm, bởi vì trước đó chẳng ai dám nói có quen người miền Bắc hoặc có thân nhân trong quân đội bên kia. Chẳng ai bảo ai nhưng rồi tức khắc người ta đã biết phải làm gì: Chợt một cái, nhà nào cũng treo cờ Việt Cộng. Cờ Việt cộng trở thành một cái thẻ an ninh hoặc một tín chỉ có thể cứu mạng người ta. Nhà nào cũng phải có một lá cờ. Tôi trở nên sợ hãi bởi vì mọi người quá sợ hãi gần như mất lý trí. Người ta không còn nghĩ được nữa. Tôi có một cái áo xanh mà tôi rất thích, nhưng chúng tôi đã phải xé ra làm cờ. Tôi khóc khi làm như thế, tôi nhớ lại mình thật kỳ khôi. Anh tôi là tay thể thao, ảnh có một cái quần đùi màu vàng. Chúng tôi xé ra để cất một ngôi sao may lên cái cờ treo trước nhà. Khi lá cờ treo lên rồi, gia đình tôi mới cảm thấy yên. Người nào cũng phải làm thế, bầu không khí sinh hoạt đã khác lạ lắm. Chợt một cái, mọi người đều nhìn ngoại giới với một nhãn quan khác hẳn.
Những người giải phóng sử dụng một ngôn ngữ lạ lùng – mặc dầu vẫn là tiếng Việt. Nhiều người bắt đầu bắt chước giọng ấy. Thật lạ lùng. Sau một tuần lễ, họ chia chúng tôi thành khu vực, mỗi khu vực có một ủy viên Chính Trị. Họ giảng về chủ nghiã Mác Xít, Lê Nin nít và chúng tôi phải thảo luận trong các buổi họp. Thật nhục nhã. Trong các buổi họp này họ bắt chúng tôi phải phê bình kiểm thảo lẫn nhau. Ngay cha tôi cũng phải kiểm thảo trong buổi họp này. Ông nói ông đã giết người vô tội, nhưng tôi biết ông chẳng giết ai vô tội cả. Nếu ông không giết chúng, chúng sẽ giết ông. Thế mà ông đã phải nói rằng ông là người có tội, ông xin khoan hồng về việc “giết người vô tội”. Tôi chứng kiến cảnh cha tôi khóc trước mặt mọi người. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy cha tôi khóc. Chính tôi cũng phải làm như thế. Tôi cũng đã phải nói rằng tôi không đồng ý cách sống của cha mẹ tôi. Việc này xảy ra sau khi nghe cán bộ nói về chủ nghiã Mác, Lê, nói về sự nghiệp hy sinh của miền Bắc giải phóng miền Nam. Cho nên tôi đã buộc phải nói rằng tôi rất thù ghét những người như cha mẹ tôi về những gì họ đã làm. Tôi đã nói như thế, chỉ để mong được sống còn.
TRẦN THỊ MỸ NGỌC
“Họ như đàn kiến vây quanh chúng ta”
Cha mẹ tôi thôi nhau khi tôi mới vừa sinh. Cha tôi đang học luật nhưng rồi phải gia nhập quân đội. Mẹ tôi quen sống dựa dẫm, nương tựa nhiều vào cha tôi, do đó cha tôi chán nản. Vì thế cuộc tình duyên của cha mẹ tôi tan vỡ từ khi tôi mới ra đời. Mẹ tôi một mình gánh hai con thơ. Tôi có một người chị lớn hơn tôi ba tuổi.
Mẹ tôi không có tiền. Chúng tôi sống trong một xóm bình dân. Những người hàng xóm coi vậy mà rất tốt và thân thiện. Họ giúp mẹ tôi trông nom săn sóc tôi. Bỏ mẹ tôi rồi, cha tôi lập gia đình khác sau một thời gian ngắn và đem chị tôi về nuôi. Tôi tiếp tục ở với mẹ cho đến khi gần sáu tuổi.
Mẹ tôi làm nghề buôn bán. Ở Việt Nam có nghề buôn vé số. Bà vào nghề bằng cách bán vé số lẻ, sau đó từ từ khá lên cho đến khi trở thành nhà thầu, phân phát vé số ra miền Trung cũng như lục tỉnh. Mẹ tôi kiếm tiền bằng nghề này.
Khi tôi khoảng sáu tuổi, cha tôi mang tôi về sống với ông để tôi có cơ hội học hành. Mẹ tôi vì buôn bán nên quá bận rộn. Từ đó, tôi lớn lên bên cha, chỉ về thăm mẹ vào cuối tuần. Trong thời gian tôi sống với cha thì ông đã trở thành một vị quan toà của toà áo đỏ. Với chức vụ này, ông đã xử nhiều vụ án gian thương. Sau đó, chuyển về làm tại Toà án quân sự mặt trận cho đến ngày Sàigòn thất thủ.
Khi sống với cha, tôi rất hồn nhiên vì cuộc sống của tôi nay được bao che đầy đủ. Tôi làm bạn với những trẻ em cùng giai cấp khá giả. Tôi học trường Pháp, trường Marie Curie trên đường Công Lý. Tôi học trường Pháp từ khi còn bé cho đến khi Sàigòn mất. Tôi biết đọc biết viết tiếng Pháp trước khi biết đọc biết viết tiếng Việt. Tôi vẫn không quên ngày bắt đầu học tiếng Việt, tôi cứ bị bà Thầy rầy mắng vì tôi khó dạy. Tiếng Việt có nhiều dấu, không sao nhớ hết nổi. Tôi bị thầy đánh luôn cho đến khi tôi khôn ra bằng cách cố học thiệt mau thiệt giỏi. Đây là một cách tự bảo vệ lấy mình.
Từ đầu năm 1975, tôi bắt đầu thấy nhiều việc không ổn. Trước Tết, theo phong tục Á Đông, chúng tôi đem quà biếu lẫn nhau. Hôm đó cha tôi và mẹ kế tôi đem quà đến thăm và biếu ông bộ trưởng tài chánh. Ông là bạn thân của cha tôi, cha tôi và ông nói chuyện rất lâu. Hồi đó, tôi còn nhỏ nên không để tâm mấy đến cuộc đàm thoại này, nhưng khi về nhà, tôi nghe cha tôi và mẹ kế tôi nói chuyện: Bạn cha tôi bảo là cha tôi cần phải ra khỏi Việt Nam ngay, Cộng sản đã vây quanh Sàigòn rồi. Bạn cha tôi nói họ đang tiến vào. Tôi nhớ mãi câu nói ám chỉ sự việc quân cộng sản đến: “Họ như đàn kiến vây quanh chúng ta”.
Bạn cha tôi từ chức ra đi. Vào khoảng thời gian này, cha tôi phải đi xử án tại Cần Thơ. Ông xử những người đào ngũ và những Việt cộng bị bắt tại miền Tây. Cha tôi không muốn rời Việt Nam. Mẹ tôi và mẹ kế tôi rất sợ hãi. Họ đều khuyên cha tôi đừng đi xử vì lo sẽ có việc không hay xảy ra. Nơi miền Tây có vẻ không được yên.
Nhưng cha tôi nói: “Tôi phải làm nhiệm vụ của tôi.” Ông cứ đi. Chuyến đi cuối cùng của ông vào tháng Tư, nhưng ông phải bay về Sàigòn lại vì tình hình chiến sự. Tôi thì vẫn đi học bình thường trong thời gian này với một tâm trạng không mấy lo sợ vì Sàigòn chưa hề bao giờ thất thủ. Năm 1968, họ đã từng vào nhưng bị chúng tôi đánh bật ra.
Tôi chỉ cảm thấy kỳ kỳ nhưng không biết sợ vì tôi thật sự không biết người Cộng sản là gì. Tôi hiểu chúng tôi đánh với họ, nhưng thật sự không biết họ là những người như thế nào. Vào thời kỳ này có rất nhiều dư luận như là: họ sẽ giết người, giết những người nào ăn mặc đẹp, người nào sơn móng tay. Hoặc nếu bắt được những người sơn móng tay, họ sẽ kéo tróc móng tay những người đó. Tôi nghe vậy thì có sợ, nhưng nghĩ lại, tôi có sơn móng tay đâu.
Ngoài ra, tôi vẫn còn cảm thấy an tâm phần nào. Lời đồn, tin đồn thì đủ thứ. Tuy nhiên, gần cuối tháng Ba, trong Nam thấy có nhiều người mới đến. Bà con bạn bè từ Nha Trang chạy vào. Tôi vẫn chưa cảm thấy sợ. Mọi việc xảy ra quá nhanh, nhưng cha mẹ tôi vẫn chưa có hành động gì, tôi cũng không biết làm sao. Tôi vẫn cứ nghe rất nhiều tin đồn.
Khi cha tôi trở về Sàigòn sau chuyến đi miền Tây cuối cùng, ông nói tin đồn bị rút móng tay là có thật, vài làng nhỏ có mấy cô giáo đã bị hình phạt như thế.
Tin đồn nào cũng kinh khủng. Có tin họ sẽ tra tấn những người làm việc cho chính phủ. Vào khoảng thời gian này, bạn bè cha tôi bắt đầu đi. Họ sắp đặt cho ông đi, nhưng cha tôi không thể bỏ đi, vì họ chỉ dành một chỗ cho riêng ông, chớ không có chỗ cho cả gia đình. Vì thế, cha tôi không chịu đi.
Lúc đó, chính phủ cũng có ra thông cáo nếu ai bỏ nước ra đi mà bị bắt lại, có thể bị xử bắn hoặc đưa ra toà án mặt trận. Cha tôi lại là một chánh án của Toà án quân sự mặt trận.
Tôi có một người chị bà con lấy chồng người Phi. Bấy giờ họ đang chuẩn bị rời Việt Nam và đang chờ tại Tân Sơn Nhứt. Tôi và em tôi ra đi với họ. Đây là vào khoảng tuần lễ thứ hai của tháng Tư. Chúng tôi chờ ba ngày, đợi máy bay đến. Tôi không hiểu vì sao nhưng tình hình Tân Sơn Nhứt rất điên cuồng. Chúng tôi ở đấy chờ vì toà đại sứ Phi đang chuẩn bị đem dân họ về. Chị họ tôi và chồng chị ấy có tên trên danh sách. Họ sẽ đem chúng tôi theo với tư cách thân quyến.
Tôi rất bình tĩnh. Đó là bản chất của tôi. Khi ở trong tình thế hiểm nghèo, tôi bình tĩnh, nhưng sau đó, tôi sẽ bị xúc cảm.
Chúng tôi chờ hoài đâm mệt. Cha mẹ chúng tôi lo sợ nên đón chúng tôi về. Vừa khi cha mẹ chúng tôi đưa chúng tôi về, thì đêm đó, máy bay đến, gia đình chị họ tôi ra đi. Họ không liên lạc được với chúng tôi do đó họ ra đi, còn chúng tôi kẹt lại.
Kế tiếp, gia đình hàng xóm tôi, có cô con gái lấy chồng kỹ sư Mỹ. Chị ấy rời Việt Nam năm 1972. Lúc đó vợ chồng chị ấy sống tại Iran, ở thủ đô Teheran. Chị yêu cầu chồng sang Việt Nam mang gia đình chị ra. Nhân số gia đình chị cũng cỡ nhà tôi, khá đông người. Cha tôi bàn vói nhà hàng xóm, hỏi xem họ có thể đem hai đứa trong đám con ông đi không.
Nghĩ cũng ngộ. Cha mẹ tôi quyết định chỉ cho tôi và một em trai cùng cha khác mẹ đi thôi. Tôi còn có chị cả và một đàn em trai cùng cha khác mẹ nữa. Tôi không hiểu tại sao chỉ có tôi và em tôi được sắp đặt ra đi.
Người chồng của chị hàng xóm về đến Việt Nam. Lúc đó, anh gặp sự ngăn trở của chính phủ Mỹ. Họ nói đồng ý mang chúng tôi đi nhưng phải làm thủ tục giấy tờ. Anh ấy nói với cha mẹ tôi là, nếu anh mang chúng tôi đi, thì sau này phải lo nhiều phí tổn cho chúng tôi, phải tốn kém trong việc trông coi chúng tôi. Cha tôi nói “Không sao, tôi sẽ lo việc tiền nong cho anh.” Anh người Mỹ này tên là David. Khi đó anh khoảng ba mươi mấy tuổi. Tôi nhớ anh ấy rất tốt.
Vào khoảng thời gian này, mọi sự như một trò chơi đối với tôi. Tôi thật không biết sợ. Tôi được nuôi dưỡng trong sự bao bọc từ lâu cho nên không nghĩ việc đời có thể thay đổi. Tôi không nghĩ đến việc phải đi khỏi Việt Nam vĩnh viễn hay dù chỉ tạm thời. Lúc đó, gia đình tôi còn nhiều tiền trong nhà băng, đang cố chuyển tiền qua ngoại tệ. Tuy nhiên, nhà băng chỉ có thể cung cấp 2,000 đô thôi, sau đó, ngưng đổi ngoại tệ. Hết tiền đô rồi. Vì thế, mẹ tôi phải mua tiền đô ngoài chợ đen. Anh David lo hoàn tất tất cả các giấy tờ cần thiết, ngày ra đi được ấn định vào 27.4.75. Tôi vẫn còn nhớ mãi. Anh ấy nói tình hình rất khó khăn, và có lệnh người Mỹ không được đi ra đường nữa. Anh ấy dặn chúng tôi lúc nào cũng phải sẵn sàng để đến Tân Sơn Nhứt. David thu xếp giấy tờ, nói “Tôi sẽ trở lại đón các em, khi tôi đến, chúng ta sẽ phải đi liền”. Anh ấy cũng dặn gia đình vợ như thế. Nhưng rồi anh vào Tân Sơn Nhứt và không được phép trở ra nữa. Anh ấy gọi điện thoại, khóc. David nói: “Nếu tôi ra là sẽ bị bắn ngay!” Tôi nhớ sân bay đóng cửa vào ngày 24- 4-75 gì đó. Anh ấy nói: “Tôi bị kẹt rồi và không thể trở ra. Vậy bây giờ tất cả hãy chuẩn bị chờ, có thể tôi sẽ cho xe ra đón đi. Hãy chuẩn bị.”
Chúng tôi chờ đến ngày 28. Anh vẫn không ra được. Cũng không có xe đến. Rồi anh ấy phải rời Việt Nam trở lại Iran.
Tôi nghĩ cha tôi bắt đầu lo sợ. Tôi cũng cảm thấy vô cùng buồn bã vào những ngày cuối đó. Chúng tôi không biết miền Nam sẽ mất vào ngày 30 tháng Tư. Chỉ thấy mọi người chạy như điên cuồng vào khoảng 28 tháng Tư. Nhiều người đổ vào thành phố. Mọi sự tán loạn. Thiên hạ chạy tới lui ngoài đường phố. Tôi không hiểu họ đi đâu, nhưng chỗ nào cũng thấy họ đi với hành lý. Bây giờ đã có thể nghe tiếng bom rơi gần Sàigòn. Chưa bao giờ trong đời tôi nghe chiến tranh đến gần như thế.
Ngày 29, nhìn lên trời tôi thấy có hai máy bay trong tư thế đánh nhau. Lúc đó vào buổi trưa. Chúng tôi không biết đó là máy bay gì. Tôi không biết gì về máy bay cả, nhưng tôi biết có hai chiếc máy bay đang bắn phá.
Sau khi ông Minh tuyên thệ nhậm chức, cha tôi nói: “Thế là hết. Chúng ta thua rồi. Mình phải đi. Tất cả đều đã mất.”
Gia đình chúng tôi chuẩn bị đồ đạc sẵn sàng vào ngày 29. Điện thoại reo vang từ sáng. Hễ cúp điện thoại xuống là lại reo. Những cú điện thoại do người quen gọi, những người khuyên gia đình chúng tôi đi, những người gọi lại hỏi ý kiến cha tôi. Có nhiều người quyết định việc ra đi hay không căn cứ theo gia đình chúng tôi. Nếu cha tôi chưa bỏ đi thì có lẽ tình thế không đến nỗi nghiêm trọng. Họ chờ và cũng chờ đợi ý kiến cha tôi. Cứ thế, điện thoại không ngừng reo.
Tôi bắt đầu cảm thấy buồn. Tôi có cảm tưởng một việc gì rất xấu đang sắp xảy đến. Tôi biết bà hàng xóm, chồng đang ở Canada. Ông ấy đi vào tháng trước. Bộ dạng bà vô cùng rối loạn, cứ chạy tới lui với hai đứa con. Sau cùng, bà thu xếp đồ đạc và bỏ đi. Tôi nghĩ là bà ấy biết có một chuyến tàu sắp đi.
Có lần tôi thấy một chiếc máy bay trực thăng bay trên trời, nhưng không biết chiếc trực thăng này thuộc về ai, bay đi đâu. Chiếc trực thăng này muốn đáp xuống gần toà cao ốc của một nhóm tôn giáo. Tôi thấy viên phi công muốn đáp xuống mà không được vì có nhiều cột ăng – ten và dây điện. Cuối cùng, viên phi công phải bay đi. Lúc trước, ông ta muốn đáp xuống và khi gần xuống thì người ta đã tranh nhau muốn leo lên. Cha tôi không cho chúng tôi ra đường vì có quân lính bắn nhau ngoài đường. Nếu lái xe đi ngang là có thể bị bắn. Vì thế chúng tôi bị nhốt cứng trong nhà.
Cuối ngày 29, chúng tôi biết chắc chắn thành phố coi như mất rồi. Tôi nhớ cha tôi nói rằng hai kẻ thù lớn nhất của chúng tôi là Thiệu và Cộng Sản. Cha tôi nói: “Đừng bao giờ quên những gì họ đã làm! Thiệu và Cộng Sản.”
Điện bị cúp vào ngày 29, chúng tôi phải dùng đèn cầy. Cha tôi lấy giấy tờ tài liệu đem đốt, đổ tro xuống cầu tiêu. Ông cũng lấy hết súng đạn ra, bỏ vào thùng rác công cộng. Cuối cùng, ban đêm, khoảng 11 giờ khuya, gia đình tôi nhận cú điện thoại của người chỉ huy trưởng một chiến thuyền. Ông đã gọi vài lần, cuối cùng ông ấy nói với cha tôi là phải quyết định mau nếu muốn đi. “Tôi sẽ cho mấy chiếc xe Jeep đến đón gia đình anh và cả gia đình vợ trước của anh nữa. Anh có thể mang mọi thứ anh cần!” Cha tôi suy nghĩ nhiều. Cuối cùng khoảng nửa đêm, bạn ba tôi gọi một lần nữa, nói: “Tôi phải đi, không thể chờ được nữa.” Cha tôi nói: “Thôi anh đi vậy”. Cha tôi quyết định ở lại.
Ngày hôm sau, Cộng sản tiến vào Sàigòn bằng xe tăng. Họ lái đến Dinh Tổng thống. Mẹ tôi khuyên ba tôi dời nhà, đến một căn an toàn hơn để tránh mặt Cộng sản. Vào buổi sáng, cha tôi chất chúng tôi lên xe hơi, chở chúng tôi đến đó, bởi ông sợ gia đình chúng tôi sẽ bị giết hại, nếu vẫn ở tại nhà. Thiên hạ xem chừng rối loạn, không được bình thường. Buổi sáng đó, khi ba tôi lái xe chở chúng tôi đi, tôi chứng kiến nhiều cảnh. Tôi thấy xe tăng tiến vào dinh tổng thống, cán dẹp hàng rào sắt của dinh. Tôi không nhìn thấy nhiều và rõ hơn vì ba tôi lái lẹ quá.
Tiếp đến, tôi thấy lính cầm cờ với ngôi sao vàng. Tôi nói: “Thôi rồi ! Thế là hết!” Lúc đó nỗi sợ hãi lan tràn. Chúng tôi sợ bị giết. Tôi thật lo sợ cho cha tôi hơn là lo cho bản thân chúng tôi. Trong thân quyến, ai cũng sợ cho ba tôi.
Đường xá vắng hơn những ngày trước. Vào buổi sáng đó, có lẽ xe tăng nhiều hơn người.
Nơi chúng tôi ở lúc trước có 36 căn nhà. Có một gia đình tỏ vẻ thật là vui. Liền sáng đó, họ đeo băng tay đỏ, chứng tỏ họ là Cộng sản. Họ ra mặt, ngày 29 thì chưa. Nhưng ngày 30, họ lộ diện. Có lẽ vì vậy cha tôi mang chúng tôi đi thật lẹ sáng hôm đó. Mẹ tôi khuyên cha tôi mang chúng tôi đến toà nhà lầu này, gần nơi mẹ tôi ở, vì những người ở đó là bạn mẹ tôi, họ sẽ giúp đỡ chúng tôi.
Đường xá vắng tanh, giống như sau một trận giặc. Đồ đạc ngổn ngang, đầy rẫy y phục quân nhân, có nhiều món đang cháy. Rác rưởi um sùm. Nhiều chiếc xe bị vất bỏ ở ngoài đường. Đường phố chỉ thưa thớt vài chiếc xe chạy. Không có các trạm kiểm soát, không có những quân lính cướp bóc. Họ mắc bận xục xạo các dinh thự.
Quân đội Cộng sản chạy vượt ngang xe chúng tôi, nhưng họ không tỏ vẻ quan tâm. Chúng tôi nhìn họ, họ nhìn chúng tôi, ba tôi lái xe vượt qua thật lẹ. Tôi có ý nghĩ là quân đội Cộng Hoà ăn mặc chỉnh tề, quân phục đẹp và vừa vặn hơn. Mấy người lính cộng sản mặc quân phục quá rộng, có vẻ như lạc lõng, cũng như chúng tôi. Ông có biết họ giống cái gì không? Giống như là du khách đi lạc vậy?
Không ngờ nơi chúng tôi đến lại là nơi ở của người Cộng sản. Thật ra là những người nằm vùng. Chúng tôi rất quí mến ba người bạn mẹ tôi mà tôi gọi là dì và người đàn ông chúng tôi gọi là chú, chúng tôi biết họ từ khi còn trẻ thơ. Nhưng chúng tôi không bao giờ ngờ họ là cộng sản. Chúng tôi hỏi xem có thể tạm ở đó không, họ nói không sao. Mẹ tôi biết rõ mọi chuyện nhưng cha tôi thì không. Cha tôi lo lắng, mẹ tôi cũng lo cho cha tôi. Nhưng họ nói không ai có thể xâm phạm căn nhà này. Người ta có thể vào các nhà bỏ hoang, nhưng trong căn nhà này, cha tôi và chúng tôi sẽ được yên ổn, không ai hãm hại gia đình chúng tôi cả. Cha tôi nói “Tốt lắm”, ông đưa chúng tôi vào. Ông chạm trán những người mà ông chưa hề gặp. Những người này có bộ dạng rất khác lạ. Cha tôi liền bước ngay trở ra khỏi căn nhà. Ông dặn: “mấy con ở đây, các con sẽ được an toàn, nhưng ba phải đi liền”.” Chúng tôi không hiểu tại sao cha tôi phải đi vội vã như thế. Tôi nói: “sao ba kỳ vậy? Sao không ở đây? Nơi này rất an toàn mà” Cha tôi nói: “Im đi cứ ở đây. Cứ làm như bình thường, đừng nói nhiều, như vậy các con sẽ bình an”. Cha tôi không nói cho chúng tôi biết ông sẽ đi đâu.
Tôi có một cái giỏ nhỏ, trong đó chứa những vật dụng cần thiết như thuốc, bàn chải đánh răng, kem đánh răng, tôi nghĩ cũng có tiền nữa. Cha tôi gởi bảy chị em tôi ở đó với những người lạ lùng này. Họ có điệu bộ kỳ kỳ. Họ có vẻ thư thái, vui vẻ. Chúng tôi sợ muốn chết, còn họ cứ nhìn chúng tôi mỉm cười.
Họ hỏi chuyện chúng tôi, nhưng cha tôi đã dặn là không được nói nhiều. Họ hỏi: “ “Bây giờ đất nước được giải phóng rồi, các cháu cảm thấy ra sao? Có thích không? Các cháu nghe chính phủ ngụy nói gì về Việt cộng?” Tôi còn khờ dại nên nói: “Mấy bác biết không, nếu cộng sản bắt được người nào sơn móng tay, họ sẽ rút móng tay và hành hạ những người đó. Thêm nữa, ai giàu có và làm việc cho chính phủ trước, họ sẽ bắt và hành hạ những người này. Tụi con nghe vậy đó!” Họ cười xoà khi nghe thế.
Họ không nói gì khác, ngoài việc hỏi chúng tôi đã nghe những gì, cảm thấy thế nào. Tôi kể cho họ những gì tôi đã nghe. Họ nói: “Ở đây các cháu rất yên ổn, không việc gì xảy đến cho các cháu đâu. Vậy bây giờ cháu nghĩ sao?”. Khi họ nói thế, tôi bắt đầu thấy không ổn vì có lẽ tôi đã nói quá nhiều. Do đó tôi nói: “con nghĩ đó là tin đồn chính phủ nói láo thôi!” Tôi biết có việc gì đây. Họ không tuyên truyền cho Cộng sản, họ chỉ nói là: “Bây giờ cháu đã thấy sự thật. Chúng tôi không hại người.” Từ đó, tôi ngậm im luôn.
Chúng tôi ăn ngủ ở đó. Thiệt khó chịu. Sau trận hỏi đáp, tôi bắt đầu hiểu. Tôi hiểu họ không phải là người ở phía chúng tôi. Tôi thật không sợ hãi, chỉ lo lắng. Một cảm giác kỳ cục. Tôi chẳng có thể làm gì được, chỉ phải chờ. Tôi không hiểu chuyện gì sẽ xảy đến cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ phải ở đây bao lâu, khi nào cha mẹ chúng tôi mới đến đón chúng tôi về. Chúng tôi không đi ra ngoài đường, chỉ nhìn qua cửa sổ.
Sau ngày 30, mọi nơi đều im lặng vắng vẻ. Mọi người đều ở trong nhà. Không có ai mua bán gì.
Ba bốn ngày sau, mẹ tôi đến đón chúng tôi về. Chúng tôi về nhà mẹ ruột tôi, ở gần đó. Cha tôi đã vào Chợ Lớn vì có bà con trong ấy. Thật ra, lúc đầu chúng tôi không biết cha tôi ở đâu, không ai chịu nói cả. Gia đình tôi sợ người Cộng sản sẽ hỏi chúng tôi. Cha tôi ở trong Chợ Lớn đến tháng Năm, khi tình hình có vẻ tạm yên và chính phủ mới nói là người chế độ cũ phải đi học tập cải tạo. Căn cứ trên chức vụ, ông sẽ phải đi từ ba tuần đến ba tháng. Những người chức nhỏ hơn thì đi một cho đến ba tuần.
Chúng tôi không biết gì nhiều về cha tôi nữa. Tôi nhớ mẹ tôi đã mang tôi vô Chợ Lớn gặp cha tôi. Tôi nghe cha tôi than phiền với mẹ tôi về việc đem chúng tôi đến căn nhà bạn bà: “Bộ bà điên hay sao? Bà kêu tôi đi thẳng vô hang cọp.” Mẹ tôi nói: “Tôi đâu có biết”. Cha tôi nói: “Sao bà biểu tôi đến đó? Bộ bà không biết là đó là hầm rắn hay sao? Vừa bước chân vô cửa, tôi biết ngay họ là ai, bởi thế tôi đã phải để mấy nhỏ đó và bỏ đi ngay đó.” Tôi không hiểu sao cha tôi biết.
Cha tôi tiếp tục ở trong Chợ Lớn cho đến khi ông bị gọi. Tôi nghĩ là ông đã đắn đo nhiều về việc nên đi trình diện hay không, nhưng sau cùng ông nghĩ là đi phứt cho rồi vì không thể nào lẩn mặt được mãi. Vả chăng, chỉ đi ba tháng thôi. Do đó, ông đành đi.
Vào khoảng tháng Năm, chúng tôi trở lại nhà. Gia đình Việt cộng ở khu nhà tôi đã bắt đầu tổ chức, trở thành lãnh đạo 36 căn nhà trong khu đó. Ai nấy phải theo kỷ luật mới. Thật ra cũng không có gì rõ rệt. Họ chỉ kiểm soát chúng tôi vậy thôi. Chúng tôi không dám mua bán gì. Chúng tôi không dám đi chợ. Tôi không nhớ đã ăn gì để sống. Có lẽ chỉ ăn đồ khô dự trữ thôi.
Cha tôi đi trình diện tại một địa điểm mà nhiều người phải đến để trình diện. Chỗ đó gần sở thú. Người ta xếp hàng thiệt dài, người nào cũng có hành trang. Họ không biết họ phải cần món gì, do đó họ mang theo áo quần và vài thứ cần dùng. Có nhiều hàng dài và người Cộng sản ngồi ở bàn để nhận người. Chúng tôi, gồm có mẹ kế tôi, chị lớn tôi, và tôi đứng đó chờ với cha tôi. Đến phiên cha tôi tiến lại bàn. Tôi nhớ là ông được biểu phải lột đồng hồ và vài món đồ khác. Và ông đã trình diện xong. Chúng tôi không biết họ sẽ đem những người đến trình diện đi đâu, nhưng cha tôi phải đi.
Từ đó, chúng tôi không còn biết họ đưa cha tôi đi đâu.
Chương 18: Những Người Chiến Thắng
ĐẠI TÁ BÙI TÍN
“Tôi trở thành một người của chiến cuộc dù tôi không hề bao giờ muốn thế”
Khi Tổng thống Diệm bị ám sát vào tháng Mười Một năm 1963, tôi không nghĩ chính quyền miền Nam sẽ sụp đổ. Ngay cả sau cái chết của Kennedy, tôi cũng không nghĩ như thế. Tôi biết là cần phải chiến đấu trước đã.
Vào thời điểm ấy, chúng tôi tăng cường nỗ lực tại miền Nam. Chúng tôi quyết định phải đưa dần các đơn vị cỡ Sư đoàn vào đánh chế độ bù nhìn miền Nam. Đa số bộ đội các đơn vị này là người miền Nam tập kết ra Bắc, nhưng sau đó, chúng tôi bắt đầu tuyển mộ cả người miền Bắc.
Hai tuần sau cái chết của Diệm, tôi đã ở trong phái đoàn Bộ Chỉ Huy đến Cao nguyên tham quan tình hình tại chỗ nhằm mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh, hoàn bị việc tổ chức. Tôi cũng đã tổ chức các Sư đoàn và Trung đoàn tại Cao nguyên. Về con đường mòn, lúc đầu chúng tôi chỉ có thể đi bộ, nhưng cho đến 1963, bề rộng con đường đã đủ lớn, tổ chức đã đủ tốt để chuyên chở tiếp vận bằng xe đạp thồ. Lúc ấy hãy còn lác đác máy bay Việt, Mỹ bỏ bom trên đường mòn này.
Khi Mỹ viện trợ thiết vận xa cho chính quyền miền Nam, chúng tôi không chắc có thể địch lại, vì trước đây chúng tôi chưa hề đối đầu loại chiến cụ này. Trước trận Ấp Bắc, chúng tôi vẫn chưa có đúng vũ khí với khả năng tiêu diệt thiết vận xa. Vì thế chúng tôi báo cáo Bộ Tư Lệnh để liên hệ với Liên Xô và Trung Quốc xin cung cấp cho chúng tôi những vũ khí có thể đối địch được. Họ bắt đầu tiếp vận cho chúng tôi hoả tiễn tiêu diệt thiết vận xa.
Khi Tướng Westmoreland trở thành Tư lệnh Hoa Kỳ, chúng tôi lại phải tự kiểm điểm xem chúng tôi có thể thành công trong việc đánh Mỹ hay không. Nhưng sau trận đánh với Mỹ tại Thung Lũng Ia Drang năm 1965, chúng tôi kết luận có thể chiến đấu trực diện với người Mỹ. Bấy giờ chúng tôi không dám nói có thể thắng Mỹ, nhưng chúng tôi biết chúng tôi có thể đương đầu được, thắng hay không lại là chuyện khác.
Càng ngày chúng tôi càng đạt được nhiều kinh nghiệm hơn trong những trận đánh mà Mỹ sử dụng thiết vận xa và trực thăng. Khi họ đưa ra cái gì mới, chúng tôi cũng phải có cái mới. Chúng tôi đã học được sức mạnh Mỹ, nhưng cũng thấy được những chỗ yếu của chúng tôi. Vì thế sau trận la Drang là nơi Mỹ vận chuyển lính đến bằng trực thăng, chúng tôi rút lui để suy nghĩ lại các phương án chiến đấu chống Mỹ, tìm cho ra những chiến thuật mới. Lúc ấy chúng tôi đang có vấn đề.
Tiếp đến lại tăng thêm vấn đề oanh tạc cơ Mỹ, đặc biệt B-52. Chúng tôi cũng phải suy tính cách nào đối đầu được với họ suốt dọc đường mòn Hồ Chí Minh
Tôi hết sức lo lắng, nhưng không mất niềm tin. Tất cả bộ đội chúng tôi trong suốt thời gian ấy đều duy trì tinh thần rất cao, mặc dầu không biết sẽ thắng cách nào, nhưng chưa hề bao giờ chúng tôi nghĩ có thể thua. Hễ chính phủ Mỹ dở dói đòn nào, chúng tôi đều có thể gỡ đòn ấy. Vào thời gian đầu, quả thật B-52 hết sức kinh hoàng, làm tôi cực kỳ lo lắng. Nhưng rồi quan sát kỹ các máy bay này, chúng tôi tìm được đội hình máy bay, phương hướng đánh bom trên trận địa, nhờ đó chúng tôi có thể vào hầm trú ẩn trong các khu vực mà chúng tôi nghĩ rằng bom không đụng tới.
– Làm thế nào để duy trì tinh thần bộ đội chúng tôi? Chúng tôi đã chiến đấu cho nền độc lập và cho sự thống nhất đất nước. Và chúng tôi biết sẽ sống còn trong cuộc chiến. Trong buổi đầu quả có lo ngại với những trận dội bom, vì nhiều người bị giết, đôi lúc chúng tôi đã có phần giao động không rõ có thoát khỏi các cuộc đánh phá của Mỹ không. Nhưng khi khám phá ra mặc dù Mỹ có vũ khí và kỹ thuật hiện đại, nhưng chúng tôi vẫn có thể tránh được, khi biết như thế, chúng tôi thấy có thể thắng.
Hoa Kỳ và Nam Việt Nam có phải là những đối thủ đáng kể trên chiến trường không? Tôi đã suy nghĩ việc này trong một thời gian khá lâu. Kết luận của tôi là họ có rất nhiều nhược điểm. Lính Mỹ là lính nhà giàu, đến từ một đất nước giàu, họ có đủ vũ khí đạn dược cần đến, nhưng họ cũng có nhược điểm, do đó đánh họ không khó. Chỉ nhờ nguồn tiếp vận đầy đủ thôi không đủ giúp họ vượt qua các nhược điểm ấy.
Nhược điểm lớn nhất của lính Mỹ chính là thái độ của họ. Họ thực sự không hiểu chiến đấu cho cái gì. Họ chiến đấu cho một đất nước không phải của họ. Họ nhớ gia đình. Mặc dầu phải làm tròn nhiệm vụ với quốc gia họ nhưng họ không quá quan tâm với cuộc chiến vì vậy tinh thần họ yếu. Họ lệ thuộc quá nhiều vào không lực và pháo binh. Khi bắt buộc phải đánh giáp lá cà mà không có không quân và pháo binh yểm trợ, nếu chỉ hai bên mặt đối mặt thì thường họ đâm ra hoang mang hoảng hốt.
Bộ đội miền Bắc chúng tôi chiến đấu có mục tiêu. Chúng tôi thực sự muốn giải phóng đất nước. Còn lính Mỹ đánh trận vì đó là nghề, đa số chỉ muốn hồi hương. Họ không dốc lòng vào việc chiến đấu như chúng tôi. Đây là một khác biệt chính yếu giữa đôi bên.
Tiếp theo việc ký hiệp định Pa-ri, tôi được đưa vào Nam tham dự ủy Ban Liên Hợp Quân Sự bốn bên để thanh toán các điều khoản trong hiệp định. Tôi đã đến trại Davis với tư cách thành viên phái đoàn miền Bắc mà tôi là phát ngôn viên. Tôi đã ở đây 60 ngày, và đây là lần đầu tiên tôi gặp gỡ người Mỹ. Tôi gặp Trung tướng Gilbert H. Woodward và bà vợ. Tướng Woodward là Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ trong ủy Ban Liên Hợp Quân sự. Chúng tôi đã hội họp, gặp gỡ tại Saigon, Mỹ Tho và Đà Nẵng khi làm việc với ủy ban.
Ngày 29 tháng Ba năm 1973 tôi hướng dẫn một nhóm đến thanh sát việc Mỹ rút quân. Bấy giờ tôi mặc quân phục. Tôi nhớ tôi đã chứng kiến những người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Tôi bắt tay người lính Mỹ cuối cùng ra đi mà tôi còn nhớ tên là Trung sĩ Bienco. Tôi đã bắt tay anh, nói lời chào từ biệt. Tôi tặng anh một khung hình nhỏ với tấm ảnh hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, cái hồ của “lưỡi gươm trở về.” Tôi chúc anh Bienco được hạnh phúc khi về đoàn tụ với đất nước anh, tôi chúc anh bình an mạnh khỏe, và hy vọng anh sẽ không bao giờ quay lại đất nước Việt Nam nữa. Sau đó tôi trở về Hà Nội đúng ngày cuối tháng ba.(*)
Năm 1975, tôi trở lại miền Nam với tướng Văn Tiến Dũng. Lần này tôi là một nhà báo. Tôi ở trong đơn vị Bộ chỉ huy, đến Saigon với toán quân Bắc Việt đầu tiên tiến vào thành phố.
Vì không có các sĩ quan cao cấp đi với chúng tôi vào Saigon, nên tôi đã phải lãnh nhiệm vụ tiếp nhận cuộc đầu hàng vô điều kiện của chính quyền miền Nam. Tôi ở trong toán gồm ba chiến xa đầu tiên tiến vào thành phố.
Nhờ có mặt ở Saigon năm 1973 và đã đi xem đường phố, nên trong các chiến xa này, tôi là người sĩ quan duy nhất biết đường đi trong thành phố. Cũng năm 1973 nhờ đã chụp hình dinh Tổng Thống mà tôi biết phải nhắm hướng đến chỗ nào. Hồi ấy trên đường đi Tân Sơn Nhất để gặp phái đoàn Hung Ga Ri, tôi đã chụp ảnh dinh Tổng Thống và vẫn giữ bên mình.
Tôi hướng dẫn các chiến xa qua các đường phố, tiến đến dinh Tổng Thống. Trở lại Saigon, tiến vào khu vực của dinh (Tổng Thống) thực là một xúc động lớn lao. Trước đấy tôi luôn lo ngại sẽ có những trận chiến xảy ra trong thành phố. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sẽ phải đánh chừng một tuần trong thành phố.
Rồi khi tiến vào tôi nghe có tiếng súng, tôi đoán có một trận đánh lớn đang xảy ra, nhưng chỉ là binh sĩ đang bắn chỉ thiên, báo hiệu cuộc chiến tranh đã chấm dứt thôi.
Chúng tôi lái chiến xa tiến đến dinh Tổng Thống để tiếp nhận cuộc đầu hàng.
Thực tình tôi không chuẩn bị rằng tôi sẽ là người tiếp nhận cuộc đầu hàng sau chót của chính quyền miền Nam. Chỉ tình cờ tôi đã có mặt để hướng dẫn những chiến xa đầu tiên tiến đến dinh Tổng Thống vì tôi biết nó ở đâu. Nhưng việc này không trù liệu trước, chỉ xảy ra tình cờ thôi.
Tôi được người chỉ huy đơn vị thiết giáp hướng dẫn đến gặp Tướng Dương Văn Minh. Tôi đến văn phòng Tướng Minh. Ông đứng đấy nói rằng ông đang đợi người tiếp nhận cuộc đầu hàng. Tôi nhìn quanh, thấy tất cả mọi người trong phòng đều có vẻ hết sức lo lắng. Tướng Minh mặc áo sơ mi cụt tay, vẻ mặt mệt mỏi. Trông ông như mất ngủ khá lâu, và đã mấy ngày không cạo râu. Ông nói ông muốn chuyển giao chính quyền Nam Việt Nam cho tôi “Tôi đã đợi ở đây từ sáng sớm để chuyển giao quyền hành cho ông”. Ông nói. Và tất nhiên, tôi đã nói một câu mà bây giờ trở thành nổi tiếng: “Ở đây không có vấn đề chuyển giao quyền hành. Quyền hành của quý ông đã tan tành. Quý ông không có gì trong tay để chuyển giao, vì thế quý ông không thể chuyển giao những gì quý ông không có”.
Tất cả những người trong chính quyền Nam Việt Nam đều có vẻ rất lo lắng, vì thế tôi nhìn quanh mà bảo họ “Hôm nay phải là một ngày vui của đất nước chúng ta vì chiến tranh đã chấm dứt. Nếu quý vị yêu nước, quý vị nên lấy đó làm vui mừng”. Khi nghe tôi nói thế, họ có vẻ thoải mái, không quá lo lắng nữa. Rồi để cho không khí căn phòng được nhẹ nhõm, vui vẻ, tôi hỏi thăm gia đình ông Vũ Văn Mẫu, nói vài câu khôi hài, vài chuyện vặt. Tôi hỏi thăm tướng Minh chuyện đánh quần vợt. Tôi biết tướng Minh trồng phong lan, nên tôi nói chuyện với ông về phong lan. Tôi làm họ ngạc nhiên vì tôi biết rõ mọi chuyện của họ. Tất cả mọi chuyện. Còn họ không biết chút nào về tôi cả. Hà – Hà!
Rồi tôi đến tòa Đại sứ Mỹ. Tôi chụp hình cái cây lớn ngoài tòa Đại sứ mà người ta đã đốn xuống. Rồi tôi lên mái nhà chụp ảnh với các đồng chí của tôi. Khắp nơi trên mái nhà vứt rất nhiều mũ sắt, súng ống, đồ vật ngổn ngang. Họ bỏ lại rất nhiều thứ trên mái nhà. Tôi cũng đến xem chỗ người Mỹ tiêu hủy tài liệu của họ. Rồi tôi lại ra phi trường Tân Sơn Nhất xem chỗ họ giữ các tài liệu. Lúc ấy hãy còn đang cháy.
Tôi rất vui mừng. Điều làm tôi thích nhất là người miền Nam đã đến trò chuyện, hỏi thăm chúng tôi. Những người trẻ cũng đến trò chuyện, tìm hiểu chúng tôi, để về báo cho gia đình biết. Nhân dân có vẻ hoan nghênh chúng tôi nhưng họ lo ngại. Phần tôi say sưa chuyện trò với mọi người, say sưa đi xem Saigon mà quên cả nhiệm vụ nhà báo, mãi đến chiều tối mới ngồi đặt bút viết bài về những biến cố trong ngày.
Chiều tối hôm ấy, tôi ngồi ở cái bàn giấy trên tầng hai dinh Tổng Thống viết một mạch bốn trang về chiến thắng của chúng tôi. Tôi không biết cách nào gửi bài viết ấy về Hà Nội, rồi mới sực nhớ là có thể sử dụng hệ thống điện báo tại văn phòng Tùy viên Quân sự Mỹ ở phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng khi đến đấy thì người Mỹ đã phá hủy hệ thống điện báo, tôi bèn đến trại Davis nhờ họ chuyển bài ra Hà Nội. Bài này chính là bản tin đầu tiên vê cuộc chiến từ Saigon gửi ra trong ngày hôm ấy.
Dòng đầu tiên là: “Tôi đang viết bài này trong lúc ngồi tại bàn giấy, trên tầng hai dinh Tổng Thống ở Saigon. Cuộc chiến tranh lâu dài đã chấm dứt”.
Ngày nay, người Mỹ cần nhớ rằng cuộc chiến ấy thật đáng tiếc. Đáng lẽ cuộc chiến ấy ngăn ngừa được. Đáng lẽ cuộc chiến ấy không nên xảy ra. Đây là trận chiến đáng tiếc nhất trong lịch sử Mỹ. Nhân dân Mỹ, đặc biệt chính phủ Mỹ luôn luôn tỏ ra chậm chạp trong việc nhận thức bản chất đích thực của các sự việc tại Á Châu. Bây giờ đây, tất nhiên Mỹ đã có quan hệ ngoại giao với Liên Xô và Trung Quốc, nhưng không có quan hệ ngoại giao với chúng tôi. Tại sao không? Chúng ta từng có lúc đã là bạn hữu vào cuối đệ nhị thế chiến. Người Mỹ từng huấn luyện chúng tôi chiến đấu lúc chúng tôi hãy còn là Việt Minh, người Mỹ cũng đã cung cấp cả vũ khí cho chúng tôi. Đáng lẽ chúng ta nên duy trì tình hữu nghị, đáng lẽ trận chiến này đừng bao giờ xảy ra. Thực bi thảm.
Ngày nay, người Việt không có gì để cay đắng về cuộc chiến này. Tại sao? Lý do là bởi chúng tôi không làm gì sai trái về phương diện đạo đức. Chúng tôi không bao giờ thả bom xuống đất Mỹ. Chúng tôi không bao giờ bắn giết tù binh và thường dân. Còn những gì lính Mỹ đã làm, chúng tôi cũng hiểu rằng họ được yêu cầu để làm cho đất nước họ mà thôi. Tôi từng nói chuyện với hơn 100 phi công Mỹ tại Hà Nội sau khi bị bắn hạ. Chúng tôi đã từng giam hơn 500 người trong tù tại đây, vào thời chiến. Đáng lẽ họ không bao giờ nên là kẻ thù của chúng tôi.
Ngày hôm nay, tôi đã rất chán nản mệt mỏi về chiến trận. Những ai đã phải tham dự chinh chiến mới biết cảm tạ hoà bình. Tất cả nhân dân thế giới đều mong mỏi hòa bình.
Tôi đã trở nên một người của chiến cuộc và chính tôi chưa hề bao giờ muốn như thế. Chúng tôi bị bắt buộc phải tham dự trận chiến. Nhân dân Việt Nam thù ghét chiến tranh. Chúng tôi yêu chuông hòa bình. Tôi yêu chuộng hòa bình.
(*) Ghi chú của tác giả Larry Engelmann: Tờ “Thống Nhất,” của Bắc Việt đã mô tả tình tiết này trong số báo ra ngày 23 tháng Ba năm 1974 như sau: “Người lính Mỹ cuối cùng bước lên máy bay tên là Bienco. Những người chiến thắng bắt tay anh, chúc anh những điều tốt lành và trao tặng cho anh một tấm bưu ảnh có hình chùa một cột ở Hà Nội. Anh lính Bienco ngạc nhiên, há hốc mồm ra nhìn họ một lúc, lẩm bẩm vài lời cám ơn, rồi bước vào máy bay. Những cánh cửa đóng lại. Chiếc máy bay Mac DC-9 40169 từ từ lăn bánh, cất cánh lên và biến mất trong bầu trời”.
TRUNG TƯỚNG TRẦN CÔNG MÂN ( Bắc Việt)
“Việc gì cũng cần phải có thời gian”
Tỉnh Phước Long được giải phóng vào đầu năm 1975. Sau khi giải phóng, cuộc tiến công Phước Long đã đặt cho chúng tôi hai hậu quả có thể xảy ra: Hoặc tỉnh này sẽ bị chiếm lại, hoặc sẽ mãi mãi nằm trong tay chúng tôi. Và chính đây là cuộc thử nghiệm đầu tiên của bộ đội chúng tôi nhằm đo lường tình thế miền Nam.
Để lấy lại Phước Long, chính quyền Nam Việt Nam cần phải có viện trợ quân sự cao độ của chính phủ Mỹ, nhưng chúng tôi nghĩ việc ấy không xảy ra, vì cuộc tiến công đã được thi hành sau vụ Watergate, lúc ấy đã có những dấu hiệu rõ rệt cho thấy công chúng Mỹ chán ngán chiến tranh rồi, quốc hội Mỹ đã bắt đầu lãnh đạm với Việt Nam rồi.
Muốn thắng một cuộc chiến, người ta cần hiểu đối phương, cần hiểu chính quyền họ. Có thể những người thiết lập kế hoạch ở Hà Nội không có đầy đủ chi tiết hơn về sự vận hành của người Mỹ, nhưng với mô thức tổng quát mà chúng tôi đã thấy, đã hiểu, thì chúng tôi biết khá rõ về thái độ người Mỹ, do đó có thể dự tính về họ được.
Về lính miền Nam thì tinh thần của họ gắn liền với sức mạnh Không quân Mỹ. Khi sức mạnh Không quân Mỹ giảm sút, tinh thần lính miền Nam cũng giảm. Về những người lính bình thường của miền Nam thì họ đã mệt mỏi chiến tranh, họ đã phải kéo dài một trận chiến không đi đến đâu. Nhưng đối với các sĩ quan quân đội miền Nam thì tinh thần họ cao hơn, vì họ biết nếu chiến tranh chấm dứt, sự nghiệp của họ cũng chấm dứt luôn.
Cuộc tiến công Phước Long là một cuộc trắc nghiệm đã được tính toán hết sức thận trọng. Chúng tôi muốn thử cả chính quyền Mỹ lẫn chính quyền Việt Nam. Nếu tấn công Quảng Trị, hoặc Đà Nẵng chẳng hạn thì xa quá, chúng tôi không trắc nghiệm được phản ứng họ. Nếu tấn công Saigon thì gần quá. Cho nên Phước Long là một địa điểm chúng tôi cảm thấy có một khoảng cách vừa phải đối với Saigon. Tất nhiên, đã không có phản ứng nào xảy ra. Đó chính là điều chúng tôi muốn tìm hiểu: Họ sẽ phản ứng, hay họ sẵn sàng buông xuôi? Câu trả lời là họ đã buông xuôi.
Trước khi cuộc tiến công xảy ra, tôi đang ở Ban Mê Thuột, nhưng khi tiến công, tôi ở Hà Nội. Tôi đã ở Hà Nội cho đến hết cuộc chiến này.
Về cuộc tấn công Ban Mê Thuột chúng tôi đã làm cho quân đội miền Nam ngạc nhiên nhưng mặt khác, chính họ cũng làm chúng tôi ngạc nhiên vì họ tan rã quá mau, chúng tôi không lường trước sự việc xảy ra như vậy. Chúng tôi cứ tưởng sau cuộc tấn công Ban Mê thuột, quân đội miền Nam sẽ tái lập phòng tuyến phản công. Chúng tôi dự liệu một trận mãnh liệt lâu dài hơn với quân đội miền Nam ở vùng chung quanh Ban Mê Thuột. Nhưng ngay cả trong trí tưởng tượng, chúng tôi cũng không hề nghĩ đến việc Thiệu đã phản ứng lại cuộc tấn công với cách như thế.
Trong thực tế, phản ứng của Thiệu đã tạo một câu hỏi lớn trong trí óc chúng tôi, làm chúng tôi tự hỏi phải chăng đây là một cái bẫy, một chiến thuật khôn khéo để nhử chúng tôi. Không thể nào chúng tôi tin nổi những chuyện ông ta đã làm. Chính vì hành vi đó của ông Thiệu, chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ phải đương đầu một chiến thuật phòng thủ cực kỳ sáng tạo mới mẻ, do đó trước hết các cấp chỉ huy của chúng tôi phải tiến lên hết sức cẩn thận, xem chừng đừng rơi vào bẫy.
Trong mấy ngày đầu, chúng tôi đinh ninh quân đội miền Nam đã hoạch định một vài ngạc nhiên lớn dành cho chúng tôi. Nhưng đến khi Thiệu rút quân ở Pleiku, đột nhiên chúng tôi nhận thức được là chẳng có cạm bẫy, chẳng kế hoạch gì, miền Nam đã bỏ cuộc, không chiến đấu nữa. Lúc ấy là lúc chúng tôi quyết định đuổi theo càng nhanh càng tốt.
Lúc đầu, khoảng những năm 1970, chính phủ Mỹ sử dụng máy bay B-52 làm chúng tôi lo lắng. Nhưng trong năm 1975 vấn đề ấy không còn nữa, vì lẽ vào năm 1972 người Mỹ đã không thành công trong việc đánh bom chúng tôi ở miền Nam, nên chúng tôi biết ít khi người Mỹ thử lại lần nữa.
Sau khi chúng tôi đã giải phóng xong miền Trung, thì có vài cuộc vận động ngoại giao giữa chính phủ Mỹ và Hà Nội nhằm mục đích làm chậm những cuộc tiến công của quân đội miền Bắc.
Việc này không thực hiện trực tiếp giữa đôi bên, mà qua một số nước khác, qua những người trung gian. Người Mỹ yêu cầu chúng tôi cho quân đội đi chậm lại để họ có đủ thì giờ hoàn tất cuộc rút quân khỏi Saigon. Họ cảnh cáo nếu chúng tôi không thực hiện như thế, họ sẽ can thiệp vào Việt Nam trở lại và sẽ tiến hành những cuộc tấn công đắt giá cho chúng tôi. Đấy là những gì chúng tôi đã được thông báo.
Tuy nhiên chúng tôi không còn coi điều ấy quan trọng nữa. Đấy chỉ là một sự đe doạ vô nghiã vào năm 1975, chúng tôi biết rõ như thế. Người Mỹ sẽ không còn quay trở lại.
Vì thế, gác bỏ những cảnh cáo nhằm làm chậm cuộc tiến quân, ngược lại, chúng tôi còn cố tiến nhanh hơn để khỏi đánh vào mùa mưa. Chúng tôi muốn đến Saigon trước khi mùa mưa khởi đầu. Nếu có một lúc nào cuộc tiến công có vẻ chậm lại, đấy chỉ vì nhu cầu chiến thuật dàn quân mà thôi.
Tôi không ở trong một số ít người có đặc quyền được biết điều này, tuy nhiên quan niệm của tôi là cuộc tiến công hoàn toàn do chúng tôi tiến hành, tuyệt đối không ai khác, tuyệt đối không có Liên Xô hay Trung Quốc liên hệ gì đến việc hoạch định cả.
Sau hiệp định Pa-ri, có việc rút giảm tiếp vận vũ khí từ các nước Xã Hội Chủ Nghiã. Nhưng Trung Quốc lại khác, vì trước cả hiệp định Pari, Trung quốc đã ký hiệp định Thượng Hải với Mỹ. Dựa trên sự công bố hiệp định này thì rõ ràng Trung Quốc không hỗ trợ chúng tôi và không thực sự muốn chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Trung Quốc không thực sự hài lòng vui vẻ gì về việc cuối cùng trận chiến đã được giải quyết, họ không hài lòng vui vẻ gì về cuộc Đại thắng mùa Xuân của chúng tôi.
Các viên chức cao cấp Nam Việt Nam bấy giờ đã cố gắng nhằm đạt đến một thoả thuận trong việc kết thúc cuộc chiến. Khi thấy rõ sẽ thua, đột nhiên họ muốn có chính phủ liên hiệp. Nhưng chúng tôi đã ra lệnh bộ đội cứ gia tăng áp lực để đạt chiến thắng càng nhanh càng tốt, chúng tôi không chú ý đến bất cứ một hình thức chính phủ liên hiệp nào ở Saigon. Đã quá muộn rồi.
Chúng tôi chỉ nhằm đánh quân đội miền Nam, chúng tôi không muốn làm bất cứ một hành động nào liên hệ đến người Mỹ. Vì thế chúng tôi không đụng chạm gì đến người Mỹ, tuyệt nhiên không bắn họ. Chúng tôi chỉ muốn người Mỹ ra khỏi đất nước chúng tôi càng sớm càng tốt, ngõ hầu chúng tôi có thể dốc toàn lực vào thanh toán quân đội miền Nam.
Chúng tôi nghĩ toà Đại sứ Mỹ là cánh tay của Ngũ Giác Đài, nên chúng tôi cho rằng biện pháp tốt nhất là để tất cả người Mỹ ra đi từ Tòa Đại sứ mà hồi hương. Chúng tôi không làm thoả thuận nào với miền Nam về bất cứ điều gì. Chúng tôi không hề thoả thuận gì về việc Không quân của họ ở lại Saigon. Tất nhiên là không. Thực tức cười!
Mặc dầu ở Hà Nội, nhưng tôi vẫn được thuyết trình hàng giờ về những gì xảy ra chung quanh Saigon. Các tin tức về việc Saigon sụp đổ đã được thông báo cho các cán bộ lãnh đạo cao cấp ở đây trước. Tôi không phải là người duy nhất được nghe tin. Tất cả mọi người đã nhận được tin ấy vào khoảng buổi trưa ngày ba mươi. Tất cả đã tràn ra ngoài đường, vô cùng sung sướng. Chiến tranh đã dứt.
Chúng tôi cử hành liên hoan mừng Giải phóng Saigon. Thực tình chúng tôi nghĩ rằng còn phải khó khăn chứ không ngờ dễ dàng như vậy. Chúng tôi hết sức ngạc nhiên.
Việt Nam đã lâm vào tình trạng chiến tranh quá lâu, mọi người đều mong mỏi chiến tranh kết thúc nhưng chẳng ai biết bao giờ mới chấm dứt. Vì thế chiến thắng cuối tháng Tư là nỗi ngạc nhiên lớn cho tất cả mọi người. Ai nấy đều vui mừng. Mọi người chạy cả ra đường hò reo, hô khẩu hiệu, ca hát nhảy múa.
Lúc ấy tôi bận quá, không thể về nhà được. Tôi là Tổng Biên tập tờ Nhân Dân nhật báo nên phải viết bài cho tờ báo ấy.
Liên hệ vào cuộc chiến này là một lầm lẫn của chính phủ Mỹ. Họ đã không nhận thức được sức mạnh thực của những người mong muốn thống nhất và giải phóng đất nước họ.
Chúng tôi không đặt trách nhiệm cho nhân dân Mỹ về những gì xảy ra ở Việt Nam. Những thanh niên chiến binh Mỹ được gửi đến chiến đấu ở đây đã bị chính phủ họ lừa dối để tham dự vào việc sai trái. Khi những người này đến Việt Nam bắn giết, thực sự họ không rõ họ đã làm những gì.
Giờ đây chiến tranh đã qua. Giữa dân tộc của đất nước quý ông và dân tộc đất nước chúng tôi không còn thù hận gì nữa. Không lý do gì để chúng ta không thể làm bạn với nhau được.
Chính phủ Mỹ đã gây ra cuộc chiến, nên chính phủ Mỹ cần có nghiã vụ đạo đức và nghiã vụ tài chánh đối với nhân dân Việt Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam không chạy theo xin xỏ những chuyện này. Tuy nhiên tốt hơn hết, ngay bây giờ chính phủ Mỹ nên xúc tiến việc thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam. Chúng tôi không yêu cầu gì hơn.
Trận chiến này chính là trận chiến dài nhất trong lịch sử Mỹ. Trận chiến này cũng là trận chiến dài nhất lịch sử Việt Nam, đã đem đến ba mươi năm đau đớn xót xa, khốn khổ cho người Việt. Tuy vậy, vào lúc kết thúc, nó cũng đem đến được một điều tốt đẹp, đấy là cuối cùng, đất nước đã thống nhất, độc lập. Cho nên cuộc chiến cũng đã đem lại nhiều kết quả và cảm xúc lẫn lộn. Nhân dân chúng tôi mất mát nhiều mạng sống, nhiều của cải nhưng nhân dân chúng tôi đã đạt độc lập, thống nhất, hòa bình, nên cuối cùng cuộc chiến cũng đáng giá cho những mất mát ấy.
Cũng xin đừng quên đây là một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn mà vượt qua được một quyền lực lớn lao, giàu có. Cho nên cuộc chiến cũng đáng giá cho những mất mát ấy.
Có lẽ chính đây là một đặc tính của dân tộc Việt Nam, ngày nay chúng tôi không hề mang niềm cay đắng nào đối với người Mỹ. Chúng tôi đã từng phải trải qua rất nhiều năm chinh chiến với nhiều thế lực ngoại quốc đã muốn chiếm đóng Việt Nam. Nhưng khi cuộc chiến đã xong, không lý do gì để ôm mãi những mối hằn học nữa.
Đối với những người Mỹ đã phản đối, đã không cộng tác với cuộc chiến chống Việt Nam, như Jane Fonda, Tom Hayden, Harrison Salisbury, họ đã làm những gì đúng đắn, người Mỹ cũng không nên hằn học với họ. Nếu người Mỹ vẫn duy trì chính sách mà người Mỹ đã thiết lập từ năm 1945 với ông Archimedes Patti của O.S.S. đối với dân tộc Việt Nam thì cuộc chiến này đã không bao giờ xảy ra. Nếu quần chúng Mỹ được thông báo rõ về các mục tiêu và ước vọng của dân tộc Việt Nam, thì chắc chắn họ đã phải hỗ trợ cho các nỗ lực của chúng tôi trong công cuộc thống nhất đất nước chúng tôi.
Dù sao đi nữa, nếu chính phủ Mỹ có thể thoải mái dễ dãi hơn trong chính sách cho tin tức được loan chuyển tự do, không có thành kiến chống chính phủ Việt Nam, thì con người có thể hiểu rõ hơn về nhau, về các vấn đề của đất nước này ngày hôm nay.
Tôi hiểu người Mỹ cảm thấy không thoải mái với người Nga tại đây. Tuy nhiên quả có một vấn đề trong việc trình bày tin tức từ Việt Nam. Quần chúng Mỹ đã được bảo rằng ngày nay Việt Nam là một thuộc địa của Nga, nhưng nếu có những tin tức thông thạo chính xác thì quý vị sẽ thấy chúng tôi độc lập. Chúng tôi không thuộc về ai ngoài chúng tôi.
Chính phủ Mỹ sợ người Nga hơn sợ người Tàu. Tôi không rõ tại sao. Cả hai đều là Cộng sản. Tôi không rõ tại sao vậy.
Sẽ cần phải có thời gian để chính phủ Mỹ thoát ra được cảm giác thù nghịch Việt Nam. Việc gì cũng cần phải có thời gian.
TƯỚNG TRẰN BẠCH ĐẰNG
“Chúng tôi tin vào sự tha thứ và rộng lượng bỏ qua”
Mùa xuân năm 1975 tôi ở trong ban lãnh đạo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đặt tại Tây Ninh. Tôi công tác với các chỉ huy cấp cao để hoạch định cuộc tiến công mùa Xuân đánh chính quyền Nam Việt Nam. Tất nhiên tôi đã có liên lạc chặt chẽ vói tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy quân đội Nhân Dân Việt Nam.
Đạo Cao Đài đặt trung tâm tại Tây Ninh. Mặc dù là một tôn giáo, nhưng đạo này vẫn có vũ trang, binh sĩ riêng. Tuy nhiên họ chia làm hai nhóm. Một nhóm hoạt động như lực lượng phụ của chính quyền miền Nam, nhóm kia lại hoạt động với người của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam.
Ở Ban Mê Thuột vùng cao nguyên năm 1975, người Thượng cũng vậy. Một số ở trong tổ chức Fulro, thiết lập bởi cơ quan Trung ương Tình báo Hoa Kỳ. Nhưng cũng có một nhóm người Thượng khác do Ibid Aleo lãnh đạo, nhóm này hoạt động với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ lâu. Và khi trận Ban Mê Thuột bắt đầu, nhiều người Thượng đã đi theo quân đội của tướng Văn Tiến Dũng, chống lại binh sĩ Nam Việt Nam mà tham gia lực lượng chúng tôi. Còn một nhóm khác cũng hoạt động cho chúng tôi tại khắp vùng cao nguyên.
Chúng tôi đã trà trộn vào được hàng ngũ cao cấp của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Tổ chức chúng tôi cũng bị xâm nhập, nhưng chỉ ở những cấp dưới thôi.
Tôi muốn làm sáng tỏ một điểm quan trọng: Tướng Dũng chỉ là môt bộ phận nhỏ của cả tổ chức lớn lao. Ông là tư lệnh tiền phương. Ông không liên hệ gì đến các chiến thuật và việc ấn định thời điểm cả. Ông có các nhiệm vụ khác tại tiền tuyến. Vị Tổng tư lệnh bấy giờ là Tướng Võ Nguyên Giáp.
Mối quan tâm chính là làm sao loại bỏ được sự can thiệp của chính quyền Mỹ tại Việt Nam. Chúng tôi đã tập trung vào Hiệp định Pa-ri để tìm cách loại bỏ sự hiện diện của Mỹ. Chừng nào lực lượng ấy rút, kế hoạch lấy miền Nam sẽ chỉ còn là một bước toan tính dễ dàng. Và một khi người Mỹ đi rồi, thực là dễ, vì cuối cùng chỉ còn người Việt đánh người Việt mà thôi. Khoảng đầu năm 1975 khi lấy Phước Long, chúng tôi biết có thể tiến nhanh hơn dự liệu, vì sẽ không còn Mỹ can thiệp. Và quân đội Nam Việt Nam cũng đã không thành tựu trong việc phản công Phước Long. Trước kia họ luôn luôn đánh lại, nhưng nay họ không còn hành động gì để tái chiếm tỉnh lỵ Phước Long, nên chúng tôi tin lần này chúng tôi có thể tiến, tiến nhanh.
Sau khi Phước Long thất thủ, Tổng thống Thiệu đã gửi một phái đoàn quốc hội sang Hoa Kỳ để xin thêm đạn dược và tiếp vận. Phái đoàn này được hướng dẫn bởi ông Đinh Văn Đệ, Chủ tịch ủy Ban Quốc Phòng tại Quốc Hội. Ông yêu cầu Tổng thống Ford 300 triệu Mỹ kim quân viện. Ông đã trình bày hình ảnh Nam Việt Nam với Ford. Sau khi tổng thống Ford nghe xong những gì ông Đệ trình bày thì Ford biết chẳng có thể nào ngăn cản sự thất trận của miền Nam được nữa. Khi phái đoàn quay về Việt Nam, ông Đệ đã soạn một bản báo cáo gửi cho Lực lượng Cách mạng ở Hà Nội, báo cho Hà Nội biết những gì xảy ra. Đấy, ông thấy, ông Đệ là một dân biểu Nam Việt Nam, nhưng ông ấy cũng hoạt động cho Mặt Trận Giải Phóng. Ông đã luôn luôn thông báo hết cho chúng tôi biết những gì xảy ra. Đó là mức độ chúng tôi đã trà trộn vào chính quyền miền Nam Việt nam. Một mức độ rất cao. Ông Đệ đã trình bày vấn đề bằng một cách làm chính phủ Hoa Kỳ phải từ chối, phải cho là viện trợ không ích lợi gì nữa. Khi nhận báo cáo của ông Đệ, chúng tôi biết chẳng thế nào chính phủ Hoa Kỳ sẽ quay lại can thiệp vào Việt Nam nữa.
Chúng tôi đã không lọt vào tòa Đại sứ Hoa Kỳ và cơ quan Trung ương Tình báo tại Saigon ở cấp độ thấp, như thư ký chẳng hạn. Chúng tôi thực sự cài người vào những chức vụ rất cao trong các tổ chức này. Những chức vụ tuyệt đối cao. Chúng tôi đã gửi một Đại tá của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam cũng là Đại tá miền Nam, vào làm việc trong hệ thống Quân báo Hoa Kỳ. Một trong những người nằm vùng khác của chúng tôi, ông Phạm Xuân Ẩn, là người đã viết rất nhiều cho tạp chí Time. Một cố vấn đặc biệt của ông Thiệu cũng là người của chúng tôi, đó là ông Huỳnh Văn Trọng. Với tư cách cố vấn của ông Thiệu, ông đã gặp gỡ nói chuyện với Kissinger và với Nixon, thế mà suốt thời gian ấy, ông đã hoạt động cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Hà! Hà!
Chúng tôi không sử dụng đến đàn bà để ngủ với viên chức Mỹ hay với các sĩ quan tình báo. Ông thấy tại sao chúng tôi không hoạt động cách đó, là bởi vì chúng tôi đã nhìn ra được việc gài người vào tòa Đại sứ Hoa Kỳ và cơ quan Trung Ương Tình báo không đến nỗi quan trọng, bởi vì thực ra họ chẳng biết được bao nhiêu.
Tôi đã nhiều lần nằm vùng ở Saigon, đã vào Saigon năm 1975 mà không sợ ai phản bội. Hệ thống chúng tôi rất chặt chẽ, ở đấy tôi đã tổ chức tất cả, nên tôi biết hệ thống an ninh chúng tôi rất tốt. Tôi là Bí thư Đảng bộ miền Nam đầu tiên đặt trụ sở tại Saigon, trong những năm 1960 tôi đã ở đây. Rồi đến năm 1975 tôi ở Tây Ninh cho đến khi tôi tiến vào lại Saigon với các lực lượng Cách mạng.
Tôi vào Saigon với đơn vị chỉ huy buổi sáng ngày 30 tháng Tư. Tôi không đến dinh Tổng Thống, đấy không phải là nhiệm vụ của tôi. Tôi đã được ủy nhiệm giám sát việc tiếp thu tất cả các phương tiện truyền thông và báo chí trong thành phố. Tôi lãnh nhiệm vụ coi sóc phương diện tâm lý và tư tưởng trong thành phố.
Người miền Nam có sợ tắm máu khi quân đội miền Bắc tiến đến không? Tôi không tin là như thế. Hãy nhớ tôi đã đến từ thành phố, trong năm 1968 tôi đã tổ chức và chỉ huy cuộc tổng công kích Saigon. Tôi biết rõ người trong Thành phố, tôi biết họ nghĩ gì. Họ đã tràn ra đường hoan nghênh quân đội tới, nên tôi biết họ không sợ.
Bây giờ xin kể chuyện về căn nhà của cựu Đại tá Mỹ William Porter. Đấy là nơi cả ông Mc George Bundy cùng nhiều giới chức Mỹ cao cấp khác đều đã đến thăm viếng. Nhưng quý ông có biết ai ở cạnh nhà ông Phó Đại sứ Mỹ hay không? Chính là tôi! Trong lúc Porter cùng nhiều giới chức Mỹ cao cấp khác đứng nói chuyện trong sân, tôi sống ngay sát cạnh nhà. Ngay đấy, tôi có thể nhìn thấy họ, nghe họ nói. Không việc gì mà tôi phải sợ tại Saigon. Tôi được quần chúng bảo vệ. Nhân dân biết tôi là ai, họ biết tôi làm gì.
Đáng lẽ, nếu Hoa Kỳ để lại một số nhân viên cấp dưới tại tòa Đại sứ lúc ra đi vào năm 1975 thì sẽ thuận lợi cho cả đôi bên. Đại sứ Graham Martin đáng lẽ không phải đi. Vũ Văn Mẫu đã đòi người Mỹ ra đi chỉ vì, theo ông ta nói, là do Mặt Trận Giải Phóng đòi hỏi điều ấy. Nhưng thực ra, các chỉ thị không nhắm tòa Đại sứ cùng các nhân viên ngoại giao, nó chỉ nhắm đến những người bên văn phòng Tùy viên quân sự là những người chúng tôi muốn họ ra khỏi nước thôi. Thực là một lỗi lầm lớn. Người Mỹ hiểu sai điều ấy mà rút tất cả nhân viên tòa Đại sứ ra đi.
Trước khi tấn công Phước Long cuối năm 1974, kế hoạch chúng tôi là chiếm miền Nam vào khoảng 1976. Thật thế. Chuyện này đã ở ngoài tầm tay chúng tôi. Sau khi đánh Phước Long, rồi đến Ban Mê Thuột, bấy giờ chúng tôi định lên Kontum, và Pleiku, hoặc là sang phiá Đông. Những gì xảy ra sau đó hoàn toàn chỉ là lỗi lầm của quân đội Nam Việt Nam. Họ cứ thế tháo chạy. Vì vậy lập tức chúng tôi phải sửa lại các kế hoạch khẩn cấp. Đột nhiên chúng tôi không còn phải đợi đến 1976 mói hoàn tất các kế hoạch. Chúng tôi biết rõ Thiếu tướng Ted Serong đã từng đề nghị một kế hoạch rút quân cho Tổng thống Thiệu, nhưng chúng tôi không hề nghĩ Thiệu sẽ sử dụng đến. Ngay khi kế hoạch này vừa được trình bày với Thiệu, cùng một lúc chúng tôi đã tức khắc biết ngay từng chi tiết kế hoạch, chúng tôi cũng đem cả kế hoạch ra phân tích. Theo kế hoạch ấy, quân ở cao nguyên sẽ được rút đi, miền Nam sẽ được bảo vệ. Nhưng Thiệu đã ra lệnh triệt thoái, một cuộc triệt thoái tán loạn, thế là hết chuyện. Sau khi lấy Ban Mê Thuột, chúng tôi có buổi họp các cán bộ cao cấp để cân nhắc việc Mỹ có thể can thiệp trở lại hay không. Buổi họp này có đồng chí Lê Duẩn tham dự. Kết luận là chẳng cách gì Mỹ sẽ tái can thiệp vào việc đánh cứu miền Nam nữa. Do đó chúng tôi nhất quyết đạt thắng lợi cuối cùng vào năm 1975, sớm hơn dự định một năm.
Trong cao điểm đêm 30 tháng Tư, tôi đã ngủ ở dấy. Tôi hết sức bận rộn trong nhiệm vụ mới để giám sát ngành truyền thông báo chí, làm việc 24 giờ một ngày nên hôm ấy chẳng có thể còn ý nghĩ riêng tư nào. Tại Saigon có đến 400 thông tín viên, vì thế nhu cầu quan hệ là phải duy trì việc cung cấp tin tức cho các thông tín viên ngoại quốc. Trong suốt tuần lễ đầu tháng Năm, tôi rất bận rộn trong công tác duy trì việc cung cấp tin.
Lúc ấy vẫn có nhiều thông tín viên Tây phương ở lại Không phải tất cả đều chạy. Tôi nhớ Alan Dawson đã ở đây, tôi đã gặp ông ta.
Về việc Đại sứ Graham Martin quan tâm đến câu hỏi tạo sao chúng tôi pháo kích đêm 29 tháng Tư, và cho rằng đấy là bởi vì Không quân Nam Việt Nam đã được phép đưa máy bay sang Thái Lan. Thật ra đây chỉ là câu chuyện dựng đứng. Không bao giờ có việc thoả thuận với người Nga về thời điểm Mỹ rút đi. Người ta đã dựng lên chuyện ấy. Vào lúc này người Nga không kiểm soát gì ở Việt Nam cả. Chúng tôi hoạch định thế nào, chuyện gì xảy ra, ngay như thế chúng tôi cũng không thông báo gì cho người Nga biết.
Lý do thực sự tại sao chúng tôi đã pháo phi đạo Tân Sơn Nhất không phải vì lẽ Không quân miền Nam đã rút máy bay đi. Chúng tôi pháo phi trường giản dị chỉ vì lúc ấy đơn vị pháo binh đã vào đến tầm bắn Tân Sơn Nhất mà thôi.
Chúng tôi không pháo người Mỹ trong lúc họ di tản, bởi đã có một phái đoàn Nam Việt Nam tới Tân Sơn Nhất thương thuyết với người của chúng tôi tại trại Davis. Tướng Minh nắm quyền hôm 28 đã cho người đến phi trường nói chuyện với chúng tôi. Chính vì thế chúng tôi đã ngưng các kế hoạch tấn công thành phố. Chúng tôi dự định bắn vào thành phố 150,000 quả đạn, nhưng vì lời thỉnh cầu của phái đoàn từ ông Minh mà sau đêm 28 tháng Tư, chúng tôi đã ngưng pháo kích thành phố. Đến Tân Sơn Nhất để thương thảo với Mặt Trận Giải Phóng miền Nam là Linh mục Chân Tín và ông Trung Ngọc Liêng.
Minh đã chỉ thị cho những người này đến nói chuyện với phiá chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi có một nhóm đại diện từ miền Bắc đặt tại Tân Sơn Nhất, suốt thời gian ấy vẫn có nhiều liên lạc diễn ra.
Về sự an toàn của đường bay từ Tòa Đại sứ ra biển thì nếu muốn bắn trực thăng, người ta phải đặt vị trí ở những chỗ có thể bắn được. Nhưng súng của chúng tôi đặt ở các khu đầm lầy, vì thế chúng tôi không thể bắn các máy bay ấy. Và cũng chẳng có lý do gì để làm thế, vì lẽ trên máy bay chỉ có dân sự chứ không có nhân viên quân đội. Chúng tôi chẳng có lý do gì để bắn họ cả.
Có hai điểm nữa. Thứ nhất, bởi vì phía chúng tôi là phía chiến thắng, chúng tôi vui mừng và không thù hận. Thứ hai, chúng tôi tin vào sự tha thứ và rộng lượng bỏ qua. Khi hai phía là địch thù, chúng ta phải đánh, nhưng một khi cuộc chiến đã qua, chẳng còn lý do gì để thù hận nữa. Đấy là một đặc tính văn hoá của người Việt Nam.
Năm 1954 chúng tôi đã từng nỗ lực giải phóng toàn thể đất nước, nhưng chỉ đạt được một nửa, ấy là lúc chúng tôi cay đắng hận thù. Nhưng bây giờ chúng tôi đã thắng, chúng tôi không thù ghét gì nữa cả.
Tất nhiên hiện nay chính phủ Mỹ đang mắc nợ người Việt một nghiã vụ đạo đức. Chẳng nghi ngờ gì. Nghiã vụ ấy có phải là một nghiã vụ tài chánh hay không, điều ấy tùy cách người ta tin tưởng. Đấy là một đề tài tranh luận, và có nhiều quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, tôi tin chính phủ Mỹ nên góp phần vào việc tái thiết Việt Nam, nhưng không cần phải là bồi thường chiến tranh. Trong mấy tháng qua tôi đã gặp một số ký giả và các nhà nghiên cứu. Một số là người Mỹ. Họ đều đã hỏi cùng một câu hỏi: Nay chiến tranh đã qua rồi, người Mỹ nên làm gì ở Việt Nam?
Quá khứ đã trôi đi. Chúng ta có thể miêu tả quá khứ bằng bất cứ nhãn hiệu nào chúng ta muốn: là lỗi lầm, là tai họa, là tính sai. Bất cứ cách nào. Riêng cá nhân tôi, tôi tin chiến tranh là điều đáng tiếc. Tôi muốn dừng ở đấy. Nhưng cái gì đã qua là qua đi. Chúng ta không làm cho những người bỏ mình sống lại được. Và vì thế, chúng ta cần phải cùng nhau tiếp tục cuộc sống, chúng ta đều cùng nhau chung sống trong cùng một hành tinh này, nếu cứ ôm ấp mãi hận thù, điều ấy chẳng ích lợi gì cho ai.
NGUYỄN SƠN
(Lính Miền Bắc)
“Khi cùng thì phải cố”
Năm mười chín tuổi tôi xâm lên cánh tay mấy chữ: “Sinh Bắc Tử Nam”. Lúc ấy tôi đang đi học. Xâm tay rồi, lại đổi ý, chẳng muốn chết ở miền Nam nữa. Đến lúc phải nhập ngũ, tôi tìm đủ cách để lẩn trốn. Tôi kéo dài cho đến khi chiến trận miền Nam đã xong. Đến 1977 mới phải nhập ngũ. Cuối cùng vào bộ đội là vì bắt buộc thôi.
Khi xâm tay thì tôi ở Hà Nội, năm 1972 , đang học lớp 10. Năm ấy chiến tranh căng thẳng hơn, nhà trường đã sơ tán ra ngoại ô Hà Nội. Tôi ở lại Hà Nội, không đi theo nhà trường. Tôi đã ở Hà Nội suốt thời gian Hà Nội bị đánh bom vào mùa Giáng Sinh 1972.
Cứ như tôi nhớ, tàu bay đã bỏ bom từ 15 đến 27 tháng Chạp. Trước ngày 15 khắp chung quanh ngoại ô Hà Nội đã bị bom, rồi từ 15 đến 27, chính Hà Nội cũng đã bị born đánh xuống.
Đầu tiên họ đánh Đài phát thanh. Sau khi Đài phát thanh trúng, họ dội khắp nơi, cả nội lẫn ngoại thành Hà Nội. Khu An Dương là khu đầu tiên bị nặng nhất. Trên căn bản, họ chỉ đánh bom Hà Nội ban đêm, cho nên ban đêm tôi chả thấy gì ngoài lửa chớp. Nhưng nhớ cũng có lần vào sáng sớm, tôi đã thấy tận mắt tàu bay dội bom. Một lần nữa vào đêm 24 tảng sáng 25, tôi thấy một chiếc B-52 đánh xuống khu Khâm Thiên. Một bệnh viện trúng bom, đấy là bệnh viện Bạch Mai.
Chúng tôi chẳng sợ nếu nhỡ bị Mỹ giết. Tôi nghĩ “Số chết thì phải chết”, nhưng tất nhiên chúng tôi tránh xa các mục tiêu quan hệ, nhiều người đã sơ tán khỏi thành phố. Thế mà cũng khối người đã chết.
Ông cần phải biết lúc ban đầu, trong năm 1964 dân miền Bắc rất sợ chiến tranh, sợ tàu bay Mỹ. Nhưng chiến tranh cứ tiếp diễn mãi thì người ta phải dầy dạn hơn. Họ hết sợ bom, họ không rụt rè nữa. Thay vì sợ sệt, ho muốn chấm dứt bọn bỏ bom.
– Chúng tôi không hề được chính phủ giải thích gì về chuyện bỏ bom cả.
– Tôi chả suy nghĩ sâu xa gì về chuyện bỏ bom. Tôi có thấy mấy phi công Mỹ được điệu đi diễn hành quanh Hà Nội, nhưng đấy là năm 1967 chứ không phải sau này. Nhà tôi gần nhà máy điện, vì nhà máy điện cung cấp điện cho cả thành phố Hà Nội, đã hóa thành mục tiêu trọng điểm trong các vụ đánh bom, nên tôi có thấy phi công Mỹ bị hạ, bị bắt làm tù binh, bị đưa đi diễn hành. Dân không được phép đến gần nói chuyện với tù binh. Tôi chỉ nhìn họ từ xa. Tôi chả biết gì về họ, nhưng tôi cũng tự hỏi tại sao lại dội bom chúng tôi.
– Lúc ấy tôi chẳng có cảm giác gì về chiến tranh, về người Mỹ, tôi chỉ đi học, không lưu ý đến tin chính trị hoặc tin chiến sự trong Nam. Nhưng những người khác ở miền Bắc rất quan tâm đến tin chiến tranh để theo dõi tình hình.
Tôi còn nhớ năm 1972 ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger đã liên hệ gì đấy trong việc hội họp chuẩn bị hiệp định Paris. Hà Nội đã bị bom ngay trong lúc các buổi hoà đàm đang diễn ra.
Ở miền Bắc, nhân dân không thích gì chiến tranh. Vì thế mọi người hết sức quan tâm đến các tiến triển của việc thương thảo, và bất cứ cái gì liên hệ đến việc chấm dứt chiến tranh.
Nhiều người đã chết cho lý tưởng thống nhất đất nước, miền Bắc hay miền Nam cũng đều là Việt Nam cả, nên cần họp lại thành một nước. Lúc lớn, đọc nhiều hơn, tôi mới được hiểu đáng nhẽ vào năm 1956 hai miền phải có tổng tuyển cử để thống nhất đất nước trong hoà bình thay vì bằng chiến trận và vũ khí. Nhưng tôi biết là họ đã không đồng ý thực hiện những việc đáng lẽ phải xảy ra, vì thế mới có đánh nhau.
Tôi nghĩ Hồ Chí Minh là một anh hùng. Tôi thành thực ngưỡng mộ kính trọng vì Bác là một lãnh tụ rất tài giỏi khôn ngoan. Cũng như Hitler ở bên Đức. Đầu tiên Bác chỉ là thường dân, nhưng Bác đã đi du lịch khắp nơi trên thế giới để tìm đường giành độc lập cho Việt Nam từ tay chính phủ Pháp. Bác cũng đã chiến đấu chống Nhật xâm lược. đấy, vì thế tôi hết sức kính phục Bác.
Tôi cũng kính phục đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đây, tôi xin kể cho ông nghe. Ông ấy là tướng. Ông ấy ở trong chính trị bộ. Ông ấy là Tổng Trưởng Quốc Phòng. Ông ấy là người tài ba. Ông ấy có thể nói nhiều thứ tiếng. Ông không được nể phục bằng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là đại anh hùng cả nước. Ngay sau 1975 cũng có nhiều người quan trọng mà tên tuổi đáng ghi nhớ trong lịch sử nhưng người ta vẫn chẳng buồn biết đến. Người ta chỉ ghi nhớ: Thứ nhất Hồ Chí Minh, thứ nhì Phạm Văn Đồng, thứ ba là Võ Nguyên Giáp.
Khi tôi còn 17, 18, 19, tôi nghĩ nếu hết chiến tranh thì ít nhất cũng phải đến 1979 hay 1980. Tôi không bao giờ ngờ là sớm như vậy. Chẳng bao giờ nghĩ đến năm 1975 đã hết. Nhưng tôi chưa hề bao giờ nghi ngờ gì, tôi chắc chắn chúng tôi sẽ thắng.
Trừ phi ông sống trong chế độ cộng sản, không thì không thể hiểu tại sao tôi đã đã nghĩ như thế. Đây, người miền Nam nghĩ rằng họ sẽ thắng, còn người miền Bắc thì biết rằng sẽ thắng. Có một câu cách ngôn Việt Nam liên hệ đến chiến thuật quân sự: “Biết mình, biết người, trăm đánh trăm thắng”. Miền Nam không biết gì miền Bắc. Còn miền Bắc biết hết mọi chuyện miền Nam.
Dân miền Bắc chẳng hề bao giờ sợ sệt các lực lượng quân sự Mỹ. Tại sao thế? Lâu lắm rồi, từ khi còn bé tôi đã nghe một câu tuyên bố của một ai đấy trong chính phủ Mỹ – mấy ông tướng thì phải – họ bảo họ sẽ “Ném bom Bắc Việt cho Bắc Việt quay lại thời đại đồ đá”. Tôi đã được nghe nói thế ở trường học. Và tôi nhớ lại Hồ Chí Minh đã gợi lên biết bao nhiệt tình và lòng yêu nước của người miền Bắc. Bác bảo cuộc chiến này có thể kéo dài hàng 5 năm, 10 năm hay 15 năm, do đó chúng tôi phải luôn luôn sẵn sàng. Tôi nhớ ở nhà trường, tôi đã được yêu cầu phân tích những lời tuyên bố ấy. Chúng tôi trở nên thấu suốt và giữ vững lập trường của chúng tôi trong cuộc chiến. Nhờ sự tin tưởng ấy, chúng tôi trở nên không sợ hãi cuộc chiến nữa.
Ông thấy, khi người ta bị dồn chân tường thì còn cách gì khác hơn là đứng dậy đương đầu với vấn đề trước mặt? “Cùng thì phải cố.” Vì thế chẳng còn sợ gì, bởi vì thế chúng tôi phải xông lên. Chúng tôi bị bắt buộc phải chấp nhận vị trí và số phận chúng tôi. Nhìn lên trời thì máy bay Mỹ dội bom, chúng tôi lại chỉ có thể bắn trả từ dưới đất. Giả thử có thể làm giảm bớt được số lượng bom ấy thì tốt quá, nhưng làm gì được, làm ở đâu bây giờ? Chúng tôi còn cách nào khác hơn là chấp nhận tình thế, tốt nhất chẳng sợ gì nữa. Và nếu muốn khỏi bị bom thì phải vào Nam đánh Mỹ ra khỏi nước, chúng tôi chỉ có cách duy nhất ấy để tự vệ thôi.
Cuộc sống miền Bắc không ổn định vì bom đạn liên miên, chiến tranh căng thẳng. Cái gì cần làm, người ta cố làm, việc ai nấy lo. Tình trạng đất nước như thế, làm sao sản xuất hàng hóa có phẩm chất tốt cho được? Hoạ may hoà bình thì mới mong có phẩm chất tốt thôi.
Khi Sài Gòn đầu hàng, mọi người mở liên hoan, ai nấy đều sung sướng. Tôi nghĩ có bốn lý do làm chúng tôi vui mừng mà mở liên hoan.
Thứ nhất, những gia đình có thân nhân vào Nam chiến đấu, họ sung sướng vì đất nước thống nhất, không còn đánh nhau. Những người thân sẽ về với gia đình.
Thứ hai, nó liên hệ đến tình trạng tinh thần và cảm xúc mới của người miền Bắc. Trước kia cuộc sống luôn luôn khó khăn, người ta đều lo lắng, nhưng giờ đây chẳng còn phải ngay ngáy lo đạn bom, chết chóc nữa.
Lý do thứ ba liên hệ đến khả năng sum họp với những người thân yêu. Xin nhớ vào năm 1954, đã có rất nhiều người vào Nam. Trong những năm chiến tranh, người ta đứt liên lạc, chẳng biết ai còn ai mất. Bây giờ đất nước trở lại làm một, người ta lại có thể liên lạc với nhau.
Thứ tư, thế hệ trẻ muốn vào thăm miền Nam để so sánh tìm hiểu cuộc sống miền Nam thực sự ra sao.
Còn ở Hà Nội, sau 1975 cuộc sống có tốt đẹp hơn không? Có cái có, có cái không. Đời sống vật chất có phần sút kém đi sau 1975, nhưng lại tốt hơn nếu nói về mặt tâm lý, mặt tinh thần, về cuộc sống nội tâm. Sau 1975, trạng thái tinh thần của chúng tôi được thoải mái hơn cho nên tôi có thể nói là tốt. Nhưng trước 1975, chính phủ miền Bắc đã được các nước bạn ở Âu Châu, được Trung Quốc và Liên Xô giúp đỡ. Trước khi chiến tranh chấm dứt, các nước ấy đã cho viện trợ, nhờ đấy chúng tôi mới có thể giành lại việc kiểm soát miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng với chiến thắng 1975, họ bắt đầu thôi không viện trợ, nên chúng tôi chẳng còn gì nữa. Một chuyện khác là sau bao nhiêu năm chiến tranh, ruộng đồng tiêu huỷ, đường sá, các ống dẫn dầu, dẫn nước đều đã bị tiêu huỷ hoặc một phần, hoặc toàn phần. Làm sao quý ông có thể trông đợi chúng tôi phục hồi ngay được sau chiến tranh, sau bao năm bom tàn phá?
Vì thế cuộc sống dân chúng đã khó khăn hơn bắt đầu từ 1975. Ngay giờ đây, miền Bắc hãy còn chịu khó, chịu khổ. Trong nhiều trường hợp, còn tệ hơn cả thời chiến. Nhưng con người ta không còn ở tình trạng thường xuyên sợ hãi. Chính đấy là phần tốt nhất về chuyện chiến tranh chấm dứt.
Xin cho tôi được dùng một lời ví von. Ở miền Bắc, các bạn tôi và tôi thường hay nói chuyện đời, chúng tôi ví đời mình như những cánh bèo trôi trên sông. Đời là một dòng sông, chúng tôi là những cánh bèo lênh đênh trên mặt nước. Chúng tôi không định được đời mình và số phận mình. Nước chảy bèo trôi, làm sao biết bến bờ nào. Trong nhờ, đục chịu, chúng tôi chẳng lựa chọn gì được cho đời mình. Mỗi khi nghĩ đến số phận và cuộc đời chúng tôi như thế, thì một phần trong tôi luôn muốn phá bỏ cái loại đời ấy đi.
Cũng như các bạn tôi, tôi muốn có thể được là chính mình, được làm những gì mình chọn chứ chẳng để cho ai khác ép buộc mình. Tôi chỉ là một con người sống bình thường, tôi cũng chỉ muốn thế thôi.
Cuộc chiến này do những người khác hoạch định, chủ trương gây ra. Những người dân bình thường chúng tôi không dính dáng gì. Như mọi con người bình thường khác ở khắp nơi trên thế giới, chúng tôi hàng ngày làm lụng và cũng chỉ cố sống một cuộc sống bình thường…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét