Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2018

Nước Mắt Trước Cơn Mưa (5) - Nguyễn Bá Trạc dịch

nuocmattruocconmua

Chương 13: Dân Sự Hoa Kỳ
OHN WALBURG

“Lạy Chúa, tôi đã trở về cõi sống”

Khi Đà Nẵng mất, tôi nhẩm tính có lẽ chỉ còn ba đến bốn tháng nữa thôi, Bắc Việt sẽ chiếm trọn miền Nam. Tôi biết chúng sẽ đến, nhưng vợ tôi bảo: “Lo con bò trắng răng”. Bả đinh ninh thế nào phút chót Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ cũng xuất hiện – y như hiệp sĩ màn bạc – đến cứu độ chúng sinh. Tất nhiên tôi biết nhiều hơn bả.
Tôi đã ở Việt Nam từ năm 1969, lấy vợ địa phương, sinh được ba con. Chúng tôi cư ngụ giữa vùng Biên Hòa – Saigon. Tôi dự định sẽ sống vĩnh viễn ở đấy, nhưng chiến cuộc mỗi lúc một bất lợi cho miền Nam. Mọi sự thay đổi cả.
<!>

Ngoại ô Saigon có một bãi xếp đầy đồ tiếp liệu Mỹ viện trợ cho Việt Nam, chung quanh có hàng rào bao bọc. Mỗi ngày đi Saigon tôi đều lái xe ngang qua bãi hàng. Tôi để ý hàng hóa mỗi tuần một ít đi. Cho đến giữa tháng Tư, chẳng khác một bãi đậu xe trống rỗng. Nhìn hàng hóa vơi dần, tôi biết chuyện xảy ra. Ngày cuối đã gần kề.

Phải mất hết hai hôm tôi mới hoàn tất đủ giấy tờ rời khỏi Việt Nam. Hai ngày ròng rã đứng xếp hàng điền đủ thứ đơn. Đáng lẽ chúng tôi đi chuyến bay tại Saigon ngày 28 tháng Tư, nhưng địch dội bom, bắn hỏa tiễn trước khi chuyến bay cất cánh. Do đó, chúng tôi đã phải thay đổi chương trình.

Cuối cùng, chúng tôi xoay sở vào được phi trường Tân Sơn Nhất buổi sáng ngày 28, lính gác chặn lại. Chúng tôi chi cho họ ít tiền, họ mới để chúng tôi vào.

Vào được bên trong, người ta chỉ chúng tôi đến căn nhà phụ của Văn phòng Tùy viên Quân sự. Đó là địa điểm làm thủ tục ra đi. Đến đấy họ đưa thêm một cọc giấy tờ nữa. Rồi lại sắp hàng chờ. Cuối cùng, giấy tờ còn nhớ, vì đó là số chuyến bay của chúng tôi. Lúc ấy họ đang gọi đến số 17. Ai nấy nhao nhao hỏi chuyến bay. Mọi người đều lộ vẻ lo lắng vì chuyện ra đi. Nhiều người lâm râm cầu nguyện.

Sau khi lĩnh được số chuyến bay, chúng tôi ngồi xuống đất chờ. Bên trên, người ta căng một cái dù nhà binh che nắng. Sau cùng họ bảo chúng tôi lên xe buýt. Chiếc xe này sẽ chở chúng tôi ra máy bay.

Khi tất cả mọi người vừa lục tục vào được xe buýt thì đột nhiên một trái rốc kết bay đến đánh trúng căn cao ốc kế cận. Trái rốc kết thổi bay tầng thượng. Mái nhà rơi sập xuống hồ tắm căn cứ. Khi trái rốc kết bay đến, chúng tôi nghe rõ tiếng rít. Tôi chắc mẩm đã trúng xe buýt rồi. Cửa xe đóng. Tôi xốc đứa con trai chạy về phía trước, đẩy cửa, đạp người tài xế ra ngoài. Ai nấy hoảng hốt. Mọi người la thét ùa nhau về phía cửa. Vợ tôi lôi hai đứa con gái kế sau lưng, cả ba băng qua đường, lăn xuống rãnh. Tôi ôm đứa con trai úp xuống mặt đuờng. Tôi lấy thân mình che lên nó. Rồi tôi mới nghĩ: “Thực ngu ngốc quá” vì chỗ tôi đang nằm là chỗ mặt đường trống trải. Tôi xốc thằng con, bồng nó chạy sang bên vệ đường. Suốt đêm chúng tôi nằm đấy. Rốc kết, đại liên bắn không ngừng. Mọi người chung quanh la thét. Khóc lóc. Cầu nguyện. Ai nấy cứ thế nằm bấu chặt mặt đất.

Khi ánh sáng hửng lên, người ta vẫn tưởng đạn còn bắn vào. Giữa ánh sáng ban ngày, chẳng ai biết phải làm gì. Người tài xế biến mất rồi. Tôi bảo tất cả mọi người vào lại xe buýt. Tôi đã trông thấy mấy chiếc trực thăng hạ cánh, cất cánh trong Bộ Tư lệnh Văn phòng Tùy Viên Quân Sự, ngay góc đường.

Tôi lái chiếc xe buýt đầy người tiến đến cổng Bộ Chỉ Huy. Lính Thủy quân Lục chiến đứng canh không chịu mở. Họ bảo: “Đây là địa điểm phòng thủ an ninh. Không ai có quyền vào”. Tôi giải thích tất cả chúng tôi đã có tên trong danh sách chuyến bay, nhưng nay không còn máy bay nữa. Chúng tôi cần ra đi. Họ đáp: “Vậy ông có thể vào, ông là công dân Mỹ. Nhưng chúng tôi không cho các người khác vào được”. Khốn nạn, làm sao tôi có thể bỏ rơi vợ con tôi, cùng những người trên xe buýt? Tôi bèn ngồi xuống ngay trước cổng, bảo: “Tốt thôi, các bạn ơi. Chúng tôi còn biết đi đâu bâu giờ? Chúng tôi cứ ngồi ở đây thôi”.

Cuối cùng, một sĩ quan tiến ra cổng. Tôi đưa hết giấy tờ cho ông ta xem. Ông ta cho tất cả chúng tôi vào.

Họ đưa chúng tôi đến một cao ốc ở góc đường. Lúc này mọi người đi với tôi đã hơn một ngày không ăn uống. Tôi bước qua khu hợp tác xã quân đội. Không một người nào phụ trách ở đây. Tôi quơ một bọc bánh táo, bánh mì thịt, khệ nệ mang về chia cho mọi người. Tôi quay trở lại, lấy thêm kẹo, bánh mì kẹp. Tổng cộng cả nhóm bảy mươi người, tôi đã săn sóc cho tất cả.

Họ bỏ chúng tôi trong căn cao ốc mà không để lại một người nào bảo vệ. Tôi mò mẫm tìm quanh các phòng. Thấy cái mũ sắt quân đội lăn lóc trên sàn, tôi nhặt lấy đội lên đầu. Mở ngăn kéo, tìm được khẩu súng lục .38. Tôi nhét thắt lưng. Từ giờ phút này, người hữu trách chính là tôi. Sau một khoảng thời gian khá lâu, tôi cảm thấy như họ đã quên bẵng chúng tôi có mặt ở đấy. Tôi đi đến căn cao ốc chính. Tại đây chật ních người. Tôi tìm được một gã có vẻ thông thạo công việc. Gã ngồi trong thư viện Văn phòng Tùy viên. Gã nắm trong tay một sấp thẻ mà mỗi người sẽ phải cầm theo. Đây là những thẻ hành lý của Hãng máy bay TWA. Gã bảo tôi viết con số lên mấy cái thẻ, bắt đầu là 1-1 rồi 1- 2, cứ thế cho đến số 16 thì trở lại, bắt đầu 2-1 rồi 2-2 lại cho đến hết số 16, tiếp tục như thế. Tất cả mọi người trong nhóm tôi cũng sẽ phải cần có thẻ. Cứ 16 người vào một trực thăng. Con số đầu tiên là số của chiếc máy bay trực thăng mà người ta sẽ ra đi.

Tôi quay về lại nhóm tôi, cầm trong tay nắm thẻ. Thế là người ta nhao nhao la ó: “Cho tôi trước! Cho tôi trước!” Một gã dân biểu người Việt chạy lại. Hắn đề nghị đưa tôi 400 đô la để lấy tấm thẻ đầu tiên cho hắn và gia đình hắn đi trước. Tôi biết sớm muộn tất cả chúng tôi cũng đi cả, nên tôi lấy tiền hắn đưa. Rồi cho hắn mấy tấm thẻ. Sau đó lần lượt tôi phát cho những người khác. Có một linh mục và vài bà bụng chửa, tôi đưa thẻ cho họ lên chuyến đầu tiên. Mọi sự hệt cảnh tượng chia ghế trên các tàu cấp cứu trong vụ đắm tàu Titanic. Mọi người đứng im phăng phắc, hết sức lễ độ vây quanh tôi. Một lão già và bà vợ sợ run như cầy sấy. Lão ta đến gần đưa tôi năm đô la để xin vào chuyến đầu. Tôi bảo lão già: “Cất tiền đi.” Tôi vẫn cho họ vào chuyến đầu. Còn vợ con tôi và tôi giữ mấy tấm thẻ của chuyến trực thăng chót trong nhóm. Xong xuôi, tôi yêu cầu mọi người sắp hàng. Tôi dắt tất cả lũ lượt xuống tòa nhà chính.

Trong toà nhà đã có một hàng dài. Chúng tôi đứng trong hàng với mấy tấm thẻ hành lý. Khi chuyển dần lên gần hàng đầu, bất chợt họ bảo: “Không được mang va li”. Chúng tôi chỉ được phép mỗi người một túi xách nhỏ thôi. Tôi giữ cái cặp, vợ tôi mang cái túi du lịch đựng quần áo. Đấy tất cả những gì chúng tôi mang đi.

Đứng tại đây, hầu như một cuộc xếp hàng vô tận. Nói cho đúng, chúng tôi đã đứng suốt một ngày dài. Cuối cùng, mãi xế chiều mới lên được hàng đầu, rồi chúng tôi được dẫn tới trực thăng – một chiếc Chinook lớn.

Chúng tôi bước vào, nhưng họ chặn nhóm tôi lại ngay sau khi vợ tôi lên. Kế sau vợ tôi là hai cô gái người Việt. Người ta ra hiệu yêu cầu tất cả quay vào, chờ chiếc trực thăng kế tiếp.

Hai cô gái sợ xanh mặt. Rõ rệt các cô không thể tin là sẽ có chiếc trực thăng kế. Các cô nắm lấy vợ tôi, chu chéo khóc, nhất định không buông tay. Cửa đã đóng, họ vẫn bíu lấy vợ tôi. Tôi đẩy họ lùi lại, nhưng họ vẫn bám chặt. Họ thét lên: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!” Hai cô đều là y tá Việt Nam, làm việc cho Mỹ. Cuối cùng người ta đành mở cửa kéo hai cô vào. Rồi cất cánh.

Tôi đứng cạnh người xạ thủ khi máy bay bốc lên. Tôi thầm bảo: “Chà cuối cùng rồi cũng thoát”. Tôi rất khoái chí khi bước vào trực thăng. Từ khi rời quân ngũ đến nay mới lại được đi trực thăng. Họ nhờ tôi mang hộp bông gòn đi phân phối cho các hành khách nhét lỗ tai. Tiếng động cơ rất lớn. Chúng tôi bay qua Vũng Tàu, thấy rõ cái bãi biển đẹp đẽ bên dưới. Đấy là hình ảnh cuối cùng của Việt Nam.

Tôi nhoài người nhìn ra phiá trước xem chúng tôi đi đâu. Rồi tôi thấy những hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Cả một hạm đội dưới biển Nam Hải. Thực là một quang cảnh tuyệt vời.

Chúng tôi hạ xuống mẫu hạm – tôi nhảy ra trước, dìu vợ con bước xuống. Các bác phó nhòm Mỹ, các thủy thủ và lính Thủy quân Lục chiến nói tíu tít. Trên tàu mọi người đều nói tiếng Anh. Mọi sự đều đã trong vòng yên ổn. Tôi nhìn quanh, thầm nhủ: “Lạy Chúa nhân từ, tôi đã trở về cõi sống”

BÁC SĨ BRUCE BRANSON

“Một kế hoạch khủng bố đã định liệu trước”

Vào lúc Hiệp định Ba Lê ký kết, quân đội Mỹ sửa soạn rời Việt Nam, bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ liên lạc với bệnh viện Cơ Đốc tại Trung tâm Sài Gòn để xem bệnh viện này có thể nhận chăm sóc cho các kiều dân thuộc Tòa Đại sứ Mỹ không. Bấy giờ bệnh viện này chỉ dành cho người Việt. Vì đó là một bệnh viện tương đối nhỏ, ban Quản đốc trả lời rằng nếu có một địa điểm rộng hơn, và nếu được tăng cường nhân viên thì có thể phụ trách được. Trong lúc này bệnh viện “Dã chiến số 3” của Quân đội Hoa Kỳ ở cách phi trường Tân Sơn Nhất chừng một dặm đã dọn đi. Vì vậy người ta thoả thuận cho di chuyển toàn bộ bệnh viện về đó. Chỗ này trở thành địa điểm mới của bệnh viện Cơ Đốc Saigon.

Một trong những yêu cầu của tòa Đại sứ là bệnh viện cần phải có chuyên viên các ngành giải phẫu, chỉnh hình và nội khoa. Bấy giờ bệnh viện đã có chuyên viên từ Hoa Kỳ sang phụ trách về chỉnh hình, về chấn thương, tất nhiên, và về khoa gây mê, nhưng lại không có chuyên viên Hoa Kỳ làm thường trực và toàn thời gian về giải phẫu hoặc nội khoa. Vì thế Khoa trưởng Y Khoa thuộc Đại học Loma Linda đã bay sang Việt Nam gặp giới chức Tòa Đại sứ Hoa Kỳ cùng với một số người thuộc Hội truyền giáo Cơ Đốc, rồi ký một khế ước thỏa thuận cung cấp nhân viên cho bệnh viện này. Bấy giờ tôi là Trưởng khu Giải phẫu của Trung tâm Y khoa thuộc Đại học Loma Linda. Chúng tôi tuần tự sang Việt Nam mỗi phiên ba tháng. Do đó vào năm 1973 tôi sang bên ấy theo phiên thường lệ cùng một số khá đông người khác.

Bệnh viện này thường kín chỗ mặc dầu bệnh xá khá lớn. Có từ hai đến ba khu dành riêng cho kiều dân Mỹ, tất cả số còn lại dành cho người Việt. Chính phủ Việt Nam đòi hỏi bốn mươi phần trăm tổng số bệnh nhân mà chúng tôi chăm sóc phải là các bệnh nhân nghèo. Còn các bệnh nhân khác là những bệnh nhân có thể trả một phần hoặc toàn thể bệnh phí. Riêng kiều dân Mỹ thì chi phí sẽ được chính phủ Mỹ bồi hoàn cho bệnh viện. Đối với loại bệnh nhân này, khi họ tương đối bình phục để có thể di chuyển, và nếu đã gần thời hạn về xứ, thì chuyển vận quân đội hoặc các toán cứu thương sẽ đưa họ sang Phi Luật Tân bằng phi cơ.

Vào năm 1973 mọi việc khá ổn. Họ còn đưa được tôi ra cả Đà Nẵng và Huế. Tại Đà Nẵng chúng tôi cũng có một số bệnh xá giáo vụ và các cô nhi viện. Mặc dầu du kích Việt Cộng có mặt tại vùng đồi núi, nhưng tình hình phía Bắc lúc ấy cũng khá ổn định. Tại các thành phố, chính phủ Nam Việt Nam đều kiểm soát được.

Vào tháng Ba năm 1975 mọi sự bắt đầu đổ vỡ. Đà Nẵng trở nên náo loạn khi Bắc quân bắt đầu một cuộc tiến công nghiêm trọng. Bấy giờ nhằm phiên tôi sang làm việc ở Việt Nam. Người ta đang rối rắm không biết có nên tiếp tục mở cửa nhà thương ở Saigon hay không. Một số nhân viên Hoa Kỳ quyết định ra đi đã tạo nên khoảng trống trong khu giải phẫu. Họ sang Hồng Kông chờ đó xem tình hình ra sao. Chúng tôi nhận được thông báo khẩn của tòa Đại sứ là khu giải phẫu thiếu người, vì thế tôi quyết định sang Việt Nam để điền vào chỗ trống.

Bấy giờ tôi không nghĩ là chúng tôi nhận được tin tức đầy đủ và chính xác. Mọi sự đều mơ hồ. Tuy nhiên Saigon vẫn có vẻ tương đối an toàn. Phải nhớ rằng Nam Vang đã bị bao vây khoảng một năm trời, từ sáu tháng cho đến một năm, thành phố này bị vây hãm, nhưng toà Đại sứ Hoa Kỳ ở đó vẫn thực hiện được một cuộc ra đi trong trật tự, cho nên, ở Saigon lẫn tại Đại học Loma Linda, người ta cho là các vụ đụng độ ở phía Bắc miền Nam Việt Nam sẽ được kiềm chế, tình trạng không có gì quá trầm trọng.

Lúc ấy chúng tôi vẫn có thể liên lạc được về Mỹ bằng điện thoại, nên tôi vẫn thường gọi về Đại học Loma Linda, về vợ tôi và gia đình tôi. Nhưng sau đó việc liên lạc điện thoại trở nên khó khăn. Chúng tôi bắt đầu phải gọi qua vô tuyến điện, từ đó người ta liên lạc với người nhận tại California, rồi nối đường dây điện thoại, chúng tôi mới nói chuyện được. Nhờ đó chúng tôi vẫn có thể giữ được phương tiện truyền thông.

Trong bệnh viện, có mở một trường đào tạo y tá. Khi miền quê trở nên bất ổn, người ta cho các học viên về nhà. Các học viên y tá quê quán tại nhiều miền khác nhau, họ đều lo lắng về gia đình, không biết thân nhân ra sao, nên đòi về. Vì vậy người ta phải đóng lớp học, tạm cho nghỉ. Rồi chừng hai tuần sau khi tôi đến Việt Nam lần này, các cô học viên y tá quê quán vùng ngoài – tại Nha Trang và dọc vùng duyên hải – đang lục tục trở lại bệnh viện. Họ cho biết cuộc tiến công của Việt cộng quá nhanh so với sự loan báo của Đài phát thanh miền Nam Việt Nam. Họ nói họ đã chứng kiến nhiều cuộc tàn sát, đã phải lặn lội đi đêm, ban ngày phải ẩn náu mới về lại được. Họ kể nhiều chuyện khiếp đảm. Họ đã chứng kiến nhiều vụ tàn sát tập thể bởi quân Bắc Việt ở gần Vũng Tàu.

Có nhiều vụ đụng trận dọc Duyên Hải: Hai mươi cô y tá này phải đi bộ, chạy tán loạn trong suốt thời gian từ một tuần đến mười ngày. Các câu chuyện họ kể thực ghê sợ. Không ai cảm thấy có thể tin được những gì Đài phát thanh chính quyền loan báo nữa.

Họ kể việc Bắc quân tiến vào các làng hoặc các tỉnh, lùa những người mà chúng nghĩ là các viên chức chỉ huy rồi bắn, hoặc chặt đầu. Hoặc nếu bắt được lính miền Nam làm tù binh, chúng cũng bắt sắp hàng rồi bắn. Suốt vùng Duyên Hải đều xảy ra chuyện như thế. Tình trạng giống như có một kế hoạch khủng bố đã được định trước. Việc này làm chúng tôi ở Saigon đâm lo lắng, vì lẽ ai chẳng biết trước đây bệnh viện chúng tôi là một bệnh viện quân đội, chúng tôi săn sóc cho người Mỹ, và trong bệnh viện có rất nhiều y tá và Bác sĩ Mỹ. Chúng tôi cũng khám phá được một số không ít những người sống ở các vùng lân cận đều là cảm tình viên Việt cộng. Một số chính là nhân viên bệnh viện hoặc có bạn thân làm trong bệnh viện. Việt cộng đã cho họ biết rằng khi quân đội Bắc Việt tiến đến, một số nhân viên bệnh viện có tên trong sổ đen sẽ bị hành quyết. Đa số nhân viên quản trị bệnh viện đều có tên trong danh sách này.

Điều đó làm mọi người bất an, người ta không thể biết ai là bạn, ai làm việc cho Việt cộng. Tôi nghĩ nhiều người có tinh thần phù thịnh, họ sẽ đứng về phe chiến thắng, bất kể phe nào thắng. Do đó chúng tôi trình bày việc này với Tòa Đại sứ. Người ta bảo “cứ yên tâm, khi thực sự cần di tản, chúng tôi sẽ tìm mọi cách giúp quý vị đưa những người bị nhiều nguy cơ nhất ra đi”.

Lúc đó mọi người tại Saigon đều mong Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận các ngân khoản phụ trội để tăng viện cho quân đội miền Nam. Nhưng khi liên lạc qua vô tuyến điện, nói chuyện với thân hữu tại Hoa Kỳ, hiển nhiên những gì chúng tôi nghe qua truyền hình truyền thanh đều khác hẳn những gì đang xảy ra tại Mỹ. Có lẽ nguồn tin chính xác nhất chỉ là đài BBC. Còn Đài Phát Thanh Quân Đội địa phương bây giờ suốt ngày chỉ chơi nhạc, không loan báo điều gì có thực về tình hình xảy ra.

Đến khi mọi việc đã rõ rệt, bên Đại học Loma Linda thấy chắc chắn Quốc Hội sẽ không bỏ phiếu cấp thêm tiền nữa, họ bắt đầu thúc đẩy chúng tôi di tản.

Chúng tôi vẫn nấn ná ở lại khoảng chừng sáu đến tám tuần nữa. Trong khi một số nhân viên quản trị bệnh viện sang Tân Gia Ba để lượng giá tình hình, thì tại phòng giải phẫu, chúng tôi bắt đầu tiếp nhận nhiều bệnh nhân bị thương do các trận du kích và nhiều trận xáp lá cà tại vùng ngoại vi thành phố. Sự kiện này mơ hồ cho chúng tôi hiểu Việt cộng đã tới nơi. Chúng tôi hội ý với cấp lãnh đạo bệnh viện. Ho bèn liên lạc với Tòa Đại sứ để tìm hiểu xem đã có kế hoạch ấn định khi cần phải di tản chưa. Người ta không bao giờ nhận được những câu trả lời thẳng thắn. Đại sứ nhất định không chịu bộc lộ điều gì chứng tỏ tình hình lộn xộn. Ông không muốn rối loạn bộc phát trong thành phố, nên ông không cho phép bắt đầu di tản.

Tuy nhiên tại Tòa Đại sứ có một Trung tướng bắt đầu trực tiếp phụ trách vấn đề. Sau này chúng tôi hiểu là tại Hoa Thịnh Đốn đã có cuộc tranh luận xảy ra giữa Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng. Sau cùng Bộ Quốc Phòng bắt đầu trực tiếp nắm mọi việc. Vào lúc này, hãy còn khoảng mười lăm ngàn người Mỹ quân đội nhưng mặc thường phục, đang làm nhiều công tác quan trọng khác nhau ở Việt Nam. Người ta ý thức là phải bắt đầu di tản những người này. Rất nhiều người trong số ấy đã lấy vợ Việt, có con cái, thân nhân Việt Nam. Cho nên cuộc di tản không vận bắt đầu vào khoảng 15 tháng Tư, tôi nhớ như thế, khi tình hình bắt đầu chuyển động.

Một số rất đông người Việt đã tới bệnh viện yêu cầu chúng tôi giúp họ đi. Chúng tôi có một số bạn hữu Việt Nam từng ở Mỹ. Có hai sinh viên Việt Nam đã học Y khoa ở Mỹ. Một người là con trai Khoa trưởng Y khoa Đại học Saigon, một người nữa là con trai Chánh án Tòa Thượng Thẩm Saigon. Họ đều khẩn thiết mong đoàn tụ với gia đình lúc bấy giờ đã ở Mỹ. Vì thế chúng tôi bắt đầu đi một loạt đến Tòa Đại sứ, rồi đến phi trường.

Bấy giờ Tòa Đại sứ chỉ cho những người Việt thân nhân của kiều dân Mỹ di tản. Họ đang cố tìm cách di tản một số lượng khá lớn kiều dân Mỹ. Do dó một số người trong nhà thương chúng tôi bắt đầu tìm cách làm thủ tục nhận con nuôi người Việt. Họ rời phòng mổ, đứng sắp hàng xin giấy tờ để giúp một số người Việt ra đi với tư cách thân nhân. Tôi nhớ có tám người Mỹ trong nhà thương đã làm thủ tục chính thức nhận vào khoảng năm mươi đến sáu mươi người Việt làm con nuôi, trong số đó có cả những người lớn tuổi hơn chúng tôi. Chúng tôi cũng phải cam kết sẽ bảo trợ họ, lo nơi ăn chốn ở và săn sóc cho họ.

Cũng suốt thời gian này chúng tôi cố di tản các bệnh nhân Mỹ, các chuyến bay tải thương vẫn tiến triển nên chúng tôi có thể đưa họ vào các xe cứu thương. Trong các xe đó chúng tôi cho nhiều người Việt đóng vai y tá, hoặc đóng vai người phục dịch, cứ mỗi xe một bệnh nhân người Mỹ, thêm vào càng nhiều người Việt càng tốt. Lính gác phi trường thấy xe cứu thương với dây nhợ truyền nước biển, bông băng đủ thứ là cho phép chạy vào. Tất nhiên những người – gọi – là – nhân – viên – phục – dịch không ai ra về nữa. Họ ở lại với bệnh nhân và bay thẳng sang Phi Luật Tân. Vào thời điểm này, việc ấy là bất hợp pháp, vì lẽ chỉ thân nhân người Mỹ mới được cho đi thôi, tuy nhiên người ta cũng đồng ý cho chúng tôi gửi những người phục dịch Việt Nam kèm theo. Song le chẳng bao lâu chúng tôi hết sạch bệnh nhân Mỹ. Chúng tôi đành nài nỉ Ban chỉ huy tải thương tại Phi Luật Tân cứ cho tiếp tục các chuyến bay ngõ hầu chúng tôi gửi thêm người đi, gồm các nhân viên bệnh viện và những người chịu nguy cơ cao độ.

Do dó, trong vài ngày, họ cũng khứng chịu cho linh động như thế. Tuy nhiên sau đó họ bảo “Chúng tôi không thể tiếp tục. Vì không còn bệnh nhân Mỹ trên chuyến bay, người ta không cho giấy phép nữa”.

Vì thế Ralph Watts, Vụ trưởng Giáo vụ Cơ Đốc lặn lội sang Tân Gia Ba thương lượng, cuối cùng đạt được thoả thuận của Đại diện Bộ Quốc Phòng tại Tòa Đại sứ cho phép di tản một số nhân viên người Việt làm cho bệnh viện. Lúc đầu, họ đồng ý cho chúng tôi một số chỗ trên các chuyến bay dành để chở những người thực sự cần di tản (gồm khá nhiều người đã cộng tác với Trung ương Tinh báo Mỹ, những người này được hứa hẹn di tản khi tình trạng xảy ra như vậy). Nhưng rồi tình hình đổ vỡ nhanh chóng quá, người ta không kịp đưa đi hết nên đành bỏ lại rất đông. Tòa Đại sứ hoàn toàn thiếu một kế hoạch di tản có tính thực tế, nên đã tạo nhiều việc bất ưng, họ đã thất bại trong việc giữ lời hứa di tản các người Việt chịu nhiều đe doạ. Tôi chắc chắn việc ấy làm cho những người chúng ta không đưa đi được rất đau buồn, chua xót.

Vụ trưởng Ralph Watts yêu cầu người trong bệnh viện phải thiết lập danh sách theo từng khu, làm chúng tôi khó đương đầu nổi trách nhiệm quyết định ai đi ai ở. Chúng tôi thức suốt đêm, cố lập danh sách ấy. Tới nửa đêm, họ điện thoại cho Ralph Watts mà bảo: “Chúng tôi không thể làm nổi nữa. Công việc này thê thảm quá”. Ông trả lời: “Chỉ quý vị mới biết rõ những người nào chịu nhiều nguy hiểm nhất”. Ông yêu cầu họ quay lại tiếp tục công việc. Sáng hôm sau họ lập được danh sách ấy. Nhưng việc lập danh sách này quả là một kinh nghiệm thương tâm.

Chúng tôi ra đi ngày hai mươi lăm. Saigon sụp đổ ngày ba mươi. Trước đó chúng tôi đã chuyển số bệnh nhân còn lại sang các bệnh viện thành phố trong ba ngày chót để chắc chắn chúng tôi không bỏ lại các bệnh nhân không ai coi sóc. Có chừng mười sinh viên Đại học Y khoa luân phiên thực tập tại bệnh viện chúng tôi, hầu hết đều quyết định ra đi với chúng tôi. Số còn lại đã phụ giúp việc chuyển bệnh nhân sang các bệnh viện khác. Cũng nhiều người không muốn đi, vì không muốn bỏ gia đình lại. Một cán sự phòng thí nghiệm người Gia Nã Đại cũng quyết định ở lại. Theo tôi nhớ, anh quyết định như thế vì anh cảm thấy có thể giúp đỡ việc bảo vệ số nhân viên còn lại, tối thiểu cũng có thể xem chừng những gì xảy ra tại bệnh viện và duy trì phần nào sự kiểm soát trong trường hợp xảy ra náo loạn. Cảnh sát Thành phố bây giờ không cho nhân viên phòng vệ canh gác nữa. Ngoài cổng bệnh viện đã có hàng trăm người cố tìm cách lọt vào vì họ nghĩ họ sẽ được an toàn hơn ở tại nhà. Mọi sự bấy giờ trở nên bất ổn. Tôi nghĩ ai cũng lo xảy ra bạo động. Tuy nhiên những vụ đó không hề xảy ra trong thành phố.

Trong ngày cuối của chúng tôi ở Saigon, chúng tôi cho cứ một người Mỹ vào một chiếc xe cứu thương, tổng cộng có tám chiếc, rồi chúng tôi ấn vào xe cứu thương các nhân viên người Việt làm cho bệnh viện. Chúng tôi đã được chấp thuận cho đi toàn danh sách những người ấy.

Có nhiều người phải ở lại vì chúng tôi không thể xin đủ danh sách ở tòa Đại sứ, người ta chỉ cho một số có hạn. Tất nhiên những người bị ở lại đã phải chịu nhiều áp lực nặng nề.

Đưa đoàn xe cứu thương ra khỏi cổng bệnh viện là một mối kinh hãi. Khi còi cứu thương bắt đầu hú, vừa đóng cửa xe xuống thì khoảng ba mươi đến bốn mươi nhân viên của chính bệnh viện chúng tôi ùa đến chen vào xe. Tinh trạng xảy ra gần như bạo động. Chuyện duy nhất có thể làm được bây giờ là nhấn hết ga mà chạy, bởi lẽ nếu chần chờ thêm, chắc chắn chúng tôi sẽ không một ai đi đuợc. Lúc ấy nhiều người kêu thét thất thanh, khóc nức nở.

Chúng tôi chỉ thông báo việc ra đi cho những người có tên trong danh sách được chấp thuận đưa đi. Chúng tôi dặn riêng họ đừng nói hở cho ai biết. Chúng tôi cho họ hai giờ đồng hồ về nhà sửa soạn đưa vợ con và những thân nhân được phép đi với họ. Như thế tất cả những người còn lại thực ra không hay biết gì, mãi đến khi chúng tôi cho xếp người vào xe cứu thương. Việc xảy ra thực khổ tâm cho hết cả mọi người. Nhiều người bị bỏ lại chính là những bạn bè thân, hoặc thân nhân của những người ngồi trên xe cứu thương. Một trong những việc tàn khốc nhất, là khi phải quyết định cho ai có tên trong danh sách.

Mặc dầu đã được chấp thuận của Bộ Quốc Phòng Mỹ, nhưng lọt qua cổng phi trường Tân Sơn Nhất với các lính gác Nam Việt Nam cũng còn là việc khó khăn. Trong phi trường tất nhiên đã có nhiều vận tải cơ lớn đến, bên ngoài có hàng nghìn người vịn lên cố trèo vào. VI thế việc đưa đoàn xe cứu thương vào phi trường rất vất vả. Tuy nhiên, chúng tôi đã khai thác hết lợi điểm của còi hụ và đèn chớp của những xe cứu thương.

Trong phi trường, các khu vực đưa người được Thủy quân Lục chiến thiết lập. Rất thiếu nước, tất nhiên không có nhà cửa gì, cho nên đêm đầu tiên chúng tôi phải ngủ ở vỉa hè, trên mặt đường trong phi trường. Sáng hôm sau tên chúng tôi được đưa vào danh sách chuyến bay. Từng hàng dài người đứng nhẫn nại chờ chuyển vào địa điểm lên máy bay. Trong khi đó Thủy quân Lục chiến soát xét kỹ lưỡng mọi hành lý để chắc chắn không có vũ khí và bất cứ thứ gì nguy hại. Trong lúc đứng sắp hàng, chúng tôi có thể nghe tiếng súng và những vụ đụng trận bên ngoài phi trường. Do đó chúng tôi biết Việt Cộng đã đến rất gần.

Chúng tôi rời Việt Nam bằng chuyến bay C-130. Họ đưa chúng tôi sang đảo Guam. Từ đấy người ta thu xếp cho nhóm chúng tôi lên hai chuyến bay phản lực 747. Hãng hàng không Pan-Am đã tặng hai chuyến bay này để chở người. Chúng tôi hạ cánh xuống trại Pendleton. Đại học Loma Linda đã dọn trống các phòng tập thể dục, bố trí các giường vải để tiếp đón chúng tôi. Ngoài ra họ cũng dựng lều cho chúng tôi theo kiểu cắm trại. Tổng cộng tôi nghĩ chúng tôi đã đưa được khoảng bốn trăm hai mươi lăm người.

Thế còn những người làm việc với chúng tôi bị kẹt lại sau ngày 30 tháng Tư, số phận ra sao? Vâng, rất nhiều người đã bị đưa vào các trại tập trung ở trong rừng mà họ gọi là “trại cải tạo”. Một số thân nhân của họ đã gửi thư sang Pháp rồi chuyển được sang Mỹ. Một số người bị tù trong các trại cải tạo ấy từ hai đến ba năm. Khá nhiều người khác bắt đầu vượt thoát bằng tàu sang Mã Lai hoặc Thái Lan. Trong mười năm qua, một dòng người Việt không ngớt xuất hiện ở California. Họ là những người vượt biên bằng tàu, đến được các trại tỵ nạn, rồi từ đó chờ tiêu chuẩn nhập nội Hoa Kỳ.

Tất cả là một sự thể tuyệt đối đau thương. Tôi nghĩ đa số người Mỹ đều cho là chúng ta đã đối xử tệ bạc đối với người Việt Nam. Chúng ta cũng đã có một số cảm giác mãnh liệt tại Hoa Kỳ về cuộc chiến Việt Nam. Cảm giác của đa số những người từng có mặt ở Việt Nam là: Nếu chúng ta đã định duy trì miền Nam Việt Nam như một tiền đồn dân chủ của thế giới tự do, nếu chúng ta đã chiến đấu để thực hiện việc ấy, thì chúng ta phải đến mà thực hiện công tác một cách đúng đắn. Tuy nhiên trong toàn bộ công tác này, chúng ta đã tự đặt ra những hạn chế cho chính chúng ta. Chúng ta đã loan báo trước rằng chúng ta sẽ không bỏ bom biên giới Trung quốc, nên Trung quốc cứ thế mà đổ chiến cụ, đạn dược qua ngã biên giới. Chúng ta không ngừng loan báo trước tất cả những gì chúng ta sẽ làm. Và Bắc Việt cũng tận tình khai thác từng điểm một trong lợi thế đó.

Tôi nghĩ rằng tôi cũng cảm thấy như nhiều ngưòi khác – là chiến đấu một cuộc chiến nửa vời, với những giới hạn, thì gần như không thể nào thắng. Kết quả xảy ra là cuộc chiến đã kéo dài suốt năm này sang năm khác, chung cuộc tổn phí quá nhiều sinh mạng – thay vì tấn công nhanh, gọn và kết thúc.

Nếu người ta không thực hiện được như thế, thì thà đừng mở cuộc chiến cho xong.

GEORGE LUMM

“Lạy Chúa rất thánh, họ sẽ bắn hết chúng tôi đây”

Mùa Xuân năm 1975 gia đình tôi ở cả Saigon trong khi tôi đang làm việc tại Hồng Kông. Các con tôi tất nhiên đều có quốc tịch Mỹ từ khi mới lọt lòng, Tòa Đại sứ Hoa Kỳ đã cấp thông hành cho các con tôi rồi. Tuy nhiên, phải có chiếu khán xuất ngoại mới ra khỏi Việt Nam được. Ngay công dân Hoa Kỳ rời Việt Nam cũng cần chiếu khán xuất ngoại mới đi được.

Tôi đã tin người Mỹ chúng ta sẽ quay lại hỗ trợ cho chính phủ Việt Nam, chủ chốt vì vấn đề dầu lửa, tôi nghĩ. Có mấy hòn đảo ngoài hải phận Việt Nam mà người Việt phải tranh chấp với Trung Quốc , họ cho là có rất nhiều dầu ở ngoài vùng ấy. Tôi tính nếu có vấn đề năng lượng, nếu có nhiều dầu, chắc chắn Hiệp Chủng Quốc sẽ phải hỗ trợ cho Việt Nam – Chỉ vì vấn đề này. Tôi không nghĩ đến ba cái chuyện bảo vệ tự do dân chủ gì cả, tôi nghĩ toàn bộ cuộc chiến này chẳng là cái gì khác ngoại trừ một đường lối kiếm tiền. Tôi tính ra với khối lượng dầu lửa ấy, một đống tiền, chắc chắn người ta sẽ phải bảo vệ họ vì mớ dầu ấy.
Tôi thản nhiên, không bồn chồn lo lắng, cho tới một tháng trước khi đi. Đó là khi Đà Nẵng sụp đổ.

Một cô em họ của vợ tôi sống tại vùng Đà Nẵng. Vợ chồng cô có sáu đứa con, chồng làm thầu quân đội, nhặt rác. Cô em vợ tôi chạy vào Saigon một thân một mình cho biết Việt Cộng đã giết hết chồng con cô. Trước đó, người chồng đã bảo cô thu xếp ra đi “Việt Cộng sắp đến, chúng giết tôi mất”, anh ta có nói thế. Tôi không rõ tại sao họ biết, những sự thể xảy ra như vậy. Chúng đã giết anh và cả mấy đứa con. Sau đó cô đi đường bộ từ một địa điểm gần Đà Nẵng về suốt đến Saigon. Cô bảo bọn Việt Cộng nổi điên, đã bắn giết dân chúng. Tôi mong cô đến ở với chúng tôi để cùng đi. Nhưng cô từ chối, bảo cô không còn lẽ sống ở đời nữa.

Nhưng chúng tôi cũng đã mang đi được 32 người Việt. Tôi bay về Saigon bằng Hàng Không Việt Nam. Tôi có vé máy bay cho vợ và các con tôi, vì ngay từ trước, tôi đã lo chuyện này. Tôi đến hỏi Lãnh sự Mỹ ở Hồng Kông, vì tôi muốn mang cả gia đình vợ đi, gồm bố mẹ vợ, anh chị em vợ tôi. Nhưng họ đã làm cho tôi phải chạy loanh quanh mãi. Họ bảo: “Ờ được chớ. Đâu có vấn đề gì. Cứ đến tòa Đại sứ Saigon, họ chấp thuận mà. Họ sẽ cho gia đình vợ ông chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ thôi”. Vợ tôi có quốc tịch Mỹ. Tôi bèn đến toà Đại sứ Mỹ ở Saigon. Lúc ấy hãy còn là tháng Ba – họ lại bảo tôi trở về tòa Lãnh sự Mỹ ở Hồng Kông xin thêm giấy tờ nữa họ mới cấp chiếu khán nhập cảnh cho gia đình vợ tôi. Cứ thế, tôi loay hoay chạy đi chạy lại. Cuối cùng vào tháng Tư, tôi đến Tòa Đại sứ Mỹ ở Saigon lần nữa. Bấy giờ chỉ chừng một tuần là mất Việt Nam, tôi đâm hoảng. Tôi bảo: “Lạy Chúa, chuyện gì xảy ra thế? Tôi phải đưa gia đình đi khỏi đây. Vợ tôi không thể bỏ gia đình mà đi được. Bả là công dân Hoa Kỳ. Qúy ông phải giúp cho các công dân Hoa Kỳ đi chớ?” Người nói chuyện với tôi là một tên chó đẻ. Hình như hắn là Phó lãnh sự gì đó ở Saigon. Hắn nói: “Tôi sẽ cho ông một lá thư, mang sang Sở Di Trú Ngoại Kiều của Việt Nam mà lấy chiếu khán. Họ sẽ cấp chiếu khán xuất ngoại cho gia đình vợ ông. Không có gì trở ngại”.

Khỉ mốc. Tôi đến Sở Di Trú, đợi hàng giờ đồng hồ mới gặp được người nhân viên chỉ dẫn Việt nam. Tại xứ này, cần gì cũng phải có tiền. Vào gặp thằng cha Việt Nam mà Phó Lãnh Sự bảo tôi tới gặp, tôi giải thích tại sao tôi đến, thằng chả nói: “Anh nói cái gì vậy?” Tôi đưa ra lá thư bên Tòa Đại sứ cấp cho tôi. Thằng cha cười vào mặt tôi. Hắn nói: “Không rõ ông ta mắc chứng gì. Ông thừa hiểu chúng tôi đâu có cấp chiếu khán xuất ngoại? Chúng tôi có quá nhiều việc phải lo! Tôi đã bảo ông ta đừng làm mất thì giờ chúng tôi với chuyện gửi người tới đây xin chiếu khán xuất ngoại cho người Việt”.

Tôi quay lại gặp viên Phó Lãnh sự, hắn không tiếp. Lại phải gặp một cha khác. Tôi nói “Quỷ thần ạ. Tôi cần chiếu khán xuất ngoại mà họ không cho. Họ nói họ quá bận bịu. Mấy đứa con đẻ của tôi đều có thông hành Mỹ, vậy mà họ không chịu cấp”. Cha này nói: “Chẳng việc gì phải lo. Không có lý do gì lại hoảng lên như thế về chuyện phải đưa gia đình đi đâu cả”. Tôi nói: “Người ta đang di tản, tôi cần phải có chiếu khán xuất ngoại”. Hắn nói: “Không, chẳng có chuyện di tản di tiếc gì sất”. Lạy Chúa tôi, bấy giờ chỉ còn một tuần lễ nữa, cái đất nước khốn nạn ấy sẽ sụp đổ. Vậy mà thằng chả vẫn lẻo mồm đến thế. Tôi nói: “Giêsu Ma, ông bảo tôi không có chuyện di tản. Vậy chớ bao nhiêu công ty Mỹ đều đã đi sạch. Ngân hàng “Bank of America” cũng đi rồi. Các công ty thầu xây cất cũng đã đi. Vậy chớ bao nhiêu người đang đứng sắp hàng ngoài Tòa Đại sứ làm chi vậy? Chúng tôi là công dân Mỹ. Chúng tôi có thông hành Mỹ. Tôi muốn đưa gia đình tôi ra khỏi đây”.

Thằng chả nói: “Bận lắm, đừng mất thì giờ. Không có chuyện gì. Không di tản lôi thôi gì. Ông lo lắng quá độ. Chúng ta không bỏ Việt Nam đâu”.

Rồi tôi quay lại lần nữa. Tôi nghĩ bấy giờ là ngày hai mươi tư, lộn xộn không thể tả. Cả một đống người Việt, người Mỹ bu đến chỗ khốn nạn ấy. Tôi xin thề tôi không nói láo – ít nhất có đến bốn trăm con người sắp hàng ở Tòa Đại sứ. Chúng tôi phải đợi đến bốn giờ đồng hồ. Họ không cho tôi gặp ai, cuối cùng mới gặp được một cô Việt Nam làm việc ở đấy. Cô gái Việt Nam này tử tế hết sức. Cô ta nói quả thiệt mọi người đang đi. Họ cũng có hứa với các người Việt làm ở Tòa Đại sứ là khi ra đi, họ sẽ mang những người ấy theo.

Tôi nói: “Vâng, quỷ thần ạ. Tôi nghĩ họ nên làm như thế. Họ nên đưa đi tất cả những người Việt nào đã làm cho Mỹ”. Tôi nói với cô rằng tôi đang cố sức đưa gia đình đi đây. Cô bèn chỉ cho tôi mấy cái mẫu đơn mà nói: “ Đây, đây là những mẫu đơn phải điền vào rồi đóng dấu, mang ra Tân Sơn Nhất mà di tản”. Thế là tôi chụp lấy một mớ. Cô cũng cho tôi một mẫu đơn đã đầy đủ, có đóng triện Tòa Đại sứ cẩn thận. Tôi chạy ngay tới một nhà in, biểu họ rằng: “Tôi cần tức khắc một cái con dấu giống hệt như vầy”. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, họ làm xong. Tôi bèn nhái chữ ký giống y như trong cái mẫu đơn cô ta đưa. Thế là tôi điền hết tên tuổi mọi người trong gia đình vợ tôi, hàng xóm nhà tôi, cả bạn bè nhà tôi, tổng cộng ba mươi hai người Việt.

Nhưng rồi làm sao vô Tân Sơn Nhất? Tất phải cho tiền bọn lính gác. Không tiền làm sao vô nổi. Tôi còn phải mang thêm một số người Việt phụ trội nữa: Một viên Đại tá Việt Nam làm trong Tân Sơn Nhất biểu tôi “Tôi có thể đưa ông vào, nếu ông chịu đưa gia đình tôi đi”. Tôi nói “Tốt thôi, tôi có thể đưa ai là đưa mà”. Thế là hắn cho chúng tôi vào.

Chúng tôi đẩy cả ba mươi hai người vào ba xe lái vào Tân Sơn Nhất. Trời nóng hơn địa ngục. Chúng tôi đều đói, khát mà chẳng lấy đâu đồ ăn thức uống. Đến khi vào trong, họ mới cho chút nước thấm giọng.

Tòa Đại sứ Mỹ chỉ là một bọn cứt. Lũ chính trị gia khốn nạn! Nhưng không quân Mỹ thì tuyệt vời. Bấy giờ người ta phải trình mấy tấm giấy cho các nhân viên không lực làm thủ tục di tản. Một tay sĩ quan không quân hỏi: “Tốt lắm, thưa ông Lumm, ông có biết rằng ông chỉ được phép đưa đi các thân nhân trực hệ của công dân Mỹ không?” Thưa quý vị, lúc đó tôi có mang theo cả một ông cha Công giáo, đã hơn tám mươi tuổi. Tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ đều ghi rành rành trong mẫu đơn. Tay Sĩ quan hỏi: “Tất cả những người này đều là thân thích của ông cả phải không, ông Lumra?” Tôi đáp “Ừa, phải đấy. Hoặc liên hệ trực tiếp, hoặc do thủ tục nhận làm con nuôi”. Anh ta nói: “ Vậy chớ cái con quỷ gì đây? Ông Linh mục này đã hơn tám mươi tuổi rồi mà?” Tôi đáp: “Ừa, con nuôi tôi đấy” Anh ta phá lên cười, bảo “Ô kê, ô kê, vào cả đây. Chúng tôi sẽ tận tụy phục vụ để đưa quý ngài ra đi!”.

Nguyên tôi không định di tản kiểu này, vì lẽ tôi đã có vé máy bay Hàng Không Việt Nam. Tôi chỉ định đến đó đưa gia đình vợ tôi và những người ấy đi cho chắc thôi. Tôi định đưa họ vào, ký giấy tờ rồi mang vợ con ra, đi bằng Hàng Không Việt Nam. Nhưng mấy cha không quân bảo tất cả máy bay dân sự đều hủy rồi. Không còn máy bay dân sự nữa. Tôi nói: “Mẹ kiếp, làm gì được bây giờ?” Tôi đang có việc làm ở Hồng Kông. Bấy giờ tôi làm cho hãng DHL, một công ty dịch vụ thông tin, hãng này có một trụ sở tại Hồng Kông, và một tại đảo Guam.

Chúng tôi nằm đấy đợi hai ngày trời. Cuối cùng họ cho một chiếc xe buýt – riêng cho chúng tôi – cả thảy 32 người Việt, thêm vợ tôi và tôi. Ông tài xế người Việt cũng đang cố ra đi. Muốn đến máy bay thì phải qua một trạm gác có lính Việt Nam, đến đấy họ bắt xe ngừng. Đàn bà không sao, nhưng trên xe có mấy người đàn ông ở trong quân đội. Họ ngừng xe lại, bắt mở cửa. Tôi bảo vợ tôi dịch cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra. Gã tài xế phân bua : “Không. Tôi có đi đâu đâu? Tôi chỉ lái xe cho người ta”. Họ lôi gã tài xế xuống. Thường các xe buýt của không quân Mỹ đều có tài xế lái. Số xui, chẳng may chúng tôi lại gặp một tài xế Việt Nam. Thế là một tên lính nhảy lên xe, định chui đầu vào. Bấy giờ, chả rõ vì sao tôi hóa ra can đảm thế, nhưng thực ra tôi đã suýt ỉa trong quần. Như một thằng khùng, tôi nhảy lên, chặn cửa lại, quát: “Anh không được phép vào xe buýt này. Đây là tài sản chính phủ Hoa Kỳ. Còn đây đều là nhân viên của Hoa Kỳ”. Tôi nói lung tung mấy chuyện cứt ỉa như thế. Thằng cha cũng không hiểu tôi nói gì. Hắn lôi cái máy truyền tin ra, vợ tôi dịch lại cho tôi nghe hắn nói gì. Hắn gọi một cha Đại úy để báo cáo là mấy tên Mỹ không chịu cho hắn vào xe buýt khám.

Cha Đại úy bảo “Vậy phải bàn chuyện này. Lại đây”. Tên lính bước đi để nói chuyện với tên Đại úy của hắn.

Cả đời tôi chưa hề đụng đến tay lái một chiếc xe lớn nào. Tôi cũng không biết lái xe số tay. Cái xe buýt cứ nằm chình ình nổ máy. Không một ai trên xe biết lái cả. Đúng lúc ấy, một xe buýt khác chạy tới. Một chiếc xe trống, không hành khách. Người lái xe là một không quân Mỹ. Mỹ đen. Chúa ạ, yêu biết mấy khi nhìn cha đó. Giá ngày nay gặp lại cha này, tôi sẽ ôm thắm thiết. Anh ta dừng xe hỏi “Chuyện gì thế?” Tôi đáp “Lạy Chúa rất thánh, chúng nó sắp bắn hết chúng tôi đây”. Tôi cho anh ta biết chuyện đang xảy ra. Lúc ấy tên lính đang quay lại. Hắn thét lên: “Tốp, tốp! Ngừng lại, ngừng lại”. Vì lẽ anh không quân đã nhảy vào trong xe buýt rồi. Anh chàng không quân trả lời: “Đù mẹ các cậu” rồi tuôn xe chạy. Họ nổ súng bắn. Đù mẹ quả thật họ nổ súng bắn chúng tôi!

Thật tức cười, khi bước vào máy bay. Các cô gái trẻ sợ te tua, họ e không vào lọt. Tôi chả biết cái máy bay ấy nó là thứ máy bay gì. Nó có cái đuôi thòng xuống, người ta chui vào qua lối ấy. Máy bay lại chẳng có ghế ghiếc gì, cứ vậy ngồi bệt lên sàn. Khi chiếc xe buýt dừng lại, chưa bao giờ trong đời tôi thấy người ta chạy nhanh như thế. Mấy thằng nhỏ vọt khỏi xe buýt, chỉ mấy giây đồng hồ chúng đã tuôn vào trong máy bay. Chúng tôi ai nấy đều khiếp vía, thiệt hết nói.

Quý vị hiểu không, bấy giờ quả thực tôi nghĩ nếu chúng tôi kẹt lại là bị giết sạch cả.

Họ đưa chúng tôi đến Guam. Đầu tiên họ bảo không ai được phép dời đi hết. Tôi nói: “Quỷ tha ma bắt! Tôi là công dân Hoa Kỳ chớ bộ. Tại sao tôi lại không được đi? Có phải lính tráng gì đâu chớ? Xem thông hành đây”. Họ bèn cho tôi đi. Tôi tới văn phòng hãng DHL ở Guam. Tôi hỏi: “Bây giờ phải làm gì nào? Đây, tôi đang có mặt ở Guam.” Họ bảo: “Chúng tôi sẽ thu xếp cho ông về lại Hồng Kông”. Thế là tôi bèn đóng vai thông tín viên cho Hãng DHL. Rồi tôi trở lại Hồng Kông như thế đó.

Chương 14: Về Phía Nixon

JOHN H. TAYLOR
(Phụ tá của Tổng Thống Nixon)

“Ngày đau buồn nhất”

Vào lúc Saigon sụp đổ, Tổng thống Nixon đang sống tại San Clemente. Ông có nói với tôi và nhiều người khác rằng ngày Saigon sụp đổ là ngày đau buồn nhất đời ông – Sau ngày ông từ nhiệm chức vụ Tổng thống. Như ông đã vạch ra trong cuốn No More Vietnams “Không còn những Việt Nam nữa”, là cuộc chiến này thất bại không phải vì các chiến sĩ của chúng ta. Lý do chính là vì Quốc hội đã từ chối không cung cấp quân viện cho đồng minh Nam Việt Nam của chúng ta theo thoả ước Ba Lê năm 1973 đã ấn định cho phép cung cấp số quân viện ấy ngang với số quân viện mà Liên Xô cung cấp cho miền Bắc. Ngay lúc ấy, ông tiên đoán quyền lợi Hoa Kỳ trên thế giới sẽ còn bị thiệt hại hơn là thiệt hại của dân tộc Đông Nam Á. Lời tiên đoán của ông, chẳng may đã được chứng minh đúng vào thời khoảng từ 1975 đến 1980, khi hơn 100 triệu người đã bị thất bại với Cộng sản, hay bởi Tây phương, vì nỗi lo sợ “một trường hợp Việt Nam khác” của Quốc hội, của giới truyền thông, của chính quyền Carter và chính quyền Ford.

Nỗi đau buồn của ông về sự sụp đổ Saigon càng sâu đậm hơn, vì lẽ một trại chuyển tiếp chính của tỵ nạn Việt Nam được thiết lập ở Camp Pendleton, nơi rất gần nhà ông tại San Clemente. Ông thường lái xe đi ngang qua trại tỵ nạn này, và ông đã diễn tả với tôi một cách sinh động mỗi khi nhìn thấy trẻ con chơi đùa, khi thấy những người đàn bà đem quần áo ra phơi ở khu vực tạm trú của họ.

PHẦN THỨ HAI: NGƯỜI VIỆT


Chương 15: Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà
ĐẠI TÁ LÊ KHẮC LÝ
“Tôi là người độc nhất còn lại để kể chuyện cho quý vị.”

Vào năm 1974 có lần tôi đến trình diện tướng Phạm Văn Phú tại tư thất của ông ở Pleiku. Tướng Phú gọi tôi đến thảo luận một số kế hoạch. Điều đầu tiên ông nói là ông muốn di chuyển Bộ Tư Lệnh Quân Khu II tại Pleiku xuống Nha Trang. Ông hỏi tôi nghĩ thế nào? Tôi trả lời: “Tôi nghĩ đây không phải là một ý kiến tốt. Tôi ở vùng này khá lâu, đủ để hiểu tại sao chúng ta đóng Bộ Tư Lệnh tại đây. Chính Tổng thống Ngô Đình Diệm là người đã cho khai phá và phát triển vùng này. Ông Diệm có nhiều lý do chính đáng. Ông có ý đưa ảnh hưởng quân đội lên trấn ngự vùng cao nguyên. Đây là một khu then chốt, một khu vực chiến thuật trọng yếu, một khu vực canh nông với đất đai màu mỡ. Muốn đất nước giàu mạnh, phải sử dụng vùng này. Nay nếu Thiếu tướng rời khỏi đây, dân chúng sẽ di chuyển theo. Vùng này bỏ trống, Cộng sản sẽ đến. Khi kiểm soát được vùng này, chúng sử dụng làm căn cứ thì chúng ta sẽ mất tất cả miền Nam. Vậy nếu Thiếu tướng ở lại, dân chúng sẽ ở lại. Cộng sản có đến chăng nữa cũng phải khốc liệt lắm mới lấy được vùng này khỏi tay chúng ta. Thiếu tướng không thể cho không bọn Cộng sản vùng đất này!”
Quân Khu 2 là một vùng rất rộng, trong đó chúng tôi có mười bốn tỉnh. Nhưng chúng tôi chỉ có hai Sư đoàn, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23. Vùng bình nguyên thuộc Quân Khu 2 cũng là một vùng rất trọng yếu về kinh tế và kỹ thuật.
Nhưng tướng Phú muốn di chuyển. Ông bảo: “Đóng ở đây là đóng Bộ Tư Lệnh quân đoàn ở tiền phương, mà binh đội lại đặt ở hậu cứ.” Tôi nói “Điều ấy rất đúng! Nhưng bây giờ nếu Thiếu tướng rục rịch gì ở Bộ Tư Lệnh là dân chúng cũng sẽ hoảng sợ mà di chuyển theo Thiếu tướng ngay.”
Sau hiệp định Ba Lê 1973, dân chúng luôn xem chừng quân đội. Hễ quân di chuyển đến đâu, dân di chuyển đến đấy. Họ thấy hiệp định Ba Lê không phải là một hiệp định ngưng chiến. Có điều gì dối trá ẩn giấu đàng sau. Dân Việt Nam biết kế hoạch của Kissinger. Họ biết tại sao Kissinger đã ký hiệp định này, dù không có thuận ý của chính quyền miền Nam. Dân chúng luôn tụ tập ở những địa điểm có đặt trụ sở các Bộ Tư Lệnh cao cấp. Khi các Bộ Tư Lệnh cao cấp di chuyển, mặc dầu vẫn để lại các trụ sở cấp dưới, nhưng đại đa số dân chúng sẽ vẫn cứ di chuyển theo bộ tư lệnh cao cấp, bỏ địa điểm cũ thành những nơi gần như hoang vắng.
Cao nguyên có một khối lượng dân đông đảo. Nếu họ di chuyển, Cộng sản sẽ có nhiều cơ may tiến vào. Dân không muốn bị bỏ lại với Cộng sản. Họ xem chừng và để ý tướng Phú rất kỹ. Nhưng tướng Phú thường hay ở Nha Trang. Nhiều người bảo tôi rằng ông ấy sợ. Tôi nghĩ có lẽ đúng. Ông từng bị bắt làm tù binh trong trận Điện Biên Phủ 1954, cho nên cứ nghĩ đến Việt Cộng là ông ấy đã đủ sợ. Tôi không có lòng tin nơi tướng Phú mỗi khi chúng tôi đụng trận.
Lúc ấy, ông quyết định không rời Bộ Tư Lệnh Quân khu nữa, nhưng cá nhân ông đã chuyển một số lớn của cải và đưa cả gia đình đi Nha Trang, hầu hết nhân viên cũng đi theo với ông. Tôi là người phải điều động mọi việc ở Pleiku. Đây là sự thực. Tôi không hề có ý khoe khoang.
Tướng Phú có mâu thuẫn cá nhân với hai ông tướng khác: Tướng Trần Văn Cẩm, trước là Tư lệnh Sư đoàn 23 dưới quyền tướng Nguyễn Văn Toàn. Khi tướng Toàn đổi đi, ông Cẩm trở thành phụ tá hành quân cho tướng Phú. Một người nữa là tướng Phạm Duy Tất, trước là Sư đoàn Trưởng Sư đoàn 21. Sau trở thành phụ tá Bình Định ở Nha Trang. (*)
Tướng Phú không thích cả hai ông này. Không có sĩ quan chấp hành, tướng Phú bèn tự đặt ra một số nhân viên riêng. Trưởng phòng Tổng quản trị của tướng Phú, Trung tá Trần Tích là người phụ trách bổ nhiệm sĩ quan vào các chức vụ thân cận của tướng Phú. Trung tá Tích làm việc rất chặt chẽ với vợ tướng Phú. Còn tôi chỉ biết lo điều động những chuyện hành quân, tình báo và tiếp vận của vùng cao nguyên mà thôi.
Tôi nghe quá nhiều dư luận về những chuyện bổ nhiệm này, trong ấy có điều đúng, cũng có điều thổi phồng. Tôi đã nghe nhiều chuyện về việc người ta đưa tiền cho vợ tướng Phú để mua chức vụ. Những chuyện này rất nản, làm người ta xuống tinh thần, nhưng làm gì được bây giờ? Báo cáo cho Tổng thống Thiệu chăng, nhưng như thế cũng chẳng kết quả gì, vì lẽ chính ông Thiệu cũng đã bị mua chuộc. Tôi bảo với các sĩ quan của tôi rằng tôi bịt miệng, che tai. Tôi chỉ cố làm cho tròn bổn phận một cách tốt đẹp. Tôi không muốn quan tâm đến các chuyện khác.
Về vụ tấn công Ban Mê Thuột: Chúng tôi biết chuyện ấy sẽ xảy ra. Tuy không biết đích xác lúc nào, và lực lượng Cộng sản có bao nhiêu, nhưng chúng tôi biết chuyện ấy sẽ đến. Đại tá Trịnh Tiếu, sĩ quan tình báo của tôi – hiện đang ở trong trại cải tạo tại Việt Nam – lúc ấy đã thảo luận với tôi về sự kiện một sư đoàn Bắc Việt có mặt tại vùng cao nguyên đang di chuyển. Chúng sẽ tấn công một địa điểm nào đó. Nhưng khi báo cáo tướng Phú, ông cho rằng chúng sẽ tấn công Kontum hay Pleiku. Ông đã tập trung quân lực để phòng vệ những vùng này. Ông Tất, Chỉ huy Biệt Động quân Vùng II, bạn đồng khoá với tôi, hiện cũng đang ở trại cải tạo tại Việt Nam, là người trách nhiệm phòng thủ Kontum và Pleiku. Kontum rất dễ tấn công. Còn Pleiku là căn cứ Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Tấn công những địa điểm này sẽ là một chiến dịch tuyên truyền chính trị thuận lợi cho địch quân. Tuy nhiên sĩ quan tình báo của tôi và cá nhân tôi hoài nghi giả thuyết này. Nếu địch muốn tuyên truyền, họ sẽ tấn công vào các toà hành chánh tỉnh. Nếu đánh Pleiku, họ không thể tấn công toà tỉnh. Và nếu họ tấn công chúng tôi, là sẽ có ngay các lực lượng tăng cường đến từ Sàigòn. Vì thế chúng tôi đặt Ban Mê Thuột lên đầu bảng liệt kê các mục tiêu mà Cộng quân có thể tấn công tại vùng II.
Nhưng khi tướng Phú quan sát Ban Mê Thuột, ông vẫn cho rằng Ban Mê Thuột có thể giữ được nếu bị tấn công. Ông tin địch quân không thể vào tỉnh. Phần tôi, không thấy có đặc công ở đấy. Còn chiến xa Bắc Việt, đối với chúng tôi không quá quan trọng, vì lẽ chúng tôi có không quân, Bắc Việt thì không.
Cuối cùng khi Cộng sản tấn công Ban Mê Thuột, ai nấy hoảng hốt. Khi chúng tấn công vào, tướng Phú đang ở Nha Trang. Vì thế tôi quyết định dàn quân lên Ban Mê Thuột. Tại đấy chúng tôi đã có Trung đoàn 53, và chúng tôi cho Biệt động quân tăng cường.
Trong một cuộc không kích của phi cơ chúng tôi, chẳng may đụng lầm Bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 23, phá tan tất cả hệ thống truyền tin. Khi phải tái phối trí trận truyến, chúng tôi chiếm được một nửa thành phố. Vì Bắc quân quá mạnh trong thành phố, chúng tôi tiến chiếm thành phố một cách chậm chạp. Chúng tôi sợ bị mai phục. Rồi chính lúc ấy Sư đoàn Trưởng Sư đoàn 23 đã cho lính giữ an ninh để trực thăng đáp xuống bốc vợ ông và gia đình ông. Thật sỉ nhục. Trách nhiệm ông là chỉ huy chiến dịch tái chiếm Ban Mê Thuột, nhưng chỉ vì lo lắng cho sự an nguy của vợ mà ông đã đặt bãi đáp, ra lệnh cho binh sĩ tấn công phải quay lại bảo vệ vùng này trước! Quân Bấc Việt đã quan sát được. Khi ông ta làm thế thì Bắc quân khép chặt thành phố. Ông đã cho địch quá nhiều thời gian. Ông cho chúng một cơ hội tốt, rồi sau đó ông đã tiến quân rất chậm!
Đó là một lỗi lầm đáng trừng phạt. Ông đã bất tuân thượng lệnh. Nhưng ai sẽ là người quyết định về ông ta? Tướng Phú, hay Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng liên quân? Sau này tôi đối diện với ông ta. Ông bảo trực thăng của ông bị bắn tỉa, ông bị thương. Ông giải thích tất cả binh sĩ đã ra khỏi trực thăng đi lo cho gia đình riêng của họ. Ông không thể kiểm soát họ được. Chúng tôi là bạn lâu năm, tôi bèn nói: “Tướng Tường, ông là Tư lệnh Sư đoàn, tại sao ông không bắn chúng nó?”. Ông ta không trả lời.
Phần Tướng Phú thì bay trở lại Pleiku quan sát tình hình. Lúc ông ở trong trung tâm hành quân với tôi thì nhận được một cú điện thoại từ Sàigòn do Tổng thống Thiệu gọi. Ông Thiệu bảo muốn gặp tướng Phú ngày hôm sau, tức là 14 tháng 3/1975 tại Cam Ranh.
Tôi bèn chuẩn bị các đồ biểu thuyết trình, các bản báo cáo tình hình cho buổi họp. Chúng tôi nghĩ Tổng thống Thiệu muốn biết diễn tiến các cuộc hành quân ra sao. Sáng hôm sau, ông Phú bay xuống Cam Ranh gặp ông Thiệu.
Sau khi gặp tổng thống, đêm ấy ông Phú trở về triệu tập một buổi họp tại Pleiku. Hiện diện trong buổi họp gồm có: Tướng Phú, tướng Cẩm, tướng Phạm Ngọc Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, ông Tất và tôi. Vừa bước vào phòng họp, điều đầu tiên ông Phú nói là ông đã được ông Thiệu chấp thuận thăng chức cho ông Tất. Ông gắn sao cho ông Tất. Chúng tôi vỗ tay.
Xong, ông loan báo: “Chúng ta sẽ triệt thoái khỏi Pleiku và Kontum!”
Nghe ông nói như vậy, tôi mở mắt thật lớn. Tôi nghĩ có lẽ mình nghe không rõ. Nhưng ông giải thích: Chúng ta rút lui chiến thuật để tái phối trí chiếm lại Ban Mê Thuột. Ông Cẩm, ông Sang, ông Tất và tôi đều ngồi sững. Chúng tôi véo nhau. Tôi tự nghĩ: “Cần phải hỏi xem chúng tôi sẽ triệt thoái cách nào.” Tôi lên tiếng hỏi. Ông Phú đáp: “Quý ông sẽ sử dụng đường 7B.” Phản ứng tức khắc của tôi là bảo: “Thưa Thiếu tướng, không thể được!” Ông Phú bảo: “Tổng thống đã quyết định. Chúng ta không có sự lựa chọn, bởi vì chúng ta cần đạt yếu tố bất ngờ với địch quân.”
Tôi bảo: “Thưa Thiếu tướng, tôi sống khá lâu ở đây. Tôi biết rất rõ vùng này. Đường 7B đã bỏ phế từ lâu. Lực lượng Đặc biệt Mỹ, Lực lượng Đặc biệt Việt Nam, và cả địch quân đều đã hành quân trong khu vực ấy. Họ đã gài mìn khắp nơi. Nếu phải triệt thoái với các quân cụ quân dụng nặng nề, trước tiên phải khai quang mìn trên đường, nay ai còn có thể biết mìn đặt chỗ nào? Rồi lại phải sửa đường, làm gì có thời gian sửa chữa? Ngoài ra khi chúng ta quyết định triệt thoái là mọi người sẽ biết, chẳng còn gì bất ngờ nữa! Xin đề nghị Thiếu tướng nếu phải triệt thoái, hãy sử dụng quốc lộ số 19 mà đi thẳng. Sẽ phải chấp nhận một số tổn thất, nhưng như thế chúng ta mới có thể qua được.”
Tướng Phú bảo: “Không. Tất cả quyết định rồi! Quý ông không lựa chọn gì nữa. Sáng mai tôi bay đi Nha Trang. Quý ông sẽ có ba ngày để lo triệt thoái!” Tôi bảo: “Thưa Thiếu tướng, làm sao được? Chúng ta có bao nhiêu binh sĩ, bao nhiêu là đồ tiếp liệu và quân cụ. Phải ít nhất ba tuần lễ chúng tôi mới hoạch định nổi.”

Ông ấy bảo: “Tất cả những điều ấy cũng đã quyết định xong.” Tướng Cẩm và tôi bèn hỏi thế còn Địa phương quân, Nghĩa quân, các nhân viên hành chánh xã, tỉnh và dân chúng thì sao? Tướng Phú nói: “Quý ông đừng phải lo gì cho họ cả. Quên đi!”
Tôi hỏi ông ấy đã nói chuyện với người Mỹ, các nhân viên Trung ương Tình báo và văn phòng Tùy viên Quân sự của Hoa Kỳ trong vùng chưa? Và tôi không bao giờ quên điều này: Ông nhìn thẳng vào tôi mà bảo “Hãy quên bọn Mỹ đi. Đừng nói với gì với người Mỹ cả.” Đó là đích xác những lời ông ấy nói. Tôi rất xấu hổ mà kể cho quý vị nghe sự thực đã xảy ra ở Pleiku như vậy. Tôi không tin nổi chuyện ấy. Tướng Phú đã dự định bỏ rơi cả những người Mỹ, không báo động cho họ biết về cuộc rút quân này.
Lệnh thực ra là từ Tổng thống Thiệu. Tất cả những gì tướng Phú nói với tôi, ông bảo đều do ông Thiệu nói. Trong năm người tham dự buổi họp, giờ đây chỉ còn lại một mình tôi để kể câu chuyện này tại Mỹ. Ông Phú tự sát. Ông Sang, ông Cẩm, ông Tất giờ đây đều bị giam tại các trại cải tạo ở Việt Nam. Còn lại tôi là người độc nhất để kể câu chuyện này cho quý vị.
Ông Phú nói ông phải làm như vậy vì ông tuân hành lệnh. “Quý vị khỏi lo lắng gì chuyện này,” ông nói. Ông có vẻ rất bối rối khi nói và hiện rõ vẻ bất đồng ý kiến với lệnh trên.
Tôi được chỉ định làm sĩ quan chỉ huy triệt thoái. Ông Tất phụ trách các lực lượng chiến thuật, toàn bộ hệ thống truyền tin và tiếp vận. Tôi tự bảo “Trời! khổ cho tôi.”
Tám giờ sáng hôm sau, tướng Phú ra đi. Ông dùng máy bay, bay đi. Còn lại mình tôi lo liệu. Một lát sau, từ Sàigòn tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu Trưởng liên quân điện thoại, hỏi: “Tướng Phú đâu?” Tôi bật cười vì sự thể quá lố bịch. Tôi tự hỏi “Nói gì bây giờ? Nên nói thực hay nên chống chế cho ông Phú đây?”
Tôi bèn bảo: “Tôi không được rõ. Hiện tôi không có liên lạc gì với Tướng Phú cả.” Trung tướng Khuyên tiếp tục gọi nhiều lần nữa. Cuối cùng tôi đành bảo: “Vâng, xin Trung tướng cứ gọi Nha Trang để nói chuyện, ông ấy hiện ở đấy.” Tướng Khuyên hỏi: “Tại sao ông ấy lại ở Nha Trang.” Tôi bảo: “Thưa, tôi không được rõ. Trung tướng cứ hỏi thẳng ông ấy. Tôi hiện đang trách nhiệm điều động công tác ở đây, còn Tướng Phú đang ở Bộ Tư lệnh mới, đặt tại Nha Trang.”
Nhiều Tiểu đoàn Trưởng các binh chủng, nào Thiết giáp, Pháo binh, Quân vận đều đến gặp tôi, họ kêu ầm lên: “Tại sao lại rút? Chúng tôi đánh được, tại sao lại rút? Có việc gì xảy ra vậy?” Tôi chỉ còn có thể trả lời: “Tôi đồng ý với các bạn. Nhưng đây là lệnh Tổng thống và Tổng Tham mưu. Là quân nhân chuyên nghiệp, chúng ta làm gì được bây giờ? Bất tuân lệnh hay sao? Tất nhiên là không. Tôi biết là sai, nhưng đây là lệnh. Chúng ta muốn khởi loạn hay sao?”
Lúc ấy tôi tin thượng cấp đã có một kế hoạch mật mà chúng tôi không được rõ. Họ không thể ngu xuẩn đến như thế. Có lẽ đã có một sách lược mà vì không ở cấp chỉ huy tối cao, nên chúng tôi không được biết. Tướng Cẩm và tôi bàn bạc về cuộc rút quân điên rồ này. Chúng tôi ngồi cười. Ông Cẩm bảo: “Tôi cá với ông: đã có thỏa thuận rồi, mình khỏi đánh giặc nữa. Tôi cá là chiến tranh đã xong!” Tôi bảo: “Tôi ngờ lắm.” Nhưng ông ta nói: “Tôi suy đoán như vậy vì ở đây dẫu xảy ra bất cứ một cuộc tấn công nào, chúng ta cũng có thể đương đầu ít nhất ba tháng. Cho nên tôi cá với ông là đã có thỏa thuận, lần này mình có hoà bình thực sự. Tôi không rõ, nhưng tôi cũng cảm thấy như vậy.”
Tướng Cẩm cũng dùng máy bay, bay đi. Chỉ còn ông Tất và tôi trong Bộ Tư lệnh. Tôi tự nhủ người Mỹ đã là đồng minh chúng tôi trong bao năm trời. Diễn tiến này rất trọng hệ, mà họ lại không được biết gì. Tại sao chúng tôi không cho họ hay? Đó là lý do tại sao tôi đã gọi cho họ, bảo họ chúng tôi sắp triệt thoái. Họ hoàn toàn không hay biết gì.
Tôi báo cho các nhân viên Trung ương Tinh báo và Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ trong vùng là chúng tôi sắp rút quân. Họ không tin nổi khi tôi nói với họ như thế. Họ liên lạc Sàigòn, kiểm chứng, rồi tìm ra đó chính là sự thật. Nhờ vậy, họ đi thoát bằng máy bay, nên tôi đã được coi là có công trạng với Trung ương Tình báo Hoa Kỳ tại Sàigòn, tên tôi được lên đầu danh sách những người sẽ được giúp đỡ nếu Sàigòn sụp đổ.
Cuộc triệt thoái khởi đầu tiến triển tốt. Vào giây phút cuối, trực thăng của tôi bị hỏng máy, nên tôi đã đi cùng với đoàn xe ra khỏi Pleiku. Triệt thoái luôn luôn là một chiến dịch khó khăn, đòi hỏi nhiều tính toán cẩn thận, tỉ mỉ. Tôi chỉ có ba ngày để rút 100,000 người, và tôi không thể bỏ ai được. Dân chúng sinh sống chung quanh đáng được chúng tôi phải lo lắng săn sóc cho họ. Và dù tôi không bảo vệ nổi, họ vẫn đi theo. Rồi chỉ trong một thời gian ngắn, mọi sự bắt đầu ra ngoài khả năng kiểm soát của tôi. Các Tiểu đoàn trưởng thuộc quyền tôi không thể nào kiểm soát nổi tất cả mọi người được nữa. Đoàn người tan tành trên đường đến Tuy Hoà. Với thời hạn ba ngày, chúng tôi không thể đủ thì giờ làm được gì. Với thời hạn ngắn ngủi như thế, người ta chỉ còn có thể quyết định: Ai đi trước, ai đi sau, ai đi kế tiếp, thế thôi.
Bây giờ, hàng đêm tôi tưởng như tôi vẫn còn nhìn thấy cả đoàn xe ấy trước mắt. Nào chiến xa, thiết vận xa, xe vận tải nối đuôi nhau, biết bao binh sĩ với gia đình thân quyến vây quanh. Những cụ già ngồi lắc lẻo trên mui xe, những bà mẹ, những trẻ thơ ngủ trong lòng mẹ, nằm duỗi trên tay mẹ. Đôi lúc vài người xấu số chẳng may ngã xuống trong lúc đoàn xe tiếp tục chạy. Họ kêu la thảm thiết, thân hình bị nghiền nát dưới bánh xe. Tôi đã nghe những tiếng kêu la ấy. Tôi đã thấy một chiếc xe vận tải sức chở chỉ có nửa tấn đã nhồi nhét đầy người nên bị lật, những con người bị xe đè xuống nát xương. Tôi đã nghe tiếng xương gẫy. Tôi bất lực chẳng giúp gì được họ. Tôi đã thấy những con người bỏ xác bên đường. Thực là một cơn ác mộng kinh hoàng.
Đến phía tây thị xã Cheo Reo, đoàn xe bị oanh tạc nhầm bởi chính không quân chúng tôi, vô số người thiệt mạng. Tôi vừa vào được căn cứ Cheo Reo thì quân Bắc Việt đã kéo đến vây quanh. Chúng rót trái phá vào. Chỉ còn mỗi một máy truyền tin để gọi Nha Trang trong lúc tôi nằm dưới cơn mưa pháo.
Đơn vị truyền tin của tôi cố liên lạc với tướng Phú ở Nha Trang, thì ông Phú lại đang đi loanh quanh đâu đó. Tôi sử dụng Anh ngữ nói trên máy truyền tin với sĩ quan của tôi, vì lúc ấy địch quân chỉ còn cách căn cứ chúng tôi có khoảng một cây số. Tôi bảo anh ta: “Trình với Thiếu tướng là tình hình ở đây nguy kịch lắm. Hiểu tôi muốn nói gì khi tôi bảo tình hình nguy kịch chứ? Thế thôi! Không thì giờ nói nhiều. Tôi sẽ cố sức. Địch xiết chặt rồi.” Tướng Phú hiểu. Và hai mươi phút sau ông gọi tôi trên máy truyền tin, báo động cho tôi biết một lực lượng địch tại Phú Bổn đang khép chặt vòng vây. Ông Tất cùng với binh sĩ đang ở cách tôi ba cây số. Không quân được lệnh mang tôi ra bằng trực thăng. Thiết giáp được lệnh mở đường bất kể thiệt hại, và ông Tất sẽ đưa quân hỗ trợ.
Ông Phú gửi hai trực thăng đến, để đưa chúng tôi ra Nha Trang. Hỏa lực địch bắn lên dữ dội khi trực thăng hạ cánh. Chiếc trực thăng chở tôi tính ra tổng cộng chở đúng hai mươi bảy người, trong khi chỉ được chế tạo để chở mỗi lần bảy người. Chiếc kia gồm mười chín người. Rồi cũng cất cánh lên được, bay thoát về Tuy Hoà. Chúng tôi rất may mắn đã thoát. Trong lúc ấy tướng Phú vẫn ở Nha Trang.
Sáng hôm sau, tướng Phú điện thoại ra lệnh gọi tôi vào Nha Trang. Tôi bay vào, tổ chức lại Ban Tham mưu và ở đấy mười hai ngày. Rồi một lần nữa, ông Phú lại bỏ tôi cuốn gói đi. Ông dọn sạch nhà cửa, lấy máy bay đưa toàn gia đình đi, không hề nói với tôi một lời. Một hôm, viên Đại úy đến văn phòng tôi gõ cửa nói: “Đại tá, chỉ còn có Đại tá và tôi ở đây! Chẳng còn ai nữa cả!” Tôi bảo “Anh nói gì thế?” Lúc ấy vào buổi trưa, tôi vẫn đang cắm cúi làm kế hoạch tái phối trí binh sĩ. Tôi rất mệt, đang muốn ngả lưng. Nghe nói thế tôi bèn ra khỏi văn phòng, xuống thang gác. Hai nhân viên của tôi đang làm việc, họ báo cáo cho tôi là tướng Phú đã đi mất. Tôi lại nhà tướng Phú, không một ai. Nhà cửa trống rỗng. Tôi hỏi một Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng đang ở đấy là tướng Phú đâu rồi? Anh ta đáp: “Chẳng hiểu chuyện gì. Hiện nhà này không có ai cả, nhưng binh sĩ của tôi vẫn phải giữ an ninh căn nhà. Tôi không biết làm gì đây nữa.”
Tôi tập hợp sĩ quan, binh sĩ vào năm cái xe jeep. Làm gì được bây giờ? Ai nấy đều đã bỏ đi. Người ta bảo có người thấy tướng Phú ngoài phi trường. Chúng tôi lái ra phi trường. Đầu tiên, quân cảnh không chịu cho tôi vào. Sau, họ mở cổng. Khắp chung quanh tôi là lính không quân, tôi gặp cả ông tướng không quân cũng đang dáo dác tìm tướng Phú. Ông ta bảo: “Ông Phú đã đi, rồi ông Lý cũng đi thì tại sao chúng tôi còn ở lại đây. Đi thôi!” Nhưng lúc ấy tôi nào có đi đâu. Tôi chỉ đi tìm người chỉ huy của tôi thôi!
Rồi tôi nhận điện thoại của đại tướng Cao Văn Viên tại phi trường. Ông bảo: “Tướng Phú đâu?” Tôi nói “Tôi không được rõ, chính tôi cũng đang tìm ông ấy!” Ông nói: “Vậy anh cứ ở lại phi trường để kiếm ông ấy cho tôi.” Tôi bảo: “Vâng, tôi sẽ ở đây.”
Chúng tôi đợi chờ trông ngóng mãi vẫn chẳng thấy tướng Phú đâu. Sau bảy ngày không ăn không ngủ, tôi qụy xuống vì suy nhược. Lính và các sĩ quan của tôi bèn đẩy tôi vào một chiếc máy bay trong khi các toán lính khác rút đi. Chiếc máy bay thay vì đi Phan Rang để thiết lập bộ chỉ huy ở đấy, đã bay thẳng về Sàigòn. Khi tôi tới Sàigòn thì tướng Phú đã ở đấy rồi. Tôi về nhà. Hôm sau đi tiểu ra máu, sức khoẻ sa sút. Tôi đi khám bệnh. Bác sĩ cho thuốc, bắt tôi nghỉ ngơi, nhưng tôi vẫn đi làm.
Một lần nữa tôi cố liên lạc tướng Phú để xem phải làm gì. Câu đầu tiên ông ấy bảo tôi là: “Lý ơi, chúng ta bị phản bội rồi.” Tôi hỏi: “Bởi ai vậy?” Ông ta nói: “Bởi Thiệu. Thiệu đã cho chúng ta vào bẫy. Ông ta đã đẩy mọi chuyện cho chúng ta. Ông ta bảo tất cả là lỗi chúng ta. Chính ông ấy ra lệnh cho chúng ta rút quân, bây giờ ông ấy lại tuyên bố mọi sự đều do lỗi chúng ta cả!” Ông Phú muốn chuẩn bị một tờ trình để chứng minh chúng tôi chẳng có tội lỗi gì, để giải thích rõ chúng tôi đã điều khiển các chiến dịch ấy như thế nào, tại sao chúng tôi không lấy lại Ban Mê Thuột, tại sao chúng tôi triệt thoái. Vì thế tôi sửa soạn một tờ trình dầy cộm cho tướng Phú.
Tôi đến thăm tướng Phú và tướng Trưởng, Tư lệnh vùng 1, bấy giờ đang ở trong bịnh viện. Tướng Trưởng ôm lấy tôi mà khóc. Ông bảo: “Lý ơi, chúng ta mất hết fôi!” Tướng Trưởng yêu đất nước, yêu đồng đội và yêu Quân đoàn I của ông. Nhưng bây giờ, tất cả không còn gì nữa.
Khi gặp lại tướng Phú, tôi thấy ông đang giận dữ. Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến ông giận dữ tổng thống. Sau khi trao cho ông tập báo cáo tôi đã soạn xong, ông ký tên, tôi đi gặp tướng Khuyên để đưa tờ trình này cho ông Thiệu và ông Cao Văn Viên. Nhưng sau đó, không bao giờ tôi nghe nói gì về tờ trình này nữa.
Tôi hỏi tướng Khuyên: “Chúng ta phải làm gì bây giờ. Chúng ta đã mất tất cả chưa?”. Ông nói: “Không. Chúng ta sẽ tập trung lại, vạch lại ranh giới, ông sẽ nắm lại Quân đoàn II.”
Nhưng tôi tự nghĩ ông tướng này không nói hết sự thật. Bây giờ chúng tôi không còn có thể làm như vậy được nữa. Nếu ông ấy bảo thế từ lúc tôi còn ở Pleiku, thì còn có thể được. Bây giờ tôi chỉ huy được ai. Lính thì không, địch đầy rẫy, chỗ nào cũng có địch quân.
Tướng Khuyên hỏi: “Nếu ông ở địa vị tôi, ông sẽ làm gì?” Câu hỏi đột ngột làm tôi chấn động, vì tôi nhận ra rằng tôi không còn có thể nghĩ được bất cứ giải pháp khả thi nào để giải quyết vấn đề của chúng tôi lúc này nữa.
Khi vê nhà, vợ tôi và tôi nghe tiếng phi cơ liên tục cất cánh mỗi đêm. Chúng tôi biết văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ đang di tản người ra khỏi xứ. Tin tức đưa đến chúng tôi mỗi ngày do đó chúng tôi đều biết những ai đã ra đi. Tôi đến gặp một người bạn là Tư lệnh Sư đoàn 2(?) Ông ta và tôi vẫn cố gắng thu thập lại lính tráng để tái tổ chức Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23.(?) ()
Nhưng bỗng lúc ấy, chúng tôi lại nhận được những tin tức toàn là tin tổn thất. Tôi đi gặp tướng Hiếu một cấp chỉ huy cũ của tôi và là một tướng lãnh hết sức lương thiện trong quân đội.
Tôi hỏi tướng Hiếu tình hình Quân khu III ra sao. Ông trả lời: “Chúng ta phải tái tổ chức và nỗ lực mà chặn những cuộc tiến công chiến xa của địch quân”. Vài ngày sau, ông bị giết.
Tôi đi ra đi vào từ Vũng Tàu đến Sàigòn nhiều lần, cuối cùng liên lạc được một số bạn hữu của tôi bên tòa Đại sứ Mỹ. Họ điện thoại bảo tên tôi đã có trên danh sách những người ra đi. Tôi đến tòa Đại sứ Mỹ, vào bằng cổng hậu vì người ta quá đông, họ đã để cho tôi vào. Tôi gặp tướng Charles Timmes, một bạn rất tốt của tôi. Ông bảo ông đã nhận được lệnh Hoa Thịnh Đốn đưa Cao Văn Viên đi, tên tôi được sắp kế tên ông Cao Văn Viên, vì tôi đã cứu được nhiều người Mỹ trên cao nguyên.
Do đó tôi đưa gia đình trực hệ, gồm vợ và các con đến đợi ở điểm hẹn, rồi được đón vào Tân Sơn Nhứt bằng xe buýt tòa Đại sứ. Chúng tôi chờ ở phi trường cho đến hôm sau.
Chúng tôi rời Việt Nam bằng chiếc máy bay C-130, bay đến trại tỵ nạn ở Guam. Đó là ngày 25 tháng Tư.
Khi rời đi, tôi biết tất cả đã mất. Trước kia tôi nghĩ có thể Cộng sản và Mỹ có thỏa thuận, nhưng điều ấy sai. Chúng tôi nghe nói người Mỹ đã bán đứng chúng tôi để kiếm những đồng minh khác.
Tôi nghĩ khi Kissinger đi Trung Quốc bắt tay với Mao Trạch Đông, đấy đã là chung cuộc của Việt Nam. Tôi biết sau đó Việt Nam chẳng còn hy vọng gì. Sau khi người Mỹ đi Bắc Kinh bắt tay với Trung Cộng, họ không cần Việt Nam nữa.
Đối với tôi, đấy là chuyện người ta đã bán đứng chúng tôi. Chúng tôi chẳng có gì để nói về chuyện ấy cả. Tôi nghĩ đáng lẽ Tổng thống Thiệu phải thấy được điều này mà chuẩn bị từ trước. Nhưng ông đã không thấy, do đó đối với tôi, Thiệu không phải là một lãnh tụ giỏi.
Bây giờ đây quý ông thử nghĩ: Nếu quý ông là người Việt Nam và quý ông yêu quê hương xứ sở mình, tất nhiên sẽ phải hỏi tại sao người Mỹ hành xử như thế? Đây chính là câu hỏi mà tôi đặt ra cho người Mỹ: Tại sao người Mỹ đã đối xử với bạn hữu của mình như thế?
Nhiều người bảo chúng tôi đã bị bán đứng. Tôi đành phải buồn bã mà đồng ý đúng là như vậy.

NGUYỄN TRƯỜNG TOẠI
(Thiếu úy Sư đoàn 23)
“Hầu hết đã hy sinh”

Tôi sinh năm 1943 lúc gia đình tản cư trong cuộc chiến tranh chống Nhật. Mẹ tôi người miền Bắc, cha tôi người miền Trung. Vào năm 1951, giữa cuộc chiến tranh chống Pháp, một hôm đi học về tôi thấy mẹ tôi đang khóc. Mẹ tôi bảo cha tôi đã chết ở ngoài Bắc, tại Hà Nội. Lúc ấy tôi mới lên tám. Sau này chúng tôi biết được cha tôi bị Cộng sản giết, vứt xác dưới sông Hồng.

Khi nhận tin cha chết, tôi hãy còn nhỏ. Tôi đau buồn nhưng cũng chóng quên rồi lại tiếp tục đến trường. Năm 1954, tôi nhớ vào thời Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, dưới chế độ Bảo Đại, nhiều người nhà cửa bị đốt cháy, một số đã đến ở với gia đình chúng tôi. Tôi thương xót cho cảnh ngộ của họ, tôi cảm thấy buồn vì những biến cố ấy, nhưng vì ít tuổi, nỗi buồn cũng chóng qua.

Năm 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, bấy giờ tôi đang học đại học. Lúc này tôi đã có ý niệm thế nào là thế giới tự do, thế nào là thế giới Cộng sản. Càng được đọc nhiều, tôi càng ý thức về tình thế.

Cho đến khi gia nhập quân đội vào tháng sáu năm 1968, tôi đã có những tư tưởng phân minh về sự khác biệt giữa Tự do và Cộng sản. Đến khi đọc sách Cộng sản, tôi càng bắt đầu hiểu rõ Cộng sản là ai, họ đã làm gì.

Những người vào lứa tuổi tôi nhập ngũ vì chúng tôi có một lý tưởng, chúng tôi hiểu rõ cuộc sống dưới chế độ Tự do thế nào, cuộc sống dưới chế độ Cộng sản ra sao. Không phải như người ta vẫn cho rằng những người nhập ngũ chỉ vì đến tuổi phải đi quân dịch, không có được một ý tưởng bản thân. Nhưng điều này, hình như người Mỹ chưa bao giờ hiểu thấu.

Một trong những điều đáng buồn và đau đớn nhất mà tôi thấy trước khi nhập ngũ, đó là lúc báo chí đăng tải hình ảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu tên tù Việt Cộng, trong cuộc Tổng Công kích Tết Mậu Thân 1968. Đọc những bài báo của các phóng viên người Mỹ, tôi có cảm tưởng họ không hiểu biết gì về thực tế chiến cuộc, về sự thực diễn ra ở Việt Nam.

Chính tôi là người đã chứng kiến việc tướng Loan bắn tên Cộng sản. Tôi có mặt ở đấy. Tôi biết tên Cộng sản ấy, tôi biết hắn đã làm những gì. Ông có biết hắn đã làm gì không? Năm 1968 ở Sàigòn, giữa cuộc chạm súng, hắn đẩy trẻ thơ vô tội ra như một làn sóng người, để đồng bọn tẩu thoát. Trong trận đánh khốc liệt này, hắn sử dụng trẻ con làm lá chắn, để các binh sĩ phải thôi bắn. Và tướng Loan không thể chịu đựng được. Ông nổi giận về hành vi đê tiện này, nên khi bắt được tên Việt Cộng đang cố tẩu thoát bằng cách núp sau đám trẻ, ông nổ súng bắn ngay tên này tại chỗ. Chính tôi cũng cảm thấy như vậy. Tôi cũng có thể hành động y như vậy. Bản thân tôi trong trường hợp bắt được một tên như vậy, tôi cũng sẽ nổ súng kết liễu ngay loại người ghê tởm ấy.

Nhưng khi tướng Loan bắn tên tội phạm, một phóng viên nhiếp ảnh đã chụp hình. Điều mà người phóng viên làm, điều mà mọi người trên khắp thế giới thấy không phải là tất cả những gì đã thực sự xảy ra. Đó chỉ là một phần nhỏ của những gì xảy ra. Và rồi các cảm xúc tiêu cực sau đó triệt hạ cả cuộc đời sự nghiệp của tướng Loan, như thế thật không công bằng. Lợi dụng trẻ thơ vô tội trong trận chiến, tên Việt cộng xứng đáng bị bắn vì hành vi đồi bại của hắn. Hắn và đồng bọn đã gài mìn, đốt nhà trong khu xóm. Rồi khi lực lượng cảnh sát đến, hắn cưỡng bách trẻ con trong xóm ra làm áo giáp đỡ đạn.

Lúc ấy mọi chuyện đang hỗn loạn. Là tư lệnh cảnh sát, tướng Loan khi nhìn xác trẻ con chết, ông hỏi: “Tại sao vậy? Chuyện gì vậy?” Đến khi biết tại sao mấy đứa bé chết, biết ai chịu trách nhiệm về hành động này, tướng Loan nổ súng hạ tên thủ phạm. Ông đã nhìn thấy tấm hình trên tờ tạp chí Time và tờ Newsweeks chưa? Tấm hình ấy triệt hạ cả cuộc đời và sự nghiệp của tướng Loan. Tôi nghĩ dân chúng Mỹ đã không bao giờ có thể thực hiểu rõ những gì xảy ra ở Việt Nam.

Vào mùa Xuân 1975 tôi là thiếu úy Sư đoàn 23 quân lực Việt Nam Cộng Hoà, đóng ở Pleiku và Ban Mê Thuột. Khoảng tháng Ba, tiểu đoàn tôi tiến vào mật khu Quang Nhiêu, cách Ban Mê Thuột chừng mười bảy cây số. Trong chiến dịch này, chạm trán một nhóm trinh sát Bắc Việt, chúng tôi khai hỏa, giết chết bảy, bắt sống hai. Một trong hai tên bị bắt là sĩ quan. Phía chúng tôi tổn thất bốn. Cùng với việc bắt tù binh, chúng tôi cũng tìm được nhiều tài liệu và tin tức quan hệ. Hai tiểu đoàn 153 và 353 chúng tôi nhận lệnh tiếp tục tiến vào, chúng tôi cho gửi ngay các tài liệu và tù binh về bộ Chỉ huy. Nhưng khi tiến thêm chừng một cây số, chúng tôi có lệnh ngừng và rút quân, vì an ninh quân đội khai thác tù binh, biết được có nhiều đơn vị quân đội Bắc Việt lúc ấy chỉ đóng cách chúng tôi hai ngày đường bộ. Nhưng sự thực, chúng chỉ cách địa điểm chúng tôi có hai cây số, nếu tiến thêm chúng tôi đã bị quét gọn rồi. Vì thế chúng tôi rút về Quang Nhiêu, ở lại bảo vệ địa điểm này.

Như vậy chúng tôi đã biết thực lực quân Bắc Việt. Chúng tôi hiểu tình hình nghiêm trọng, nhưng tôi không nghĩ các sĩ quan ở tỉnh và Tư lệnh vùng biết được tình hình nghiêm trọng là đã có nhiều quân Bắc Việt như vậy ở trong vùng.

Tình trạng rất phức tạp. Tiểu đoàn chúng tôi gồm bốn đại đội. Đại đội tôi là đại đội 1, nhận lệnh trở lại Ban Mê Thuột, vào giữa thành phố để yểm trợ các xe dầu của Sư đoàn 8. Đại đội 2 đến đóng tại bộ Chỉ huy Sư đoàn 23. Một đại đội khác được gửi đến yểm trợ các căn cứ nhẹ của quân đoàn, nhưng đã bị tiêu diệt toàn bộ.

Đêm mùng 9 rạng ngày 10 tháng 3, đại đội tôi có lệnh đến phòng vệ cây cầu trên đường 14 để giữ khai thông con lộ. Nhưng đêm ấy, quân Bắc Việt pháo rất dữ, chúng tôi lâm tình trạng hết sức khẩn trương. Tôi dẫn lính trở ra, nhưng quân cảnh yêu cầu chúng tôi trở lại vị trí để chuẩn bị vì tình hình nghiêm trọng. Mọi việc có vẻ không khá. Tôi nghĩ lúc ấy ai nấy đều biết trước một cuộc tấn công sẽ phải xảy ra.

Quân Bắc Việt xoay trở để chiếm Ban Mê Thuột trong vòng có hai ngày. Tôi đã chứng kiến câu chuyện thất thủ Ban Mê Thuột với tư cách một quân nhân chiến đấu. Và sau đây, tôi xin kể những gì đã xảy ra:

– Đêm mùng 9 tháng Ba, một đoàn xe vận tải chở vũ khí đạn dược tiến đến Ban Mê Thuột. Trước đấy, chúng tôi nghe tin đường Nha Trang – Ban Mê Thuột đã nghẽn, xe cộ không chạy được, tại sao đoàn xe vận tải này đi lọt? Nhưng đoàn xe đến từ Nha Trang vẫn làm chúng tôi yên lòng. Chúng tôi cảm thấy dễ chịu vì tưởng quân đội đã đánh bật được Cộng sản, mở lại đường, cho đến khi khám phá đoàn xe này là của Bắc Việt chứ không phải xe chúng tôi. Đã có địch xâm nhập vào hàng ngũ chúng tôi.

Chúng tôi không bao giờ biết nguồn gốc những chiếc xe vận tải này từ đâu. Nhưng đến chiều mùng 9 tháng Ba, đoàn xe tới Ban Mê Thuật chở đầy võ khí. Rồi có một chuyện gì, vài người biết được, do đó khi tôi dẫn lính ra thì được yêu cầu quay lại. Cũng đêm đó, Bộ Chỉ huy Sư đoàn ra lệnh cho đại đội tôi vào lúc ba giờ sáng để di chuyển lên Bang Dao, nhưng hai giờ sáng thì địch bắt đầu pháo, chúng tôi không cách gì nhúc nhích nổi. Vào khoảng tám cho đến mười giờ sáng, thì kho đạn – không cách chúng tôi bao xa – phát nổ. Cả một nghĩa địa và đồn kiểm lâm gần đấy biến mất, trống trơn. Chúng tôi nhận tin địch có chiến xa T-54 đang tiến đến tỉnh. Tiểu đội chúng tôi vừa ló ra thì đụng ngay nhóm địch gào thét inh ỏi. Chúng nã đạn M72 vào chúng tôi. Lúc ấy, nghe động cơ ầm ĩ, chúng tôi cứ tưởng chiến xa T-54, nhưng sau mới biết là không phải. Thật ra đấy là tiếng động cơ của những chiếc xe be kéo gỗ trong rừng. Địch đã mưu mô đưa xe be vào tỉnh, chúng đặt xe một chỗ, rồi cho nổ máy. Tiếng động cơ xe be rất giống tiếng động cơ T-54 làm lính Việt Nam Cộng Hoà mất tinh thần. Chúng tôi chỉ là một đơn vị nhỏ. Tinh trạng hỗn loạn xảy ra chính vì lầm tưởng quân Bắc Việt đã mang nhiều xe tăng tiến đến.

– Địch chiếm toàn tỉnh trong vòng có hai ngày. Sau đó, tại hậu cứ chúng tôi, khu phi trường Phụng Dực cách Ban Mê Thuột mười cây số, nơi đóng căn cứ của Trung đoàn 53 và Trung đoàn 54, chúng tôi đã chiến đấu ròng rã gần mười ngày. Tỉ số tổn thất của địch nặng hơn chúng tôi. Tỉ số thương vong của địch là bảy so với chúng tôi là hai. Chúng tôi chiến đấu đến khi hết đạn, phải gọi trực thăng tiếp tế. Nhưng đạn bắn quá khốc liệt, các phi công sợ, đã bay quá cao, thả không trúng đích. Họ thả thùng đạn xuống gần phía Cộng quân hơn phía chúng tôi, chúng tôi không thể lấy đạn được. Vì thế chúng tôi đành chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng, rồi hầu hết chúng tôi đều tử trận. Sau, chỉ còn Trung đoàn trưởng là Trung tá An và hai quân nhân sống sót trong cuộc tàn sát này. Tôi là một trong những người sống sót ấy.

Sau này tôi nghe lính nói Cộng quân chặt đầu tất cả những binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà nào hình dáng to lớn hoặc có để râu mép hay râu hàm. Tôi không chứng kiến những chuyện ấy, nhưng nhiều người đã chứng kiến, tôi cũng được nghe lính kể lại. Thực ra, ở Châu Sơn, việc này đã xảy ra. Địch chặt đầu nhiều người, gồm cả một số linh mục Công giáo.

Ngay sau đó, địch truy lùng các binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà. Chúng bắt được tôi trong một thời gian ngắn. Tôi rất may mắn vì không để râu mà cũng không lớn con. Chúng lùa nhiều người vào một ngôi nhà, tôi ở trong đám người đông đảo này nhưng tôi vuột chạy. Tôi không quen đường trong thị xã Ban Mê Thuột. Mặc dầu đã ở vùng này khá lâu nhưng ít khi tôi ra tỉnh. Tôi là một người lính chiến, hầu hết thì giờ dành cho các cuộc di hành và các chiến dịch. Chúng tôi không ra tỉnh nhiều.

– Việc thất thủ Ban Mê Thuột là việc không tránh khỏi. Ở đây chỉ có mỗi một tiểu đoàn phòng vệ tỉnh, tức là bốn đại đội, mà một đại đội đã được đưa đi chỗ khác, nên chỉ có ba Đại đội ở nơi này. Cũng có một số quân nhân nữa, nhưng họ đều là lính văn phòng. Nói rằng Ban Mê Thuột mất trong hai ngày là không hoàn toàn đúng. Chính ra Ban Mê Thuột đã mất trong vòng một ngày. Tuy nhiên, thưa ông, ông phải biết đã có một trận đánh lớn diễn ra cách Ban Mê Thuột mười cây số, tại phi trường. Chính nơi đây chúng tôi đã thực sự chiến đấu mãnh liệt với địch quân, chúng tôi đã cầm chân chúng suốt một tuần lễ.

Sau đấy đã có một cố gắng tái chiếm Ban Mê Thuột. Ông nhớ chứ, tôi thuộc trung đoàn 53 và trong trận đánh đã kể, hầu hết đã hy sinh. Việc cố tái chiếm Ban Mê Thuột là do trung đoàn 44, bấy giờ đóng ở Pleiku. Nhưng khi trung đoàn này đến vùng Tinh Thương cách Ban Mê Thuột chừng mười cây số thì vừa lúc các binh sĩ gặp gia đình họ từ Ban Mê Thuột chạy ra. Thấy gia đình chạy, binh sĩ cũng bỏ súng ống chạy theo gia đình. Các cấp chỉ huy không thể điều khiển họ nữa. Có lẽ, đấy là lý do tại sao chúng tôi thất trận. Binh sĩ không còn muốn chiến đấu nên chúng tôi đã thua. Cũng có vài cuộc đụng độ của những binh sĩ ở lại, nhưng không lâu, vì làm sao đánh được nữa. Chúng tôi chỉ còn một số người ít ỏi. Và những người ở lại chiến đấu cũng không thể tin chúng tôi có thể thắng để lấy lại thành phố. Lý do đã mất rồi.

Nhưng ông cũng cần phải biết: Không phải tất cả các binh sĩ đều bỏ chạy. Một số đã ở lại, đã chiến đấu với Việt Cộng ở mọi nơi. Tại khu trung tâm. Tại nhiều nơi khác. Dẫu chỉ là những trận nhỏ, nhưng vẫn là những trận đánh. Những người chiến đấu đã chiến đấu với tất cả nhiệt tình, họ không phải đánh chỉ vì phải đánh. Họ mãnh liệt đấu tranh với Bắc quân.

Vào ngày 10 tháng Ba khi địch quân đang tấn công chúng tôi, lúc Ban Mê Thuột chưa mất, lúc những trận đánh còn đang diễn ra, thì khi mở máy truyền tin, chúng tôi đã nghe một cuộc điện đàm giữa bộ Chỉ huy Sư đoàn với tướng Phú ở Pleiku. Tướng Phú bay trên trực thăng nói chuyện với Tư lệnh Phó Sư đoàn là đại tá Quang. Tôi có một người bạn, là đại úy Truyền tin của Trung đoàn cũng đã mở cùng một tần số và cũng nghe được những gì tôi đã nghe.

Tướng Phú nói: “Được rồi! Với bất cứ giá nào ông cũng phải giữ Ban Mê Thuột. Tôi sẽ cho ông bất cứ cái gì ông cần – Tôi sẽ tiếp vận vũ khí, binh sĩ nếu ông muốn. Nhưng phải giữ Ban Mê Thuột bằng mọi giá.” Đó là những gì rõ ràng tôi đã nghe.

Nhưng tôi phải nói: Đại tá Quang không phải là một cấp chỉ huy tốt. Không, ông ấy không phải là một cấp chỉ huy tốt. Ông ấy đã nói dối. Ông bảo chúng tôi đủ sức tiếp tục chiến đấu. Nhưng thử nhìn thực tế xem. Chúng tôi chỉ có hai tiểu đoàn, một tiểu đoàn đã đưa đi Phước An, còn lại một ở Ban Mê Thuột, trong tiểu đoàn ấy, một đại đội đã bị tận diệt ngày 10 tháng Ba.

Tôi bị bắt ở Ban Mê Thuột. Chúng chặn những người bỏ chaỵ, cô lập một số vùng. Rồi chúng bao vây không cho thoát. Tình trạng lúc ấy quá hỗn loạn, tôi bị kẹt ở đấy.

Tuy bị bắt, nhưng tôi tìm cách lẩn tránh. Tôi không báo cáo quân số của tôi. Tôi né đi. Những người khai báo đều bị Cộng sản dẫn đi mất: Có trời mới biết họ đi đâu. Người ta chỉ thấy họ biến mất, không bao giờ còn ai gặp lại nữa. Tôi cứ né tránh không khai báo gì cho đến ngày 25 tháng Ba, 1975 thì gặp được hai giáo sư trung học. Hai người này biết tôi, họ dạy cùng trường với người bạn của tôi. Họ giúp tôi trốn. Nhờ vậy tôi thoát Cộng sản mà sống sót.

Đầu tháng Tư tôi chạy khỏi Ban Mê Thuột, đến được Nha Trang. Lúc ấy Nha Trang cũng đã bị Cộng sản chiếm. Tôi đến được nhà những người bà con bên ngoại, nhưng vợ chồng mấy người chị tôi đều đã chạy vào Sàigòn rồi.

Tôi xin kể ông nghe về chuyến đi từ Ban Mê Thuột đến Nha Trang. Không thể tin nổi. Trên đường có nhiều xe buýt chở người, mấy chiếc xe này cũng tựa những chiếc buýt Greyhound ở Mỹ, nhưng không đẹp bằng. Mấy chiếc xe này đã bị Cộng sát bắn suốt chuyến đi. Chúng bắn, bất kể quân đội hay thường dân. Sống sót được sau chuyến đi này thật là đại hồng phúc.

Xe tôi bị bọn du kích địa phương chặn. Chúng bảo “Trên xe chắc chắn phải có lính ngụy. Bước xuống ngay, nếu không chúng tao bắn tất cả mọi người trên xe.” Cái từ ngữ mà chúng gọi bọn tôi là “Ngụy quân”, chúng dọa bắn tất cả mọi người trên xe nên tôi và vài người nữa bước xuống. Nhưng thật quá may mắn. Vừa lúc chúng tôi ra khỏi xe, có hai oanh tạc cơ A-37 chợt bay đến dội bom trong vùng. Bọn du kích chạy. Chúng tôi chạy. Chiếc xe buýt cũng rồ máy chạy. Nhưng tài xế là một người có tấm lòng thật tử tế, nhân hậu. Qua khỏi một chặng đường ngắn, ông ta dừng lại, đón chúng tôi lên.

Có một cảnh tượng đã chứng kiến làm xót xa thắt ruột. Đó là cảnh hai đại đội nhảy dù bị Cộng sản bắt. Chúng ra lệnh cho họ di chuyển trên đường, lê bước không giầy, không đồng phục. Trông họ thật đau buồn. Những người ngồi trong xe buýt nhìn ra đều thấy cảnh tượng đó. Chúng tôi muốn bật khóc. Cảnh tượng ấy làm chúng tôi đau lòng, tức giận xiết bao. Một điều nữa cũng làm chúng tôi xót xa là khi nhìn thấy xác chết của những người lính nhảy dù ngổn ngang khắp hai bên đường. Quá nhiều xác chết. Cũng có xác của quân Cộng sản, nhưng chúng đã chuyển đi, chỉ vứt lại thi hài những người lính dù, nhất là tại khu Phượng Hoàng. Đường Phượng Hoàng là đường dẫn từ Ban Mê Thụôt xuống Nha Trang, rất gần Nha Trang.

Tôi kẹt ở Nha Trang, bị bọn Cộng sản phường gọi trình diện. Lúc đó nếu có dịp vào được Sàigòn thì tôi đã đi rồi, có thể đã ra khỏi nước rồi. Nhưng tôi bị kẹt. Vì Sàigòn chưa mất, nên bọn chúng đối xử với tôi có thể nói là tử tế. Phần lớn những người ra trình diện ở Nha Trang đều được Cộng sản đối xử tử tế, cho đến khi Sàigòn sụp đổ.

Ngay sau khi Sàigòn mất, bọn chúng trở mặt. Chúng bắt đầu đối xử khác hẳn. Chúng tôi đã bị đưa vào các trại học tập. Bọn chúng loan tin
Sàigòn mất cho chúng tôi tại trại.

Trước đây, chưa từng một giây phút nào chúng tôi nghĩ Sàigòn có thể sụp đổ. Chúng tôi chưa bao giờ tin được như vậy.

Chúng tôi đã từng hy vọng có ngày các bạn tôi và tôi sẽ vượt thoát khỏi trại. Cho nên đầu tiên, vì tin này đến quá bất ngờ, chúng tôi sửng sốt xúc động. Nhưng sau đó là tiếp đến một giai đoạn khuây khoả, với cảm giác rằng: ừ cũng tốt thôi, cuối cùng chiến tranh đã chấm dứt. Cộng sản cũng là người Việt, chúng tôi đều là người Việt cả, nên chúng tôi nghĩ mọi việc cũng xong? Chẳng có mất mát lớn lao nào. Và có lẽ, chúng tôi với Cộng sản có thể cùng nhau chung sống. Nhưng những ngưòi có tuổi ở trong trại, từng sống dưới chế độ Cộng sản từ ngoài Bắc, họ lập tức phủ nhận ý nghĩ đó. Họ bảo: “Các cậu còn trẻ quá. Đừng lạc quan lắm về viễn tượng sống chung hoà bình với Cộng sản.” Họ cảnh cáo. Vì thế chúng tôi đôi phần trở nên hoài nghi. Những nỗi buồn dữ dội dần dà xâm chiếm. Tất cả chúng tôi đều trở nên buồn bã.

Chúng tôi bắt đầu cảm thấy tương lai thật mờ mịt. Trong trại học tập, họ bắt chúng tôi học mười bài về việc: “Tại sao nhân dân Việt Nam phải chiến đấu chống chính phủ và quân đội Mỹ,” “Tại sao Mỹ muốn can thiệp ở Việt Nam.” Rồi họ bắt chúng tôi viết lời khai cá nhân, đại loại như tiểu sử, lý lịch mỗi người. Họ bắt chúng tôi làm những chuyện ấy vào buổi sáng, bắt làm lại vào buổi trưa. Rồi đến tối, bắt làm lại nữa. Hầu như suốt thời gian, chúng tôi đều phải viết lý lịch từ ba cho đến bốn lần mỗi ngày. Đầu tiên, mọi người tưởng họ chỉ bắt viết một lần thôi. Nào ngờ họ bắt viết đi viết lại, viết đi viết lại mãi cho đến nỗi chúng tôi quên cả những gì đã viết trước. Họ có thể đem những bản khai lý lịch khác nhau ra so chiếu, rồi gọi chúng tôi ra hạch hỏi.

Tôi xin kể ông nghe thế này: Họ đã nói với chúng tôi nhiều chuyện cực kỳ quái gở, toàn chuyện sai quấy, không thể tin nổi. Nhưng họ cứ nói với chúng tôi cùng những chuyện ấy, nhắc đi nhắc lại, riết rồi đến nỗi tôi chợt nhận ra chính tôi cũng đã bắt đầu tin những điều họ nói. Tôi bắt đầu cảm thấy chính tôi là một tội phạm khi chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Tôi cảm thấy có tội về nhiều thứ cáo trạng mà họ dồn dập đổ vào đầu óc chúng tôi. Nhưng may mắn cho những sĩ quan trẻ trong những năm còn là sinh viên đại học, chúng tôi đã học thiền. Nhờ áp dụng phương pháp thiền định, chúng tôi vẫn giữ được sự quân bình, lành mạnh cho tâm trí. Còn nếu không, họ đã làm chúng tôi phát điên được với những hành động của họ. Những gì họ bắt chúng tôi làm, những gì họ lập đi lập lại một cách rất vô lý: Ngày đêm cùng nói một thứ. Suốt thời gian. Và những tờ khai lý lịch cá nhân họ bắt viết đi viết lại mỗi ngày vài lần.

Ban đêm, khoảng mười giờ tối, dưới ánh nến hay một ngọn đèn dầu nhỏ, họ bắt chúng tôi viết lý lịch cá nhân. Rồi ba giờ sáng, họ bắt chúng tôi thức dậy, lại viết lý lịch cá nhân nữa. Chuyện này thật khắc nghiệt khủng khiếp.

Tôi rất may mắn. Tôi chỉ bị ở cải tạo có hơn ba tháng rồi được thả. Những người ở các đơn vị chiến tranh chính trị của quân đội Việt Nam Cộng Hoà mới là những người mà họ chú trọng. Nhưng cũng còn vấn đề may mắn, bởi vì tôi có những người bạn cũng là sĩ quan đơn vị chiến đấu, cùng cấp bậc với tôi, bị họ bắt và tôi đã không bao giờ gặp lại nữa.

Có một sĩ quan cấp bực cao hơn tôi đã được thả trước tôi ba ngày. Cộng sản dùng đấy để tuyên truyền. Họ nói: “Thấy chưa, anh ta là sĩ quan cao cấp hơn nhưng đã được trả tự do bởi vì anh ta học tập tốt. Anh đã cải tạo xong.” Và họ nói như thế là chúng tôi không có thiện chí học tập. Gia đình chúng tôi thắc mắc không hiểu tại sao anh ta được thả trước chúng tôi. Nên rồi gia đình chúng tôi đã tin bọn Cộng sản, tin chúng tôi không chịu học tập. Họ tác động tâm lý chúng tôi như thế đó.

Nhiều bạn hữu của tôi vào rừng tham gia các lực lượng kháng chiến. Nhưng tôi đã trở về với gia đình. Lúc ấy tôi không có ý nghĩ gì về việc ra khỏi nước. Tôi nuôi hy vọng liên lạc được với các bạn của tôi, những người không bị Cộng sản bắt. Tôi biết họ vẫn quanh quẩn đâu đây. Tôi muốn liên lạc với họ để xem tôi có thể làm gì. Chẳng bao lâu, Cộng sản bắt đầu nghi ngờ những chuyện đi lại của tôi và mục đích của tôi. Vì họ nghi, nên tôi quyết định đi làm ruộng, nhưng mỗi tuần phải báo cáo cho họ, rồi tiếp tục viết thêm tờ khai lý lịch.

Tôi đến Mỹ năm 1979. Tôi rời Việt Nam bằng tàu, một chiếc tàu rất bé. Người chủ tàu là bạn từ lúc nhỏ. Tôi liên lạc được với anh, anh đã cho tôi cùng đi vượt biên. Chúng tôi đi ở một địa điểm rất gần Nha Trang. Khi ra khơi tôi nhìn lại những hàng dừa mọc trên bãi biển. Tôi nghĩ mình sung sướng xiết bao khi được ngồi trên con tàu bé nhỏ này. Chúng tôi chỉ có một cái địa bàn nhà binh nhỏ để tìm phương hướng. Và chúng tôi đã đến được Phi Luật Tân.

Thời gian đầu ở Mỹ, tôi vẫn nghĩ về Việt nam. Tôi muốn trở về. Đó là một giấc mơ, một hy vọng. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn giấc mơ ấy: Được trở về để chiến đấu, chứ không phải để hưởng thụ như nhiều người khác.

Tất nhiên, tôi đã mơ về quê hương, tôi mơ đến căn nhà tôi. Nhưng trong cơn mơ, tôi sợ hãi không dám bước vào, vì một vài lý do. Có lẽ, bởi tôi sợ Cộng sản bắt lại. Khi thức giấc, tôi bồi hồi luyến tiếc. Tôi nghĩ: “Trong giấc mơ, tôi đã về đến gần nhà như thế, nhưng sao tôi đã không thể bước vào”. Ngay trong giấc mơ, tôi cũng chưa từng có thể bước vào căn nhà của tôi ở Việt Nam mà sống êm đềm trở lại.

Trước khi tôi rời Việt Nam, đã có nhiều dư luận được đồn đãi, chính tôi cũng đã tin. Dư luận đó nói rằng có một Mặt trận giải phóng đã được sắp xếp, tổ chức. Nhiều bạn hữu của tôi đã nghĩ nếu chúng tôi vượt thoát sang được Mỹ, thì sẽ gia nhập lực lượng này rồi trở về chiến đấu chống Cộng sản. Nhưng không phải như thế. Bao nhiêu hy vọng và lý tưởng tan vỡ cả nơi đây. Điều làm chúng tôi đau đớn là đến đây để khám phá một sự thật: Đó là không có kháng chiến thật. Và cuộc chiến đã tàn.

Nhưng tôi vẫn hy vọng sẽ có một ngày trở lại Việt Nam. Chính hy vọng ấy ngày nay đã giữ cho tôi không mất trí.

CHUẨN TƯỚNG LÝ TÒNG BÁ
(Tư lệnh Sư đoàn 25 QĐVNCH)
“Có một căn bệnh”

Tôi sinh năm 1931 tại miền Nam Việt Nam. Tốt nghiệp võ bị Đà Lạt, trở thành sĩ quan quân đội kể từ 1952. Với cấp bực thiếu úy, tôi đã phục vụ một năm tại vùng châu thổ sông Hồng.

Năm 1975, tôi là chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 25 Quân đội Việt Nam Cộng Hoà tại Củ Chi. Trước, tôi từng là Tư lệnh Thiết giáp. Kể từ cuối năm 1974, tôi được yêu cầu chỉ huy Sư đoàn 25. Tôi đã điều động sư đoàn này trong thời gian năm tháng. Khi xảy cuộc tấn công Ban Mê Thuột, tôi đang hành quân bình định tại vùng Bắc Tây Ninh. Tại đây chúng tôi đã bị lực lượng Cộng sản cố cầm chân.

Khi nghe tin cao nguyên triệt thoái, tôi biết việc này sẽ gây vấn đề lớn. Tôi tưởng sau đó quân đội sẽ củng cố lực lượng quay vòng trở lại, hoặc sẽ thiết lập một chiến tuyến tại một địa điểm nào. Nhưng không có chuyện gì. Không quay trở lại. Cũng chẳng đánh chác. Tôi không rõ việc gì đã xảy ra như vậy.
Lúc ấy chúng tôi đang đương đầu với Sư đoàn 9 của quân đội Bắc Việt gần Củ Chi. Họ đang cố đẩy quân xuống Sàigòn bằng quốc lộ số 1. Binh sĩ tôi đã tận lực chiến đấu. Cuối tháng ba, chúng tôi đụng địch ở Truong Mit. Chúng tôi tổn thất hơn 400 sinh mạng trong một trận ác liệt, nhưng không một ai bỏ chạy.

Tôi nghe nói có vài Tướng lãnh bỏ rơi binh sĩ họ, tôi không ngạc nhiên. Nhưng tôi biết binh sĩ tôi, tôi biết đơn vị tôi. Tôi biết các sĩ quan chỉ huy của tôi. Tôi có lòng tin nơi binh sĩ, họ cũng có lòng tin tôi. Tôi biết địch quân là ai, ở đâu và họ đang làm gì.

Tôi cố liên lạc với các thượng cấp tôi là Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên để báo cáo tình hình. Tôi muốn cho họ biết: Cuối cùng chúng tôi không còn có thể làm gì hơn nữa. Tất cả đã hỏng rồi. Sư đoàn 25 chúng tôi đang phải cầm cự với trọn một sư đoàn địch, nhưng chỉ vài ngày sau, đã cùng một lúc phải thọ địch với ba sư đoàn có cả chiến xa.

Để bảo vệ việc xâm nhập Sàigòn từ mặt phía Đông, Sư đoàn 18 do tướng Lê Minh Đảo chỉ huy đánh ở Xuân Lộc. Để bảo vệ mặt phía Tây, sư đoàn chúng tôi phải chặn quốc lộ số 1 từ Sàigòn đi Tây Ninh. Sáng ngày 29 tôi dẫn một lực lượng đặc nhiệm vào Bến Tre(?), nhưng binh sĩ không còn nữa. Họ thất tán, lạc lõng khắp nơi. Tôi không còn làm gì được. Tôi cố tập hợp lực lượng còn lại để tiếp tục chiến đấu, tôi đã yêu cầu tướng Toàn cho tôi sắp xếp lại các tiểu đoàn. Bộ đội Cộng sản lúc này tiếp tục tấn công nhưng số binh sĩ Cộng Hoà còn lại vẫn không e ngại, chúng tôi tiếp tục chống trả trong lúc bị đẩy lui về phía Sàigòn.

Tôi bảo binh sĩ: “Đừng lo lắng tình trạng đang xảy ra. Hãy cố chiến đấu. Hãy bắt địch phải trả giá đắt cho mọi trường hợp.” Các binh sĩ của tôi tiếp tục xoay trở, chiến đấu, phản công. Nhưng cuối cùng, họ kiệt lực.

Có nhiều yếu tố khác bên ngoài việc chiến đấu. Lúc đó, binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã mắc một căn bịnh. Một căn bịnh tinh thần. Căn bịnh tinh thần đã ảnh hưởng đến họ. Vào giây phút chung cuộc ấy, căn bịnh phát ra từ việc các binh sĩ tin rằng họ bị lừa gạt, dối trá. Thử nhìn xem, họ đã lâm vào một tình trạng thật tệ hại. Muốn binh sĩ chiến đấu tốt, không thể có những người lãnh đạo như Nguyễn Văn Thiệu. Mỹ thì không còn hỗ trợ. Chính phủ cũng không giúp đỡ. Vậy họ phải chiến đấu và chết cho lý do gì?

Vì thế, cuối cùng một số binh sĩ của tôi bắt đầu bỏ chạy. Họ nhuốm căn bịnh này rồi. Thấy vậy nhưng tôi cũng không thể làm gì khác. Cuối cùng đội quân tan rã. Tôi quyết định đi bộ từ củ Chi về lại Sàigòn. Tôi cũng muốn tìm binh sĩ, tập hợp lại tại Hốc Môn mà tái lập phòng tuyến. Nhưng chưa kịp đã bị Cộng sản bắt. Đường từ Củ Chi về Sàigòn bị chiếm khắp nơi rồi.

Về việc tinh thần quân đội nhiễm độc thì phải thấy xã hội Việt Nam lúc ấy đã nhũng lạm rối ren lắm. Sự nhũng lạm rối ren này lan tràn vào quân đội, ảnh hường đến tác phong binh sĩ. Các cấp chỉ huy thì không có tinh thần chiến đấu. Gặp những trận khốc liệt, người ta không còn muốn đánh. Cái gì cũng lệ thuộc Mỹ. Không nhờ được Mỹ, người ta tháo chạy. Họ cũng đã nhuốm bịnh rồi.

Tôi là người chiến đấu. Còn các lãnh tụ phải lo việc lãnh tụ. Phần tôi đã chiến đấu từ khi là người lính trẻ, và bây giờ đây, tôi hiểu ra rằng các lãnh tụ quân đội đã không làm tròn công việc của họ. Tôi làm nhiệm vụ của tôi, nhưng họ không làm nhiệm vụ của họ. Do đó, tôi có thể nói: Trên cấp bậc cao của quân đội chúng tôi, đã có những người không đúng chỗ nắm giữ chỉ huy.

Bộ đội miền Bắc có mặt khắp nơi. Tôi bị thương ở chân. Họ bao vây tôi và số binh sĩ còn lại. Rất nhiều binh sĩ phải đầu hàng. Tôi bèn nói với người tùy viên ở bên tôi rằng: “Nhìn chừng tôi nhé, tôi làm gì thì anh làm nấy. Tôi làm bất cứ cái gì, anh cũng cứ làm y như vậy.” Khi địch quân bảo hạ võ khí xuống, nhiều binh sĩ của tôi tháo võ khí, bỏ xuống. Nhưng khi họ bảo binh sĩ đứng vào với nhau, thì tôi và người tùy viên lẻn xuống ruộng lúa.

Chúng tôi ngâm mình dưới nước, chỉ hở mũi ngửa lên. Địch tưởng chúng tôi đã chết. Chúng tôi ngâm dưới nước ba giờ đồng hồ như thế, từ 3 giờ trưa đến 6 giờ chiều. Rồi chúng tôi mầy mò trong bóng đêm, tìm đến một con rạch. Con rạch nhỏ này chảy đến cầu Hốc Môn. Chúng tôi lội xuôi con rạch, hy vọng đến được cầu Hốc Môn, từ đó tôi sẽ biết lối về Sàigòn. Nhưng khi đang lội dưới rạch, tôi nghe hai bên bờ có tiếng người. Toàn lính Bắc Việt. Lúc đó tối trời, tôi tuồn ra khỏi lạch, tìm đường đất về Củ Chi. Vì tối quá, tôi quanh quẩn mãi trong một mũi tam giác. Không biết mình ở đâu. Sàigòn hướng nào. Trời lại mưa.

Đến sáng, tôi vẫn còn người tùy viên bên cạnh, nhưng tôi không nhúc nhích được nữa. Cái chân bị thương càng lúc càng tệ. Tôi bảo người tùy viên cố đi kiếm thầy thuốc. Nhưng chưa kiếm được, chúng tôi đã lọt vào một đám năm sáu chục bộ đội miền Bắc. Từ xa cứ tưởng họ là lính miền Nam. Đến khi thấy vậy, tôi đành bảo người tùy viên: “Thôi bị bắt rồi. Không chạy nổi nữa đâu.”

Bấy giờ quân phục tôi bê bết bùn, họ không nhận ra tôi là cấp tướng, không biết tôi là ai. Nhưng có một bà già thấy tôi. Bà già này bước lại, nói: “Chuyện chi vậy chuẩn tướng? Sao quần áo ông dơ dáy quá vầy nè?” Mấy người bộ đội đứng quanh đấy nghe được. Trước đó, họ chỉ tưởng tôi là một trung tá, không biết tôi đã là tỉnh trưởng Bình Dương.

Họ đưa tôi vào nhốt trong một căn phòng chung quanh có rào kẽm gai. Tôi ngồi đấy, nghĩ rằng khi họ khám phá ra tôi, thế nào họ cũng xử tử. Nên khi mấy người lính của tôi hỏi có muốn viết thư nhắn vợ tôi không, tôi bảo: “Không. Tôi không muốn viết thơ cho ai cả.”

Những người bộ đội bắt tôi là lính của ba sư đoàn đã đánh với Sư đoàn 25 của tôi. Họ bảo Sư đoàn Trưởng của họ sẽ đến gặp tôi. Họ nói ông ta muốn đến gặp người đã đương đầu với ông ta.

Tôi nói “Tôi đã mất hết quân rồi, bây giờ các ông muốn làm gì cứ làm.” Khi viên Sư đoàn Trưởng Bắc Việt đến gặp, tôi nói: “Ông đã biết khi tôi bắt được lính của ông thì tôi đã đối xử như thế nào. Bây giờ tôi chỉ yêu cầu ông hãy đối xử với lính của tôi như thế. Tôi đã đối xử tử tế với tù binh các ông hơn là cách ông đối xử với tù binh chúng tôi.”

Vì thế anh ta nói: “Chuẩn tướng, chúng tôi không có gì thù nghịch ông cả. Vì buổi đầu, bộ đội chúng tôi còn quá khích, nên có lẽ họ đã đối xử với ông không được tốt đẹp.”

Tôi bảo ông ta: “Họ bắt chúng tôi ngủ trên sàn đất trong hàng rào kẽm gai. Tôi không thích việc đối xử với các binh sĩ của tôi như vậy.” Tôi không lo lắng gì cho bản thân tôi. Tôi nghĩ họ sẽ xử tử tôi, nên tôi chỉ quan tâm về việc đối xử với các binh sĩ của tôi thôi.

Ngày mùng 3 tháng Ba, nghe tin đồn tôi bị giết ở Củ Chi, vợ con tôi đều rời Sàigòn xuống Hậu Giang, kiếm được một tàu gỗ sang Mã Lai. Tại Mã Lai có vài người Mỹ biết tôi, họ nhận ra vợ tôi nên đã đưa vợ con tôi sang Mỹ, chuyện này một năm sau tôi mới biết. Khi rời Sàigòn, vợ tôi đinh ninh tôi đã chết rồi.

Tôi nghĩ tôi sẽ bị giết, do đó tôi không viết thư cho vợ tôi. Tôi sợ nếu có thư tôi, vợ tôi sẽ ở lại chờ, thôi đằng nào họ cũng giết, nên tôi không thư từ gì cả.

Sau đó các binh sĩ của tôi đều được thả, nhưng họ giữ lại tất cả các sĩ quan. Họ đưa tôi về lại Củ Chi với các sĩ quan tham mưu của tôi. Lại một lần nữa, họ giam chúng tôi sau hàng rào kẽm gai. Lần này suốt một tháng. Sau đó họ đưa tôi về Sàigòn làm kiểm điểm để đi “học tập,” rồi họ gửi tôi đến “trại học tập.” Lúc ấy tôi mới nghĩ rằng tôi thoát chết.

Tôi bị gửi ra Bắc vào tháng Bảy năm 1975, mãi đến tháng Chạp 1987 mới được thả. Tôi đã phải làm lao động trong mười hai năm. Tướng Lê Minh Đảo ở cùng một trại với tôi.

Tôi đã chiến đấu cho xứ sở tôi. Tôi đã làm bổn phận tôi. Tôi đã tận lực phục vụ. Và tôi đã thua, nhưng tôi vẫn hãnh diện. Khi không còn làm được công việc của tôi, tôi vẫn cố gắng chiến đấu. Tôi đã mất quân đội, nhưng tôi không hề bị đánh bại. Tôi đã chỉ làm công việc cho đất nước Việt Nam. Khi viên tướng Bắc Việt mà tôi đã đương cự hỏi tôi rằng: “Bây giờ ông nghĩ thế nào,” thì tôi nói: “Tôi là một người Việt Nam – Tôi mong được nhìn thấy một đất nước Việt Nam phú cường, một dân tộc Việt Nam tự do, hạnh phúc.”

Nhưng tôi đã nghĩ: Việt Nam vẫn còn phải chiến đấu cho tự do. Cuộc chiến chưa tàn. Dân tộc vẫn muốn có tự do. Từ khi hãy còn là một thiếu úy cho đến nay, tôi vẫn nghĩ như vậy. Dân tộc Việt Nam đã cố giải quyết vấn đề bằng chiến tranh, nhưng cuộc chiến đã quyết định được những gì? Bây giờ miền Bắc thắng, và chúng tôi đã hy vọng đất nước Việt Nam được tốt đẹp. Việt Nam đã mất biết bao nhiêu người dân lương thiện, và bây giờ, thử nhìn vào đất nước mà xem. Tôi phải nói là đã không đạt được gì từ cuộc chiến. Cuộc chiến vẫn còn. Tôi vẫn nói với các thủ lãnh của đất nước ngày nay rằng “Tôi đã làm nhiệm vụ của tôi, và tôi đã thua. Quý ông bây giờ có thể làm bất cứ cái gì quý ông muốn. Nếu quý ông làm tốt, dân tộc tự do thịnh vượng thì tôi sẽ chẳng có điều gì để chống lại các ông cả. Nhưng bây giờ thử nhìn xem, đất nước này đã xảy ra những gì. Chiến thắng của quý ông giờ đây có ý nghĩa gì? Quý ông sẽ làm gì đây?”

Xứ sở chúng tôi là một xứ sở nhỏ bé nghèo khó. Chúng tôi cần những trợ giúp bên ngoài. Bây giờ, có lẽ chúng tôi còn cần phải có các lãnh tụ mới. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc chăm chỉ, chịu khó và lương thiện. Dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng cho tự do và thịnh vượng. Dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng để trở lại một thành phần của cộng đồng thế giới. Tiềm lực là ở đấy. Nhưng vẫn lại xảy ra cùng một căn bịnh. Chế độ mới cũng đã mắc phải cùng một căn bịnh của chế độ cũ. Căn bịnh tham nhũng. Một căn bịnh xói mòn cả dân tộc này. Ngày nay nếu không ưa ai, không thích ai nói ra một điều gì, người ta cứ việc bỏ họ vào tù.

Xã hội này là một xã hội thối nát. Người ta trở thành thối nát vì các lãnh tụ đã thối nát.

Các binh sĩ của tôi bỏ chạy bởi vì họ đã nhiễm bịnh từ các thủ lãnh của họ và từ ở xã hội. Họ không còn muốn chết cho cái xã hội không xứng đáng ấy nữa. Cái linh hồn bịnh hoạn của xã hội này đã làm cho họ ghê sợ. Vậy nếu bắn một người lính bỏ chạy thì chỉ giết được một người lính, không giết được căn bịnh. Còn trừng phạt một người về chuyện tham nhũng, cũng chỉ trừng phạt một cá nhân, căn bịnh vẫn tiếp diễn thôi.
Chưa bao giờ tôi nghĩ đến việc tự sát vì thua cuộc cả. Tại sao tôi lại phải tự sát? Chuyện ấy quá vị kỷ tự tôn. Tự sát! Tự sát có ích lợi gì? Nhiệm vụ của tôi là chiến đấu. Chiến đấu cho đến khi tử trận, hoặc đến khi bị cầm tù. Tôi là ai, nào có phải là một ông quan thời phong kiến cứ phải chết cho vua chúa đâu? Tôi đã chiến đấu cùng với các binh sĩ của tôi. Tôi đã không tử trận. Tôi chỉ bại trên chiến trường. Tôi bại trận, nhưng tôi vẫn còn sống sót.

Bây giờ đây, tôi đang ở Sàigòn, tôi không có chuyện gì làm. Tôi đã nạp đơn xin đi Mỹ để đoàn tụ với vợ và con gái tôi hiện ở tiểu bang Nevada. Một trong mấy con trai tôi là sinh viên đại học San Diego. Và con trai út của tôi hiện nay là một ngôi sao sáng về banh bầu dục tại đất nước Hoa Kỳ.

PHẠM VĂN XINH
(Sĩ quan An ninh, Sư đoàn 2 Bộ binh)
“Chúng tôi như rắn mất đầu.”

Tôi ở Đà Nẵng khi nơi này rơi vào tay Cộng sản. Bấy giờ tôi là Sĩ quan An ninh thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh. Tôi đã phục vụ trong quân ngũ kể từ năm 1968. Chúng tôi đóng ở Tam Kỳ, nhận được lệnh ra Đà Nẵng. Nhưng vừa đến Đà Nẵng, ra khỏi tàu thì chúng tôi được biết ngay là các sĩ quan chỉ huy của chúng tôi đã lấy tàu khác vào Nam cả rồi. Chúng tôi bị bỏ rơi. Chúng tôi không biết phải làm gì. Không biết đi đâu. Chúng tôi hệt như rắn mất đầu.

Một số quân nhân lên những chuyến tàu của người tỵ nạn chạy vào Nam. Tôi không làm như vậy. Tôi rất sợ hãi bởi vì tôi biết rõ vụ tàn sát Mậu Thân ở Huế, lúc ấy Cộng sản đã giết hàng ngàn người Việt. Chúng tôi nghĩ chúng sẽ tái diễn việc này, chúng sẽ giết các quân nhân trước tiên. Vì vậy chúng tôi vứt quân phục, thay đổi quần áo thường dân.

Đến Đà Nẵng, lúc đầu Cộng sản không có hành vi gì ghê gớm. Không bắt bớ, cũng không đưa ai vào tù. Nhưng chỉ vài ngày sau, chúng tôi khám phá ra Cộng sản có một danh sách những người cộng tác với Mỹ. Cộng sản gọi những người này là bọn phản bội, chúng nói những người này là thành phần tối nguy hiểm. Tôi không rõ có bao nhiêu tên người trên danh sách, nhưng tôi thấy nhiều người bị bắt. Những người có tên trong danh sách đặc biệt bị bắn tại chỗ, ngay trên đường.

Cộng sản nói những người này không đáng sống. Việc ấy không giống chuyện hành quyết, mà giống những vụ sát nhân trên đường phố. Chúng không cần đưa họ đi đâu, như ở Huế. Hễ tìm thấy những người ấy ở đâu, chúng giết ngay ở đó.

Tôi đã nhìn tận mắt vài người bị bắn như thế. Bọn Cộng sản không hề có lòng thương xót. Hoàn toàn không. Tôi rất sợ, bởi vì tôi là một quân nhân, tôi nghĩ tên tôi đã nằm trong danh sách của chúng rồi.

Tôi yên tâm hơn khi bỏ quân phục mặc quần áo thường dân. Nhưng Đà Nẵng là quê quán của tôi, nhiều người trong xóm biết tôi ở trong quân đội. Tôi không thể giấu giếm được. Tôi lại biết có kẻ có thể đem nạp tôi mà lấy lòng Cộng sản, vì thế tôi rời sang một khu phố khác trong thành phố, tìm nơi không ai quen biết. Nhưng có kẻ đã cho tên tôi, nên Cộng sản đến kiếm. Chúng có một danh sách trong đó có tên tôi. Tôi cảm thấy rất nhục nhã khi bị bắt. Tôi nghĩ đáng lẽ tôi cứ mặc quân phục. Tôi nghĩ đáng lẽ tôi phải chống trả. Nhưng không còn chỉ huy, cũng không có lệnh lạc gì nữa, vì vậy làm sao tôi chiến đấu được.

Cộng sản gửi tôi đến vùng Kinh tế mới. Tôi ở đấy sáu năm. Tôi rất căm ghét. Tôi biết khi có cơ hội là tôi rời Việt Nam ngay. Nhưng tôi không có tiền. Muốn lên tàu phải có tiền.

Năm 1983 trở lại Đà Nẵng tôi gặp được một người có tàu. Tôi bảo người này rằng tôi nhận làm tài công nếu anh ta đưa tôi ra khỏi Việt Nam. Tôi bảo tôi sẽ tìm thêm những người khác trả tiền cho anh. Người này đồng ý giúp. Tôi kiếm được hai mươi hai người muốn rời Việt Nam, những người này chịu trả tiền cho chủ tàu. Chúng tôi đi vào một đêm tháng Chạp, năm 1983, giương buồm tới đảo Hải Nam. Người Trung Quốc tại đây đã giúp đỡ chúng tôi. Họ cho chúng tôi đồ ăn và nước ngọt. Rồi chúng tôi đến được Hồng Kông. Chúng tôi đã lênh đênh trên mặt biển hai mươi bốn ngày.

Ngày nay tôi là một người tự do.
NGUYỄN PHÚC THIỆU
(Thiếu úy Không quân, Nam Việt Nam)
“Thôi đi, các cậu – Cuộc chiến đã xong.”

Bấy giờ tôi là một phi công trực thăng. Tính đến năm 1975, tôi đã ở trong binh chủng Không quân được năm năm. Trước tôi đóng ở Đà Nẵng và Nha Trang, sau tại Tân Sơn Nhứt, Sàigòn. Không một ai trong chúng tôi có thể tin đất nước này sẽ sụp đổ.

Lúc ấy chúng tôi nghĩ Cộng sản có thể sẽ vào được Sàigòn, có thể chúng sẽ vào tận thành phố như đã xảy ra hồi năm 1968, nhưng chúng tôi sẽ lại đánh bật chúng ra. Chúng tôi dự liệu đất nước này có thể được phân ranh lại, ranh giới sẽ ở đâu đó khoảng Nha Trang.

Ngày 28 tháng Tư, máy bay Cộng sản dội bom ở Tân Sơn Nhứt. Chúng tôi nghe nói phi công là đào binh từ hàng ngũ chúng tôi. Việc ấy không có gì đáng ngạc nhiên. Với một không lực khá lớn như của chúng tôi, việc hai hay ba phi công đào thoát sang phía bên kia là việc có thể dự liệu được. Số còn lại, tất cả chúng tôi đều là những người trung kiên.

Ngày 29 tháng Tư, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ xuống, vây quanh văn phòng Tùy viên Quân sự. Họ bắt đầu di tản người tỵ nạn ra bằng trực thăng tại địa điểm này. Về phần chúng tôi cứ thế ở trong trại, đợi lệnh. Chúng tôi không biết những ngưòi chỉ huy chúng tôi đã bỏ rơi chúng tôi. Chúng tôi có năm chiếc trực thăng đợi sẵn, chúng tôi cứ nghĩ là sẽ sắp sửa tham dự phi vụ. Có lẽ các cấp chỉ huy chúng tôi đang đi họp mật với Mỹ, họ sẽ trở lại cho lệnh mới. Không ngờ các cấp chỉ huy của chúng tôi không bao giờ trở lại nữa.

Sau khi người Mỹ hoàn tất chương trình di tản của họ, họ cho nổ căn cứ Tùy viên Quân sự. Rồi Thủy quân Lục chiến Mỹ bỏ đi, chúng tôi vẫn cứ ở đấy đợi lệnh.

Đêm 29 chúng tôi nghe tướng Kỳ trên máy truyền thanh. Ông đọc bài diễn văn bảo sẽ ở lại, chiến đấu cho đến chết. Ông kêu gọi chúng tôi cũng làm như vậy. Thế rồi, ông bỏ đi.

Sáng 30 tháng Tư, chúng tôi quyết định không thể chờ ở Tân Sơn Nhứt lâu hơn nữa. Năm giờ sáng là lúc chúng tôi quyết định bay xuống miền Nam bằng trực thăng để tham gia các đơn vị vùng đồng bằng tiếp tục chiến đấu chống Cộng. Khi ra trực thăng, chúng tôi mới khám phá hầu hết đã bị phá hoại. Nhiều cơ phận mất, bình điện bị lấy cắp, xăng cạn gần hết. Chúng tôi tháo gỡ nhặt nhạnh các bộ phận chiếc này đưa sang chiếc khác, rồi dồn xăng, bình điện, lắp vào hai chiếc trực thăng để có thể sử dụng được. Tất cả chúng tôi dồn vào hai chiếc trực thăng này, bay xuống Cần Thơ. Chúng tôi cố gọi máy cho các đơn vị Cần Thơ, nhưng không ai trả lời. Khi đáp xuống, có vài binh sĩ chạy đến hỏi: “Các ông làm gì ở đây vậy? Bộ các ông không nghe điện văn của Mỹ hay sao?” Họ bảo chúng tôi là người Mỹ đã kêu gọi các trực thăng Việt Nam bay hết ra ngoài Đệ Thất hạm đội, giữ cho máy bay đừng rơi vào tay Cộng sản. Chúng tôi thảo luận với nhau, cuối cùng quyết định bay ra Đệ Thất hạm đội.

Chúng tôi bay qua Vũng Tàu. Bay thấp qua thành phố, có thể thấy cả bộ đội Cộng sản ở đây. Bấy giờ máy bay rất ít xăng, chúng tôi lại không rõ Đệ Thất hạm đội ở bao xa. Khi nhìn thấy tàu chiến Mỹ, chúng tôi chỉ có năm phút xăng còn lại trong bình.

Chúng tôi nghĩ khi đáp xuống tàu chiến Mỹ, họ sẽ tiếp tế xăng nhớt, sắp xếp lại đội ngũ. Rồi, sẽ quay về Việt Nam chiến đấu, và người Mỹ sẽ đi cùng với chúng tôi. Chúng tôi tưởng họ gọi chúng tôi ra lập kế hoạch mới mà phản công. Ý kiến ấy nghe khá tốt, chúng tôi vẫn sẵn sàng chiến đấu. Nhưng ngay khi đáp xuống, Thủy quân Lục chiến Mỹ tiến đến tước khí giới. Chúng tôi lấy làm lạ. Rồi họ đưa chúng tôi sang phía bên kia tàu. Rồi chúng tôi thấy họ bắt đầu đẩy chiếc trực thăng. Vài người trong chúng tôi la lên, họ chạy ra, cố ngăn mấy người Mỹ lại. Nhưng Thủy quân Lục chiến Mỹ chặn người của chúng tôi. Họ nói “Thôi đi, các cậu. Cuộc chiến đã xong.”

Vài người trong chúng tôi bật khóc. Khi thấy chiếc trực thăng của chúng tôi rơi xuống biển, biết rằng sẽ không còn trở lại Việt Nam được nữa, vài người cố nhảy xuống biển. Thủy quân Lục chiến Mỹ ngăn họ lại. Nhiều người trong chúng tôi còn gia đình ở lại Sàigòn, họ muốn trở về với gia đình. Nhưng giờ đây, chẳng còn cách gì nữa.

Tôi cảm thấy rất buồn khi nhìn chiếc trực thăng của chúng tôi chìm xuống. Khi thoạt thấy chiếc tàu chiến Mỹ, tôi cứ tưởng mọi việc sẽ ổn thỏa. Nhưng tôi đã lầm. Đối với chúng tôi, cuộc chiến đã xong.

LÊ VĂN HẢI
(Không quân Nam Việt Nam)
“Hôm ấy là một ngày rất đẹp. Mặt trời soi rạng rỡ, và mọi người đều khóc.”

Năm 1954 khi đất nước chia đôi, Cộng sản chiếm miền Bắc, cha mẹ tôi di cư vào Nam. Lúc ấy, tôi mới lên một. Cha mẹ tôi biết rõ Cộng sản, họ không muốn sống dưới chế độ này. Vì thế họ đã vào Nam tìm tự do.

Tôi gia nhập không quân, vào trường học lái máy bay. Tôi tốt nghiệp trường huấn luyện không quân đầu tháng Tư, 1975. Vào thời gian ấy, phi công không bao giờ đủ xăng mà bay. Cơ phận cũng thiếu phải lấy bộ phận máy bay này mà lắp sang chiếc máy bay khác. Đạn dược không bao giờ đủ, phải đếm từng viên. Chúng tôi muốn chiến đấu. Nhưng không vũ khí, làm sao chúng tôi chiến đấu!

Bấy giờ trong không quân, vài người bảo nhau có thể chúng tôi sẽ thua trận. Nhưng khi nói vậy, chúng tôi cũng sợ, bởi chúng tôi nghĩ: Biết chừng đâu chúng tôi đã nghe Cộng sản tuyên truyền quá nhiều. Chúng tôi biết thượng cấp chúng tôi là những tướng lãnh tốt. Chừng nào chúng tôi còn có tướng lãnh tốt, làm sao chúng tôi có thể bại trận được?

Ngày 28 tháng Tư, tôi ở trong phi trường Tân Sơn Nhứt khi các phi công Bắc Việt dội bom. Chúng bay đến bằng chiếc A-37, dội bom xuống chúng tôi. Chuyện ấy chẳng làm tôi khiếp sợ. Năm 1968 Tết Mậu Thân, Cộng sản cũng đã vào tận thành phố, mà rồi chúng tôi đã đẩy bật chúng ra. Vì vậy chuyện này đối với chúng tôi chẳng có gì mới lạ. Nhưng đến 29 tháng Tư, chúng tôi nghe nói các tướng lãnh của chúng tôi đã chạy hết. Chúng tôi không tin nổi. Chúng tôi, những người trẻ, đã dự định tiếp tục chiến đấu. Nhưng làm sao chúng tôi chiến đấu được khi các tướng lãnh không còn chỉ huy chúng tôi nữa?

Sáng 30 tháng Tư, các phi công đều nói chuyện với nhau về bản tin họ nghe được ở điện đài trên tần số khẩn cấp. Họ bảo hạm đội Mỹ kêu gọi phi công Việt Nam mang máy bay ra ngoài hạm đội để khỏi rơi vào tay Cộng sản. Sau khi nghe bản tin, nhiều phi công lấy trực thăng nhồi nhét đầy người bay ra hạm đội Mỹ.

Lúc ấy tôi không đoan quyết là tôi muốn đi, vì vậy tôi không ra trực thăng. Tôi biết vẫn còn có các quân nhân đang chiến đấu dưới vùng đồng bằng, nên tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ đi Nam tham gia với họ. Nhưng rồi tôi nghe chính phủ đã đầu hàng Cộng sản. Khi ấy, tôi quyết định ra đi.

Tôi và một người bạn xuống sông Sàigòn. Có một chiếc tàu sắp đi, chúng tôi quyết định leo lên. Chúng tôi cảm thấy việc ra đi là rất tệ, nhưng khi chính phủ đã đầu hàng, còn hy vọng gì nữa?

Dân chúng Sàigòn cử hành lễ lạc hoan hô, họ đã bị Cộng sản dối gạt. Họ tưởng Cộng sản thắng thì chiến tranh không còn nữa. Bây giờ họ đã được một bài học.

Khi chiếc tàu của chúng tôi chạy trên sông Sàigòn, không ai nổ súng bắn chác gì. Trên tàu có đến 3000 người, chật ních đàn ông. đàn bà, trẻ con. Chẳng có thực phẩm nước uống, chúng tôi cũng chẳng rõ khi ra đến biển Nam Hải số phận ra sao. Nhưng chúng tôi vẫn đi vì chúng tôi không thể ở lại sống dưới chế độ Cộng sản được.

Lúc ra đi, chúng tôi đều nhìn đất nước Việt Nam một lần cuối. Hình ảnh sau cùng chúng tôi thấy là bãi biển đẹp đẽ ở Vũng Tàu. Hôm ấy là một ngày rất đẹp. Mặt trời soi rạng rỡ và mọi người đều khóc. Sau khi chúng tôi nhìn Vũng Tàu lần cuối, một người lính ở trên tàu rút khẩu súng kê dưới cằm, bóp cò tự sát. Vài người nhảy ra khỏi thành tàu, biến mất dưới biển. Tôi chứng kiến hai người đàn ông đã nhảy ra bên thành tàu.

Chúng tôi lênh đênh trên mặt biển ba ngày không thực phẩm, không nước uống. Ngày thứ ba, chúng tôi gặp một tàu Đan Mạch. Họ bốc đàn bà và trẻ con đưa đi Hồng Kông. Còn chúng tôi, họ tiếp tế đồ ăn nước uống, đủ cho chúng tôi không chết trên mặt biển, họ chỉ đường cho chúng tôi đến Hồng Kông. Suốt cuộc hành trình còn lại, chúng tôi im lặng không nói với nhau một lời.

Chúng tôi quá đau buồn. Chúng tôi đã mất quê hương.
Đại úy Nguyễn Quốc Định
(Sĩ quan hải quân)
“Các ông ra khỏi tàu tôi ngay!”

Tôi là sĩ quan hải quân Việt Nam, lúc ấy phụ trách một chiếc tàu tuần tiễu nhỏ, thủy thủ đoàn chỉ có sáu người. Chúng tôi có nhiệm vụ tuần tiễu dọc vùng duyên hải để chặn các tàu chở hàng lậu và tìm Việt Cộng chở vũ khí xâm nhập. Công tác không có gì nhiều. Việt Cộng chỉ mạnh dưới vùng đồng bằng, nhưng ở vùng duyên hải thì không.

Khi nhận chức với cấp bực đại úy năm 1969, tôi hãy còn rất trẻ. Tôi đã theo học trường đào tạo sĩ quan ở Hoa Kỳ. Lúc bấy giờ, khi tôi gia nhập hải quân, người ta đang cần nhiều sĩ quan, nhưng chỉ có một trường huấn luyện tại Việt Nam, nên người Mỹ đã giúp huấn luyện sĩ quan tại New Port, Rhode Island. Tôi được học Anh văn ở Việt Nam sau khi tốt nghiệp khoá huấn luyện căn bản. Họ gửi tôi đi học Anh văn tại một trường Sinh ngữ do các binh sĩ Hoa Kỳ phụ trách, tám tiếng một ngày.

Tôi không biết nhiều về chính trị, nhưng hiệp định Ba Lê làm tôi lo ngại. Sau khi quân đội Mỹ rút, người ta cắt giảm tiếp liệu, chúng tôi bắt đầu thiếu xăng nhớt đạn dược. Đôi khi có vài bộ phận trên tàu hư hỏng, chúng tôi phải chờ rất lâu mới có bộ phận thay thế. Rồi, vì thiếu nhiên liệu, chúng tôi phải rút bớt những chuyến tuần tiễu. Trước hiệp định Ba Lê, tôi có thể cho tàu đi tuần suốt ngày đêm. Sau hiệp định này, chỉ còn có thể tuần tiễu vài giờ mỗi ngày.

Mùa Xuân 1975, tôi ở Qui Nhơn. Sau vụ bỏ cao nguyên, tôi cho tàu đi bốc thường dân và binh sĩ dọc bờ biển, đưa họ lên tàu vào Cam Ranh, rồi chúng tôi lại rút thêm người đưa vào Sàigòn.

Tôi thấy tình trạng lúc ấy rất tệ hại. Không có kế hoạch gì đàng hoàng, binh sĩ phải vứt bỏ tất cả mọi thứ mà chạy.
Khi cuộc rút lui bắt đầu, tàu chúng tôi vẫn còn tiếp tục tuần tiễu. Nhiều người tỵ nạn đã ở vào hoàn cảnh thật khốn cùng. Một số binh sĩ lúc rút lui trở nên điên rồ, họ đã biến thành một bọn thô bỉ. Họ hãm hiếp cả những người đàn bà đi cùng tàu với họ.

Những người tỵ nạn đều chạy ra Phú Quốc. Tôi ở đấy, thấy tình trạng nơi này cũng rất xấu. Họ lại chuyển tôi ra Qui Nhơn. Vì địa bàn chiến tranh càng lúc càng thu hẹp, chúng tôi ngưng tuần tiễu. Từ đó, cấp trên bảo làm gì tôi làm nấy. Nếu họ bảo không làm gì, tôi chẳng làm gì. Các sĩ quan cao cấp có vẻ cũng không hiểu tình hình diễn tiến ra sao, nên họ chẳng ban lệnh lạc gì nữa. Họ giữ cho cấp dưới bình tĩnh bằng cách không làm gì cả, tôi nghĩ họ không còn biết hết mọi chuyện. Các thủy thủ trên tàu hỏi “Tinh hình ra sao” tôi trả lời “Chẳng biết ra sao. Chẳng người nào biết được tình hình ra sao cả.”

Thỉnh thoảng, bản thân tôi tự kiểm soát loanh quanh, xem chừng lỡ có người nhái của đối phương đến phá hoại tàu bè của chúng tôi chăng. Nhưng cũng chẳng có chuyện gì xảy ra.

Thế rồi đến ngày 29 tháng Tư, là lúc tôi hoàn toàn bối rối, không còn có thể hiểu chuyện gì xảy ra. Hôm ấy tàu của tôi đang phải sửa chữa, máy tàu bị hỏng. Chúng tôi ở cách Sàigòn mười dặm, trên sông Sàigòn. Lúc ấy tôi thấy trực thăng Mỹ bắt đầu bay vào.

Thực tình từ trước đến giờ tôi chưa hề nghĩ đến việc rời khỏi quê hương xứ sở. Ngay cả mơ đến chuyện ấy cũng không. Đến ngày 29, họ bảo Hải quân sẽ phải tái tổ chức. Họ bảo tôi phải ra đảo Côn Sơn để tái tổ chức. Sĩ quan Chỉ huy của tôi sẽ điều động hai mươi tàu, trong đó có cả tàu của tôi. Ông ta bảo sáu giờ chiều ngày 29 phải ra Côn Sơn. Khi nghe ông nói thế, tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sắp mất nước rồi. Nhưng bấy giờ gia đình tôi còn ở Sàigòn, tôi không muốn bỏ gia đình tôi lại. Cho nên tôi nghĩ tôi phải về Sàigòn đón gia đình tôi trước.

Tôi bèn đi Sàigòn. Nhưng có vài người trong thủy thủ đoàn của tôi không muốn làm như thế. Vài người đi thẳng ra Côn Sơn. Vài người đi với tôi về bộ Tư lệnh Hải quân, nơi này chỉ cách nhà tôi có một dặm, tại Sàigòn. Mấy chiếc tàu lớn của Hải quân đã rời Sàigòn cả. Tôi không rõ mấy chiếc tàu lớn đã đi đâu, họ không cho một ai hay biết gì.

Tôi vào thành phố, lúc ấy nửa đêm. Tình trạng bấy giờ hết sức đông đảo chen chúc hỗn loạn, dân chúng ùa đến tìm mọi cách leo lên mấy chiếc tàu. Tôi lo người ta cướp tàu của tôi, nhiều người là binh sĩ. Thủy thủ của tôi chỉ có năm người, tôi bèn để lại tàu ba người canh gác. Tôi rời tàu với một người bạn, rồi về nhà.

Dân chúng ai nấy tràn ra ngoài đường. Tôi đi bộ qua toà Đại sứ Mỹ, thấy người bu đông nghịt xung quanh cổng chính. Tôi cố kiếm một chiếc xe gắn máy, bấy giờ xe hơi xe gắn máy bỏ ngổn ngang trên đường. Lúc ấy vẫn có giới nghiêm, nhưng thật ra chẳng hiệu lực gì. Trong đêm, tôi thấy có lửa, tôi thấy người đứng trên sân thượng toà Đại sứ, nhưng tôi không thấy trực thăng đáp xuống. Nhiều người cố tìm cách lọt vào trong toà Đại sứ, nhưng tôi nghĩ họ cũng biết không còn cách gì có thể lọt vào được nữa. Lúc ấy là hai giờ sáng ngày 30 tháng tư. Phải mất một tiếng đồng hồ đi bộ tôi mới về đến nhà. Tôi vẫn còn đội mũ sắt, mặc đồ trận, tôi cảm thấy hệt như mình đang sẵn sàng ra mặt trận.

Gia đình tôi hãy còn đầy đủ trong nhà, họ không biết tình hình ra sao. Họ đều sợ. Cha tôi, trước là cảnh sát Sàigòn, ông có quan tâm về việc ra đi, nhưng không biết làm cách nào ra khỏi xứ. Gia đình tôi gồm cha mẹ và tám đứa con nữa, tất cả là mười người tôi phải đưa đi. Trước đó, có một số phi công bên Không quân đã cố đưa gia đình sang Thái Lan, nhưng họ đều bị bắt, bị đưa trở lại Việt Nam. Người ta bảo chúng tôi rằng nếu chúng tôi đi, họ sẽ chặn lại nhốt tù.

Tôi mang về nhà vài quả lựu đạn, vài cây súng. Tôi bảo mẹ tôi nếu Cộng sản vào nhà, tôi sẽ giết và tôi cũng tự sát cùng với chúng. Mẹ tôi bảo tôi muốn làm gì thì làm. Tôi bảo tôi sẽ giết hết mọi người trong gia đình rồi cùng chết với nhau, mẹ tôi nói thế cũng được. Tôi không biết tôi có thể làm thế được không, nhưng tôi đã nói với cả gia đình như vậy. Cha tôi bảo thế cũng xong.

Lúc ấy, tôi không rõ đất nước mất hay còn. Nhưng trước đấy một tuần, tôi đã mang một số vũ khí về nhà, bởi tôi nghĩ nếu bất cứ chuyện gì xảy ra, sớm muộn tôi cũng chết và tôi muốn gia đình tôi có thể tự vệ được khi tôi không có mặt.

Tôi là người trụ cột trong gia đình. Cha tôi không làm gì được nữa. Phần tôi, lúc ấy thực tình không rõ phải đi đâu, hoặc nếu rời Sàigòn rồi làm gì.

Nhưng tôi quyết định phải đi. Tôi nói với cha mẹ tôi rằng nếu muốn đi thì đi với tôi. Tôi có một chiếc xe gắn máy, tôi chở dần hai đứa bé ra cảng, bỏ chúng đấy, rồi quay lại chở hai đứa nữa. Tàu của tôi vẫn còn đấy, có một đám đông bu lại gần nhưng họ không lấy được tàu, vì có lính canh. Tàu đậu giữa sông, mỗi lần tôi mang người trong gia đình đến thì tàu chạy vào, rồi chạy ra, cứ mỗi lần đến, tôi lại phải gọi.

Sau chuyến thứ hai, tôi nhờ người đi về đón số người còn lại trong gia đình tôi. Mấy thủy thủ đâm hoảng, họ lo nếu rời tàu thì tôi có thể bỏ họ mà đi. Tôi hứa bảo đảm vói họ là tôi sẽ đợi cho đến trưa. Vậy mà họ vẫn quyết định cứ ở lại hơn là rời tàu đi đón thân nhân.

Bảy người trong gia đình tôi ra đến tàu. Cha tôi cùng một người em trai và một cô em gái của tôi ở nhà. Họ không đi. Cô em gái tôi là giáo viên, nó và người chồng không muốn đi.

Trong lúc đợi gia đình tôi thì ở ngoài tàu đã có nhiều người lọt được vào trong tàu. Tôi phát điên lên. Mấy người thương gia đưa ra đô-la, đưa ra vàng. Tôi quát: “Các ông ra khỏi tàu tôi ngay!” Tôi rút súng bắn chỉ thiên, đuổi họ đi. Họ van vỉ khóc lóc, nhưng làm sao đủ chỗ cho họ đi. Tôi bảo thủy thủ của tôi ném họ ra khỏi tàu. Vài người có vợ, con, và cả hành lý. Nhưng tôi phải mang gia đình tôi đi. Tôi phải lo gia đình tôi trước.

Cũng nhiều người có súng, nhưng họ không lên tàu vì họ thấy tàu không đi nổi, lúc ấy đã có khoảng bốn chục người trên tàu rồi. Quá đông, chiều dài chiếc tàu chỉ có mười thước, chiều ngang ba thước và có hai tầng.

Chúng tôi đi khoảng 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư, chạy đường sông, ra biển Nam Hải. Chúng tôi phải qua Rừng Sát là nơi đầy Cộng sản, lòng sông rất cạn, qua đây hết sức nguy hiểm. Có hai chiếc tàu nữa cùng đi với chúng tôi. Lúc ấy tôi rất sợ vì lẽ chiếc tàu rất nhỏ, chỉ một quả rốc-két bắn đến là mọi người tiêu hết. Rồi chúng tôi thấy có một chiếc tàu lớn chạy đến, một chiếc tàu dân sự, trên tàu chở đầy những người giàu có. Chiếc tàu này tên là Vong Hong Ni, chở khoảng ba trăm người. Tôi cho tàu cập lại, bắt họ dừng. Tôi rút súng cầm tay, bảo họ nếu không dừng là tôi bắn. Họ sợ, nên dừng tàu, cho tất cả chúng tôi leo lên. Sau đó chúng tôi cắt dây, thả chiếc tàu nhỏ của chúng tôi trôi đi. Đêm hôm ấy chúng tôi đi ngang Vũng Tàu, nghe máy thu thanh nói Sàigòn đã đầu hàng. Tôi tự bảo “Thôi, thế là xong.”

Ra khỏi Vũng Tàu, chúng tôi nhìn thấy Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ. Chúng tôi nghĩ họ sẽ chờ sáng rồi cho chúng tôi lên, nhưng họ biến mất. Rồi một chiếc tàu Hải quân Việt Nam tiến đến, hai tàu chúng tôi cứ thế theo nhau mà đi suốt bảy ngày đêm.

Cuối cùng chúng tôi đến được Subic Bay, Phi Luật Tân, từ đây họ đưa chúng tôi sang đảo Wake rồi đến trại tỵ nạn Fort Chaffee. Sau, chúng tôi đến định cư ở thành phố Nữu Ước.

Sau đó tôi cố viết thư liên lạc vói cha tôi, nhưng không dám viết trực tiếp. Tôi gửi đến địa chỉ mấy người hàng xóm gần nhà để nhờ chuyển cho cha tôi, nhờ vậy em gái tôi biết tin chúng tôi đã tới nơi bình an. Cha tôi bị đưa vào trại cải tạo, ông bị ở đó năm năm. Cha tôi chỉ là một cảnh sát cấp đại úy, tôi không biết tại sao chúng bắt cha tôi đi lâu như vậy.

Ông được thả năm 1980. Ông muốn vượt biên cùng với cậu em trai và gia đình em gái tôi. Tôi tìm cách gửi tiền mua vàng cho họ đi. Nhưng cha tôi không thoát. Chuyến vượt biên ấy chở quá đông. Đáng lẽ chỉ chở được bốn mươi người, nhưng chủ tàu tham lam, hắn đã chở đến một trăm hai mươi người. Hắn tưởng chỉ mất hai ngày là đến được Mã Lai, ngờ đâu phải đi đến bảy ngày đêm. Tàu không có tài công nhà nghề, lại gặp bão trên biển. Cha tôi bị chết đói. Chú em trai, cô em gái tôi và hai đứa con gái của nó sống sót. Nhưng chồng nó chết. Tàu bị rỉ nước, chồng nó cố sức tạt nước cứu gia đình, nên đã chết vì kiệt sức.

Thú thực với ông, cuộc sống của tôi tại đây tốt đẹp hơn. Phần lớn bạn hữu của tôi cũng nói như thế. Nếu có cơ hội về nước thì thực tình tôi chẳng biết làm gì. Đôi khi ban đêm nằm ngủ ở thành phố Nữu Ước này tôi vẫn còn những cơn ác mộng. Tôi mơ thấy mình vẫn đang ở Việt Nam, bị Cộng sản bắt đưa vào trại cải tạo. Tôi bị mộng mị như vậy trong suốt mấy tháng.Bây giờ tôi không còn mộng mị như thế nữa.


(Ghi chú của tác giả: Sau cuộc phỏng vấn này chỉ một thời gian ngắn, Đại úy Định đã mất vì bị ung thư phổi vào mùa hè năm 1987)
Chương 16: Dân Sự Việt Nam
NGUYỄN PHÚC HẬU
(Phó Chủ Tịch Hội Đồng Thị xã Nha Trang)
“Vâng, chúng tôi đã chiến đấu”

Tôi nguyên là Phó Chủ Tịch Hội đồng Thị Xã Nha Trang và Tỉnh Khánh Hòa. Tôi được bầu vào chức vụ ấy năm 1970, sau đó tái đắc cử năm 1974 với nhiệm kỳ bốn năm.
Chính trị có sẵn trong huyết quản tôi. Tôi mong tham gia chính trị để phục vụ dân tộc tôi. Tôi sinh năm 1931, thế hệ tôi chính là một thế hệ của chiến chinh. Khi tôi còn nhỏ, bấy giờ là thời Thế giới đệ nhị Thế chiến. Chúng tôi đã chiến đấu chống Nhật. Đến khi tôi trưởng thành, người Việt chúng tôi chiến đấu chống Tàu, chống Pháp, chống Mỹ và chống cả lẫn nhau. Chiến đấu không ngừng.

Tôi thực rất mong có ngày được nói chuyện với Mike Mansfield. Sau khi Saigon sụp đổ, lúc đang ẩn náu ở Saigon, mở đài Tiếng Nói Hoa Kỳ tôi có nghe Mike Mansfield tuyên bố: “Đất Việt Nam không đáng giá mảy may cho một sinh mạng Mỹ!! ” Lời tuyên bố ấy làm tôi rất buồn, vì tôi nhớ đến sự dũng cảm của những cố vấn Mỹ của tôi trong cuộc chiến, những người mà tôi đã có lòng thương mến. Tôi nghĩ những người Mỹ tham dự vào cuộc chiến Việt Nam mà tôi biết, họ đều hiểu rằng họ đã chiến đấu cho một lý do cao cả: Bảo toàn Tự do. Mike Mansfield không hề biết gì về việc đã có bao nhiêu người bỏ mình tại đất nước Việt nam trong công cuộc chiến đấu chống Cộng, ông ta không xem truyền hình để thấy hàng bao nhiêu ngàn con người tháo chạy khỏi các Tỉnh khi Cộng sản tiến vào. Ông ta cần phải biết vì đâu họ chạy. Ngay từ năm 1954 đã hơn một triệu người Việt bỏ chạy từ bắc vào Nam. Mike Mansfield cần phải biết tại sao.

Tôi ở Nha Trang ngày Thị xã này thất thủ. Tôi đã bảo vợ tôi nên vào Phan Rang với người chị cho an toàn, phần tôi ở lại Thị xã Nha Trang vì nhiệm vụ của tôi. Tôi là người đứng tổ chức cứu trợ đồng bào tỵ nạn từ các thành phố khác đến. Hai ngày trước khi Nha Trang sụp đổ, chúng tôi đã gửi một lá thư cho Tướng chỉ huy quân đội đóng quanh Thị xã, chúng tôi yêu cầu một buổi họp với ông nhằm tổ chức phòng thủ Thị xã. Chín giờ sáng, vào ngày Thị xã thất thủ, tôi đến văn phòng tham dự cuộc họp với những người trong tổ chức cứu trợ tỵ nạn và đợi viên tướng đến. Nhưng mười một giờ, vẫn không thấy. Chúng tôi điện thoại cho tòa Tỉnh, ở đó không ai có mặt. Chúng tôi điện thoại cho các viên chức khác. Cũng không có ai. Thế rồi có người đến cho biết tất cả đều đã đi. Họ đều đã ra đi mà không hề mở miệng nói một câu nào.

Tôi không còn tin nổi. Mới tuần trước, tôi với ông Chủ tịch cùng với ông Tỉnh Trưởng hãy còn đi Khánh Dương, nằm ở ranh giới hai tỉnh Ban Mê Thuột và Khánh Hòa, nơi lính Nhảy dù đóng. Chúng tôi đưa thực phẩm và đồ tiếp tế đến khích lệ anh em binh sĩ. Chúng tôi nói chuyện với họ, bảo toàn thể dân chúng trong tỉnh đứng sau lưng họ, nhiệm vụ anh em là tiếp tục chiến đấu, giữ vững, đừng để khu vực này rơi vào tay Cộng sản. Chúng tôi hãnh diện vì anh em đã chiến đấu kiên cường, chúng tôi tin tưởng anh em vẫn có thể tiếp tục chiến đấu. Nhưng ngày hôm ấy, thực đáng buồn.

Sau này tôi nghe nói hầu hết những chiến sĩ nhảy dù ấy đã tử trận. Ngày Cộng sản tấn công, họ không hay hậu tuyến đã rút chạy. Họ tiếp tục gọi yểm trợ, gọi không quân, gọi tiếp vận, nhưng không ai trả lời. Bị Cộng sản bao vây, họ vẫn tiếp tục đánh, không chịu hàng nên bị Cộng sản giết sạch. Nhảy dù là những người lính thiện chiến. Những chiến sĩ ưu tú nhất.

Tôi là người rất bướng bỉnh. Có lần vợ tôi đến bảo rằng: “Ông ạ, tôi nghe nói Mỹ đã rút, mình thất trận rồi” Bà ấy hỏi: “Ông định chuyện gia đình thế nào, có chạy đi đâu hay không?” Tôi nói: “Tôi không tin mấy chuyện ấy. Ngu ngốc quá!” Bấy giờ hãy còn là vào khoảng đầu năm 1975. Tôi nói: “Chúng ta vẫn còn có thể đánh Cộng sản được”. Vợ tôi lại bảo đã có nhiều gia đình dọn vào Saigon cả rồi. Tôi vẫn nói “Kệ xác cho họ dọn. Mình cứ ở lại”

Tôi đã tin tưởng rằng ngay cả trong trường hợp mất các Tỉnh khác, người ta vẫn giữ được Nha Trang, chúng tôi vẫn được an toàn.

Nhưng sau các Tư lệnh, các Tỉnh trưởng, Thị Trưởng bỏ chạy thì Nha Trang hỗn loạn. Tù nhân thoát ra, đập phá hàng quán, đốt cháy chợ búa.

Cách thất trận của chúng tôi thực hết sức lạ lùng. Có một gã gác dan trong một ngôi trường dòng ở Nha Trang vốn là Cộng sản, hắn chứa vũ khí Cộng sản trong trường, chính hắn dẫn Cộng sản vào Thị xã. Sau này hắn bảo chúng tôi Cộng sản ở Nha Trang không biết các chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã rời Thị xã rồi. Nếu họ biết thì họ chiếm ngay hôm ấy, như thế đã tránh được việc hỗn loạn trong Thị xã. Hắn kể hắn đi Tuy Hòa báo cáo với Trung đoàn trưởng Trung Đoàn Sao Vàng: “Ổn thỏa rồi, thị xã Nha Trang đã trống rỗng. Dân chúng và các cấp chỉ huy quân đội đều đã chạy. Ta nên vào chiếm lấy thôi”. Nhưng viên Trung đoàn Trưởng vẫn không tin nổi. Hắn kể rằng viên Trung đoàn trưởng vẫn cho hắn báo cáo láo. Hắn phải thuyết phục viên Trung đoàn trưởng cho người theo hắn vào Nha Trang quan sát tình hình. Bọn trinh sát trở lại, báo rằng quân đội Việt Nam Cộng Hòa quả đã rút hết, do đó họ mới vào chiếm thị xã. Chúng tôi chỉ buông xuôi mà bỏ đi.

Chúng tôi đã bỏ đất nước Việt Nam cũng như đã bỏ Thị xã Nha Trang. Chúng tôi đã có thể thắng trận chiến này, nhưng chúng tôi đã buông mà tháo chạy. Việc sụp đổ Nha Trang và việc Cộng sản tiến chiếm thị xã này chính là điển hình cho tất cả cuộc chiến Việt Nam vậy.

Tôi không hiểu được tại sao. Khi ở Vũng Tàu, tôi đã vào Saigon dự phiên họp các cấp chỉ huy Hội đồng Tỉnh để duyệt lại tình hình mỗi Tỉnh. Bấy giờ tôi có liên lạc với một số nhân vật chính trị, chúng tôi đều quyết định là chúng tôi muốn tổ chức và quay lại: Một tổ chức để giữ vững miền Nam Việt Nam. Thắng hay bại không quan hệ. Chúng tôi đã có kế hoạch di chuyển chính quyền xuống Cần Thơ, bỏ trống Sài Gòn cho Cộng sản, chúng tôi sẽ chiến đấu, cố giữ một chính quyền, như thế sẽ có tiếng nói hợp pháp với thế giới bên ngoài.

Kế hoạch này làm tôi thấy phấn khởi. Tôi phát biểu rằng: “Chúng ta sẽ gửi một thông điệp. Bất cứ ai muốn chiến đấu chống Cộng đều có thể xuống mạn Cần Thơ, chúng ta sẽ tổ chức tại đó một tiền tuyến để đánh Cộng sản và giữ cho chính quyền được an toàn”.

Một tuần lễ trước khi Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ, tôi quay trở lại xem xét tình hình thì bạn tôi bảo: “Không được nữa rồi. Bọn Mỹ không chịu.”

Trong năm 1975, tôi đã từng có rất nhiều cơ hội để ra khỏi nước. Tôi có rất nhiều bạn bè từ Nha Trang vào, họ có tàu; nhưng vì tôi rất thất vọng với người Mỹ, tôi bảo: “Tôi sẽ ở lại”. Đấy là một lỗi lầm đeo đẳng suốt đời tôi. Lỗi lầm ấy gây ra cái chết cho người con trai lớn của tôi.

Bấy giờ chiến trận mỗi lúc một gần Vũng Tàu, nơi tôi đưa gia đình vào. Ở đấy hãy còn Thủy quân Lục chiến Việt Nam, họ vẫn tiếp tục chiến đấu. Vào hôm mất Vũng Tàu, tôi chứng kiến hai người lính Mỹ cùng với Thủy quân Lục chiến bị Việt cộng bắt. Tôi không rõ số phận họ ra sao.

Vợ con tôi và tôi họp lại cầu nguyện và cùng khóc. Toàn thể đất nước sụp đổ rồi. Cộng sản là bọn sát nhân. Một người bạn tôi rất kinh hoảng. Anh vào một Trung tâm tỵ nạn ở Vũng Tàu, mở buồng tắm khóa chặt cửa lại, suốt ngày ở bên trong. Anh sợ Cộng sản vì anh đã suýt bị Cộng sản chôn sống trong kỳ Tổng công kích Tết Mậu Thân ở Huế. Tôi đến gọi anh ra, mang cho anh ít đồ ăn. Cuối cùng anh ra, rồi chạy mất. Tôi không rõ sau đó anh ra sao.

Sáng 30 tháng Tư, có tiếng súng máy nổ bên khách sạn gần chỗ chúng tôi. Vẫn còn những trận đánh diễn ra, mặc dù nghe đài phát thanh chúng tôi được biết tại Saigon người ta đã trao quyền cho Cộng sản.

Tôi mong ông sẽ kể lại chuyện này cho công chúng Mỹ: Đó là vào buổi trưa ngày 30 tháng Tư, sau khi chính phủ đã chuyển giao quyền hành cho Cộng sản rồi, thì tại một địa điểm ở Thị xã Vũng Tàu vẫn còn một cuộc chiến đấu cho đến tận hai giờ ba mươi phút. Bởi những thiếu nhi. Những thiếu nhi theo học quân trường. Những thiếu nhi, những trẻ em con cái các tử sĩ đã hy sinh trên chiến địa. Các em vẫn tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả những người khác đều đã đầu hàng! Các em thiếu nhi của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu.

Rất nhiều em trong đó đã bị sát hại. Một ngày sau đấy tôi có gặp một em trong nhóm giữa lúc thị xã này náo loạn. Tôi không quen em, nhưng tôi nhận ra nhờ mái tóc cắt rất đặc biệt của các Thiếu sinh Quân. Tôi hỏi thăm: “Chuyện ra sao? Ở đấy các em vẫn còn tiếp tục đánh à?” Em nói: “Vâng, chúng tôi đã đánh với Cộng sản” Em rất hãnh diện đã chiến đấu chống Cộng.

Tôi hỏi thăm thì em kể lại rằng một ngày trước khi Việt cộng vào Thị xã, cố vấn Mỹ đã đến trường đưa Đại tá Chỉ huy trưởng lên trực thăng đi mất với ông ta. Do đó, người chỉ huy kế tiếp là một Đại úy đã tập họp tất cả Thiếu Sinh Quân lại mà bảo: “Được, bây giờ chúng ta sẽ đi đến một địa điểm”. Các Thiếu sinh quân đều đi với Đại úy, nhưng chẳng biết đi đâu. Đại úy không có chỉ thị chính thức nào của Đại tá nên cũng chẳng biết làm gì. Cuối cùng ông cho các em dừng lại, nói rằng ông muốn đưa các em ra khỏi Thị xã, nhưng cũng chẳng biết đi đâu. Vậy bây giờ tất cả phải giải tán mà đi đi. Nhưng các Thiếu sinh quân cũng chẳng biết đi đâu nữa. Có em ở Vũng Tàu. Có em ở Cần Thơ. Chẳng em nào có tiền bạc gì mà đi.

Vì thế các Thiếu sinh quân lớn nhất đã tập họp tất cả các Thiếu sinh quân khác trên đường phố, quyết định rằng những em lớn sẽ quay về lại trường, tổ chức phòng tuyến đánh Cộng sản. Còn các em nhỏ hãy chạy đi, biết đâu có thể may mắn kiếm được gia đình nào nuôi dưỡng các em. Thế rồi khoảng năm mươi em lớn nhất trong bọn, tuổi chừng mười hai mười ba, đã phá kho quân dụng của trường Thiếu Sinh Quân, lấy được một khẩu súng máy, tổ chức phòng tuyến, lập đồn chiến đấu khi Cộng sản đến. Và quả khi Cộng sản đến, các Thiếu sinh quân đã chiến đấu chống lại. Cộng sản không thể nào lọt vào trường. Khi kể lại chuyện này, các Thiếu sinh quân rất kiêu hãnh. Trưa hôm ấy, chính phủ đã trao quyền tại Saigon, nhưng các em Thiếu sinh quân vẫn tiếp tục cuộc chiến. Cho đến hai giờ ba mươi trưa, Cộng sản loan báo là nếu các em không ngừng đánh, chúng sẽ bắn rốc kết vào trường tiêu diệt hết.

Tôi hỏi thế khi Cộng sản vào được trong trường thì chuyện gì xảy ra. Các em bảo chúng tập họp các em trong sân rồi nói các em về nhà.

Phần tôi cùng gia đình cũng chẳng biết đi đâu. Cuối cùng chúng tôi quyết định lấy một chiếc xe vận tải đi Saigon. Trên đuờng đi Saigon, chúng tôi gặp tai nạn chết một người con lớn. Chiếc xe vận tải của chúng tôi bị sa vào hố do rốc kết cầy lên. Bánh trước bể. Đó là một cái xe tải, phần sau trống. Xe lật nhào. Con trai tôi tử nạn.

Tại Saigon bấy giờ tình hình đang hỗn loạn. Người nào cũng ngơ ngẩn, chẳng ai còn hiểu chuyện gì. Chẳng khác nào khi bị xúc động quá mạnh, người ta không còn cảm thấy gì và tin gì nữa.

Chúng tôi chôn cất đứa con đã mất, và cuộc chiến đã tàn.
NGUYỄN THỊ LẠC
(Thương gia)
“Chắc chúng tôi bỏ mạng nơi đây”

Tôi chào đời ở Đà Lạt, lớn lên ở Huế và Đà Nẵng. Tôi học trung học tại thành phố Đà Nẵng. Sau nhờ cha mẹ tôi giúp cho chút ít vốn liếng, tôi mở một gian hàng buôn bán nhỏ ở Nha Trang, một tiệm bán đồ kỷ niệm. Nhờ buôn bán khá, tôi mở thêm một tiệm nữa ở Saigon. Khách hàng đa số là người Mỹ.

Khi Mỹ rút khỏi Việt Nam năm 1973, nhiều người Mỹ đã bảo tôi rằng Nam Việt Nam chẳng thể nào sống sót nổi. Họ nói công chúng Mỹ đã chán ngán chuyện Việt Nam lắm rồi. Không có Mỹ trợ giúp, Việt Nam tất sẽ bị đánh bại thôi. Tại Nha Trang và Saigon bấy giờ cũng có nhiều dư luận cho rằng trong khi Mỹ và Cộng sản thương thảo tại Ba Lê, hai bên đã có những thoả thuận ngầm. Dư luận bảo Mỹ sẽ rút, Cộng sản sẽ chiếm cả miền Nam, chẳng ai sẽ chặn chúng lại được nữa. Dư luận bảo chỉ trong vài tháng miền Nam sẽ bị chiếm. Những dư luận ấy được chứng tỏ là đúng.

Ngay sau khi Hiệp định Ba Lê ký kết, tôi về thăm cha mẹ tôi và nói rằng: “Quốc gia sẽ thua. Mỹ đã bán đất nước này cho Cộng sản rồi. Bây giờ người mình chẳng còn cơ may nào. Việt Nam sẽ chẳng còn nữa đâu”. Tôi nói với cha mẹ tôi nếu không muốn sống dưới chế độ Cộng sản thì tốt hơn hết phải tìm cách ra khỏi nước. Đầu năm 1975, tôi cũng có nghe những chuyện về ong và sâu rầy. Nhưng không phải ai cũng tin những chuyện ấy. Dân quê có khuynh hướng tin mấy chuyện này hơn là dân thành thị. Ớ thành phố, chúng tôi thường không tin dị đoan như thế.

Khi người tỵ nạn từ cao nguyên đổ xuống và từ phía Bắc chạy vào, tình hình Nha Trang hết sức tệ hại. Lính tráng mất kiểm soát. Họ thẳng tay giết người không lý do. Họ dùng súng cướp bóc dân lành. Hãm hiếp các em gái. Họ làm mọi người kinh sợ, không ai ngăn chặn họ được.

Tôi muốn cha mẹ tôi rời Nha Trang vào Saigon, nhưng cha mẹ tôi không chịu. Nha Trang là quê cha mẹ tôi. Tôi cũng muốn đứa em gái tôi ở Đà Lạt vào Saigon cho an toàn, nhưng em tôi không muốn rời xa người bạn trai ở Đà Lạt. Em tôi bây giờ vẫn còn ở đấy.

Nha Trang rơi vào tay Cộng Sản. Người tỵ nạn chạy túa vào Saigon. Tôi biết chúng tôi đã lâm tình thế ngặt nghèo. Những người tỵ nạn vào bảo Cộng sản sẽ giết những ai làm ăn buôn bán với Mỹ. Họ nói Cộng sản có sẵn một danh sách những người chúng muốn xử tử. Vì tôi buôn bán với Mỹ, tôi đâm lo. Tôi nghĩ có thể tôi đã có tên trong danh sách ấy. Nếu chúng vào đến Saigon, chắc chúng giết. Tôi phải đi thôi.

Tôi cố xoay sở, bán tiệm. Nhưng không ai mua. Tiền nong vốn liếng đều kẹt cả trong cửa tiệm và căn nhà. Nhưng ngay đến lúc ấy, nhiều người ở Saigon vẫn không tin Cộng sản sẽ vào thành phố. Người ta bảo “Chuyện này sẽ qua, Cộng sản sẽ thua, nếu ngặt nghèo quá, Mỹ lại nhảy vào”. Nhưng cũng có người bảo: “Điên vừa thôi, Cộng sản đang thắng, ta thua đến nơi rồi”. Những người này đều tìm mọi cách ra khỏi nước.
Tuy nhiên, muốn ra khỏi nước cũng chẳng phải dễ. Người Mỹ, người ngoại quốc còn có thể đưa gia đình đi, người Việt làm sao? Ít nhất cũng phải có bạn Mỹ. Có người bảo trợ. Phải kiếm ra một người như thế…. Nên khi đến Tòa Đại sứ Mỹ thăm hỏi thủ tục xin đi, người ta chỉ trả lời tôi gọn lỏn: “Chẳng cách gì!”

Nhưng tôi vẫn cố chạy. Tôi thăm hỏi đầu này đầu nọ. Nghe nói có một người Mỹ dân sự làm ở Tòa Đại sứ, người này có vợ Việt, họ có đường dây đưa người đi. Nhưng cũng nghe nói họ đòi giá rất cao. Tiền nong chẳng có nhiều, nhưng tôi thầm nghĩ: Tại sao không thử. Biết đâu họ đưa đi được?

Thế rồi một bà Việt Nam làm việc với người Mỹ ấy cùng đi với vợ ông ta đến gặp tôi. Bà ta bảo có bao nhiêu tiền nong thì phải đưa hết mới đi được. Tôi nói tôi không có nhiều lắm đâu. Bà ta bảo cô phải biết những nhân vật cao cấp trong quân đội đã trả đến ba chục ngàn đô để ra đi. Có tiền mới đi được. Không tiền, đừng hòng đi nổi.

Tôi chạy vạy được một số tiền để thu xếp đến gặp người Mỹ nọ. Tôi nhờ một người bạn lái xe đến điểm hẹn, nơi người Mỹ đặt đường dây đưa người đi. Đó là một cao ốc ở đường Hai Bà Trưng. Tôi bước vào, đi thẳng lên lầu bốn, ngoài cửa chẳng có bảng đề cơ quan gì, nhưng chung quanh có lính Mỹ mặc đồng phục đứng canh. Khi lên lầu bốn, đã thấy rất đông người có mặt. Tôi chờ trong hành lang cùng với những người khác. Đợi rất lâu. Trong cái phòng trên căn lầu bốn ấy có một người đàn bà đang phỏng vấn từng người. Đợi mãi, cuối cùng mới đến lượt họ gọi tôi vào.

Trong phòng có một người đàn bà và một người đàn ông. Họ hỏi: “Bao nhiêu tất cả?” Tôi đưa hết ra. Tất cả nữ trang, tiền nong tôi có. Họ bảo: “Bấy nhiêu sao đủ?” Tôi hỏi: “Vậy ông bà đòi bao nhiêu?” “Mười ngàn đô. Không đủ cứ việc ở lại. Cộng sản nó chiếm đến đây phiền phức rán chịu. Biết đâu Cộng sản chẳng sơi luôn cái mạng của cô!” Tôi bảo tôi đâu còn có tiền nong gì nữa. Tôi khẩn khoản xin họ cho tôi đi. Họ bảo ra ngoài hành lang ngồi đợi.

Thế rồi họ cũng cho tôi đi. Họ bảo cứ chờ trong hành lang với những người khác. Lát sau họ đưa chúng tôi xuống dưới phòng khách. Đợi một lúc nữa, có xe đến đón. Một người Mỹ lái nhưng hắn không mở miệng nói câu nào. Họ bảo vào xe. Bấy giờ tôi chỉ mang theo có mỗi cái va ly, nhưng vội vã chạy vào xe, đã bỏ quên cái va li tại phòng khách. Vậy là tôi hoàn toàn trần trụi. Chẳng còn gì ngoài hai mảnh quần áo che thân.
Người Mỹ lái xe đưa chúng tôi đến một cao ốc khác, cũng ở trên đường Hai Bà Trưng. Họ đưa chúng tôi vào, dắt lên từng hai, đến một căn phòng trống. Họ bảo chúng tôi im lặng đợi.

Suốt đêm, chúng tôi ở trong căn phòng, lăn ra sàn mà ngủ. Ai cũng bồn chồn, lo lắng. Chẳng ai nói với ai một câu. Họ cảnh cáo không cho chúng tôi nói chuyện. Không ai biết chắc mình đang ở đâu, rồi đến nơi nào. Cho đến sáng, chúng tôi mới dám mở miệng nói với nhau, đùa bỡn chút đỉnh. Đã mười hai tiếng đồng hồ không hề có miếng cơm, miếng nước, ai nấy đói lả.

Cuối cùng, một người đàn ông đề nghị để anh ra ngoài kiếm ít đồ ăn cho mọi người. “Tui đi kiếm ít ổ bánh mì với vài ly cà phê cho bà con”. Anh ta nói. Tôi bảo: “Ông ơi đừng đi. Không chừng quay lại chẳng kịp đâu”. Những người khác cũng bảo: “Đừng đi”. Anh ta bảo: “Tại sao lại đừng đi? Tui biết người Mỹ chớ. Họ tốt lắm đó. Tui đi vài phút thôi, họ sẽ đợi mà”.

Thế là anh ta đi kiếm bánh mì, cà phê. Một người đàn ông hiền lành, tốt bụng. Anh đi mua đồ ăn thức uống cho tất cả mọi người. “Một bữa ăn cuối cùng ở Việt Nam”, anh ấy nói. Vài phút sau khi anh ta đi, mấy người Mỹ đến. Họ bảo chúng tôi tới giờ rồi. Chúng tôi bảo làm ơn chờ cho một người nữa. Họ bảo không được. Thế là chúng tôi phải đi. Khi người đàn ông trở lại, chúng tôi đã đi cả.

Mấy người Mỹ bảo bây giờ họ sẽ lái xe đưa chúng tôi đến phi trường. Chúng tôi dùng thang máy xuống hầm đậu xe. Cửa thang máy mở, chúng tôi thấy để sẵn một cái xe thùng bít bùng. Không cửa sổ. Hệt cái xe chở bánh. Chúng tôi vào cả trong xe. Họ lái chúng tôi lên Tân Sơn Nhất. Bấy giờ mọi người mới bắt đầu cảm thấy âm thầm buồn bã về chuyện rời bỏ quê hương đất nước ra đi. Vài người gạt nước mắt.

Chúng tôi đến phi trường gần trưa. Ra khỏi xe, họ chỉ dẫn cho chúng tôi đến một khu doanh trại lớn. Trong những căn trại này chúng tôi thấy đã có nhiều người chờ. Họ chờ đợi trong những căn trại khác nhau. Mỗi khi có một chuyến bay tới bốc người đi xong, tất cả những người ở căn trại dưới được chuyển lên căn trại kế. Khi chúng tôi đến, họ cho chúng tôi vào một căn ở xa chỗ máy bay nhất.

Tôi bước ra ngoài. Bên ngoài căn trại tôi chợt thấy một người Mỹ. Ông ta là một người bạn quen biết, tên là ông Albertson thì phải. Ông ấy mừng rỡ trông thấy tôi. Ông ta hỏi: “Cô làm gì ở đây”. Tôi bảo: “Tôi sắp đi khỏi nước, tôi đang chờ máy bay cùng với nhiều người ở căn trại kia”. Ông ta bảo: “Những người ấy sẽ không bao giờ đi được đâu. Đã trễ lắm rồi”. Nghe thế tôi choáng váng. Tôi bảo ông Albertson tôi sợ lắm, tôi sợ Cộng sản giết. Rồi tôi bắt đầu khóc. Ông ta nói: “Đừng lo, tôi sẽ giúp cô đi”. Ông ta dắt tôi lên căn trại đầu tiên, ở trên cùng. Ông chỉ cho tôi một chiếc máy bay lớn, một chiếc C-130, bảo đó là chiếc máy bay kế tiếp sắp cất cánh, cô sẽ được đi chuyến này. Tôi bước vào trong căn trại, cùng chờ với những người ở bên trong.

Vài phút sau, chiếc xe buýt đến. Người tài xế bảo chúng tôi lên đi chuyến bay kế. Chúng tôi lục tục vào xe. Tài xế chở chúng tôi chạy ra phi đạo. Rồi ông ta ngừng lại. Chúng tôi cứ thế ngồi chờ rất lâu. Thế rồi trong khi ngồi chờ, trên phi đạo, chợt vài chiếc phi cơ bay đến. Mấy chiếc máy bay này bay rất thấp. Họ dội bom lên phi đạo.

Lúc ấy xế trưa, trời nóng bức, đột nhiên bom nổ khắp chung quanh. Người tài xế thét lên. Ông ta kêu chúng tôi nhảy khỏi xe, nằm trên mặt đất. Khắp nơi rối loạn, súng ống, tiếng nổ rầm trời. Hỏa tiễn bắt đầu đánh vào những cao ốc chung quanh. Lính Thủy quân Lục chiến bên ngoài xe buýt bảo mọi người nằm dán chặt trên mặt đất. Đừng nhúc nhích. Chúng tôi nghe bom xé nổ, tiếng hỏa tiễn rít ầm đánh xuống. Chúng tôi nghe đủ thứ âm thanh trong không gian. Trong phút giây nằm đây tôi chợt nghĩ chắc chúng tôi sẽ bỏ mạng. Mặt đất rung chuyển. Người kêu khóc. Có người thì thầm nói chuyện. Tôi nghe họ bảo Cộng sản đã chiếm Biên Hòa, bây giờ chúng không còn cho ai ra khỏi nước. Họ nói với nhau là Cộng sản đã tiến tới phi trường, giờ này lên máy bay mà chúng thấy ắt vong mạng thôi.

Nhưng rồi bom và hoả tiễn ngừng. Một Thủy quân Lục chiến Mỹ cất tiếng bảo: “Đừng lo, đây chỉ là phản ứng cuối cùng của Nam Việt Nam. Chính quyền Minh chơi đấy thôi!” Tôi chẳng hiểu anh ta nói gì. Chẳng còn ai hiểu gì. Anh ta muốn bảo vụ tấn công phi trường này là do chính phủ chúng tôi, nhưng chúng tôi đều biết không đúng thế. Có lẽ anh ta chỉ muốn làm chúng tôi bớt sợ. Có lẽ anh ta muốn lừa chúng tôi. Lẽ nào chúng tôi tin chuyện chính phủ chúng tôi lại muốn sát hại chúng tôi.

Chúng tôi vẫn nằm ép trên mặt đường như thế dăm phút nữa. Lính Thủy quân Lục chiến chợt bảo: “Vào lại xe buýt ngay. Nhanh, đừng mang hành lý. Đi!” Họ lái chúng tôi đến góc sân bay nơi chiếc C-130 đang đợi. Cửa sau máy bay đã hạ sẵn xuống. Cửa xe buýt mở ra. Lập tức người ta thét lên, bảo: “Mau! Mau! Năm giây đồng hồ thôi! Mau! Mau! Chỉ còn năm giây đồng hồ thôi!” Thế là mọi người đẩy nhau ùa ra cửa, nháo nhào chạy vội đến máy bay. Nhiều người hãy còn ôm mấy cái túi xách, lập tức họ vừa chạy vừa quăng đi. Vào lúc đang chạy ra máy bay, tôi nhìn xuống thấy có một cái khăn lông do ai bỏ rớt trên mặt đất. Người ta đạp lên, có người vấp. Có người đá phải mà chạy. Trong khoảnh khắc tôi chợt thấy đống khăn lông động đậy. Tôi ngừng lại một giây, bảo người đàn bà chạy qua tôi: “Có gì trong cái khăn lông!” Người đàn bà tiếp tục lên máy bay, không lưu ý gì cả. Tôi bèn túm lấy đống khăn lông, cảm thấy trong đống khăn rõ rệt có một vật lạ. Vừa chạy, tôi vừa trụt chiếc khăn ló ra cái đầu một đứa trẻ sơ sinh. Đứa bé không động đậy. Tay tôi chạm vào chân đứa bé. Bàn chân không động. Tôi thầm nhủ: “Trời ơi, tôi vừa lượm được một đứa bé đã chết. Làm thế nào bây giờ?”.

Tôi chạy vào máy bay. Cánh cửa bắt đầu đóng. Chúng tôi chen chúc nhau. Bên ngoài phi đạo vẫn còn người chạy đến, nhưng không kịp. Cánh cửa vừa đóng lại, máy bay bắt đầu chuyển ngay ra phi đạo.

Bên trong chúng tôi đều đứng, không cựa quậy. Tôi ôm đứa bé mà tôi nghĩ là nó đã chết fôi. Tôi ôm sát đứa bé, thử nghe tim đập, nhưng chính lồng ngực tôi dồn dập và tiếng động cơ ầm ĩ đã át đi, không nghe gì nữa. Tôi tựa vách máy bay, cố chống vào vách để đừng đè lên đứa bé, đừng để đứa bé ép lên tôi. Mỗi lần nhúc nhích, tôi lại đạp phải người khác. Tôi tự nhủ: “Sao có thể đến nước này hở Trời, khi không ôm lấy cái khăn lông làm gì? Lúc máy bay hạ cánh mà vẫn ôm đứa bé chết queo thì thực rắc rối. Chẳng biết chừng người ta gửi mình về lại Việt Nam…” Nghĩ thế đâm sợ nên tôi lại khóc.

Tôi bắt đầu suy nghĩ: Biết đâu có một trái hỏa tiễn giờ này bắn đến trúng máy bay thì chúng tôi chết hết. Như những người trên chuyến C- 5A. Và tôi tự hỏi vẩn vơ: Nếu bây giờ chết, chẳng hiểu mình lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục? Tôi có gì lầm lỗi trong cuộc đời? Sau một lúc tôi lại nghĩ: Không, nếu chết bây giờ mình sẽ lên thiên đàng. Tôi có làm gì xấu xa đâu? Thượng đế vẫn biết tôi là một người lương thiện. Nếu phải chết thì cũng lên thiên đàng. Thôi… Đừng khóc nữa. Tôi tự bảo và im tiếng. Nhưng lúc máy bay cất cánh, tôi vẫn miên man nghĩ về bức ảnh thiên đàng hoả ngục. Những bức ảnh tôi nhìn thấy từ khi còn là một con bé con. Người ta đã cho chúng tôi xem bức ảnh hoả ngục với cảnh nướng người trên lửa. Bức ảnh những con người gào khóc, lửa cháy bốn bề vây bủa. Bức ảnh những con người khiếp đảm trong một màu đỏ rực. Và tôi nghĩ: “Cảnh ấy nào có khác gì cảnh Tân Sơn Nhất chỉ mới vừa cách đây vài phút”. Tôi biết tôi không muốn chui vào hoả ngục. Tôi không muốn quay về lại Tân Sơn Nhất. Rồi tôi tiếp tục miên man nghĩ đến thiên đàng. Những bức ảnh đã nhìn thấy trong một màu trắng với những thiên thần trắng toát. Những thiên thần hiền hậu nở nụ cười xinh xắn thương yêu. Tôi tự nhủ: ừ, nếu cái máy bay này trúng phải một quả đạn thì đó chính là nơi mình sẽ bay đến ngay khoảnh khắc. Trong cái suy tưởng miên man ấy, tôi đã cất bước đi qua hỏa ngục, Thượng Đế đã mở cửa cho tôi. Giờ đây Thượng đế đang dắt tay tôi lên ngưỡng cửa thiên đàng. Chẳng có gì mà sợ.

Phải mất mấy tiếng đồng hồ chúng tôi mới đến được phi trường Clark ở Phi Luật Tân. Tôi bực bội, đôi chân tê dại vì đã không nhúc nhích được. Tôi cảm thấy bánh xe buông xuống, cảm thấy chúng tôi ở trên mặt đất. Rồi chiếc máy bay dừng hẳn.

Khi cửa sau chiếc máy bay bật mở, chúng tôi ngóng nhìn ra. Một vùng ánh sáng trắng toát, rất sáng, bỗng hiện ra. Những người đàn bà mặc quần áo trắng đang chờ chúng tôi. Họ mỉm cười. Đã đến được Thiên đường rồi. Tôi mê man suy nghĩ. Một cái chết thực dịu dàng. Nào có khó gì. Thế là giải thoát. Tôi đã bước vào ngưỡng cửa thiên đàng. Tôi biết Thượng Đế đã thương tôi bởi vì các thiên thần của Ngài đã đến.

Các thiên thần bảo chúng tôi: Ra khỏi máy bay. Tôi trông thấy các thiên thần đều mang chữ thập đỏ trên tay áo. Những thiên thần này đều là những cô y tá của Hội Hồng Thập Tự. Tôi vẫn sống. Tôi không ở thiên đàng, mà đã đặt chân lên đất Phi Luật Tân.

Một cô y tá chận tôi lại, hỏi có đau đớn gì không? Cô ấy nhìn thấy bên mình tôi ướt đẫm. Cô ấy lại hỏi tôi ẵm gì trong cái khăn lông. Tôi kinh hoảng chìa đống khăn cho cô. Cô ấy nhìn vào, rồi bảo hãy đi theo cô. Cô ta dẫn tôi đến phía ông Bác sĩ.

Họ đặt mớ khăn lông lên bàn. Mở chiếc khăn. Bên trong là một trẻ sơ sinh. Một chú bé trai.

Chú bé nhoẻn cười, đạp đôi chân khi họ tháo chiếc khăn. Chú bé mới sinh chưa đầy một ngày. Mọi người đứng quanh bàn nhìn tôi cười. Tôi cũng cười. Rồi tôi lại bắt đầu khóc. Tôi sung sướng quá.

Ông Bác sĩ khám chú bé rồi bảo: “Chả sao”. Tôi bảo: “Thực thế ư? Không có lẽ nào. Người ta đã đạp cả lên thằng bé, đã đá lên thằng bé. Xin Bác sĩ khám lại xem?” Ông Bác sĩ khám lại lần nữa. Ông bảo:

“Đúng vậy. Chả sao, chú bé khoẻ như voi”.

Họ bảo chú bé đói lắm, phải cho chú bú chút chớ. Họ hỏi tôi muốn cho chú bé bú bây giờ không? Tôi dãy nảy: “Bú cái gì?! Lấy đâu ra sữa mà cho nó bú? Ô hay, tôi có phải là mẹ thằng bé đâu?”.

Những người khác cùng đi máy bay đứng vây quanh. Bây giờ ai nấy đều tử tế. Họ bảo nhau: “Tránh rộng chỗ cho bà má và chú bé thoáng chút nào”. Trước đây không lâu, chính họ là những người đã dẫm lên đứa bé mà chạy.

Các cô y tá bắt đầu đi kiếm xem ai là mẹ chú nhỏ. Họ tìm ra được một cô gái trẻ, dưới hai mươi. Xanh xao ốm yếu… Đôi môi nhợt nhạt. Họ vặn hỏi một lúc, rồi đưa cô ấy lại phía tôi. Cô ta nhìn tôi nhỏ nhẹ hỏi “Chị đã cứu con tôi phải không?” Tôi nói: “Vâng”. Cô ấy bảo cô ấy đã sinh đứa bé ngay trong phi trường ngày hôm trước, cô sợ người ta không cho đem đứa bé mới sinh vào máy bay, nên đành để con trên phi đạo, hy vọng người nào có từ tâm nhặt lấy đem về. Cô ta bật khóc nói rằng lúc ở Tân Sơn Nhất cô đã hoảng sợ quá. Chẳng biết đã làm gì. Cô ấy không chồng. Cô đi một mình và quá sợ. Bây giờ cô lại sợ người ta không trả đứa bé. Cô sợ tôi muốn giữ lấy đứa bé.

Tôi ôm chú nhỏ lên, trao vào tay cô mà nói: “Cho con bú đi nào”.

Tại Phi Luật Tân lòng tôi tràn ngập yêu thương. Tôi nghĩ Trời vẫn thương xót dân Việt. Tôi nghĩ biết đâu Thượng đế đã nâng ẵm chúng tôi như tôi đã nâng ẵm lấy chú bé… Tôi bỗng nhìn thấy kỳ diệu biết bao là cuộc sống. Và kỳ diệu biết bao khi được sống còn.

Tôi lại miên man chìm vào những ý nghĩ riêng tư. Tôi nghĩ biết đâu chính đứa bé sơ sinh quấn trong chiếc khăn lông chẳng là một thử thách. Biết đâu chính vì tôi ẵm đứa bé mang theo mà Thượng Đế đã cho chiếc máy bay an toàn đến đất Phi. Biết đâu nếu tôi bỏ chú bé lại, một trái đạn đã nhắm trúng máy bay mà kết liễu tất cả. Tôi đã cúi nhặt đứa nhỏ, đã ẵm nó lên mà Thượng Đế cứu rỗi chúng tôi. Tôi cho rằng đấy chính là sự thực.

Vâng, tất cả mọi sự rồi cũng trở lại yên lành. Và cuộc sống vẫn là cuộc sống đẹp tươi.

TRẦN MINH LỢI
(Luật sư)
“Chúng không cục cựa nổi nên chúng không bắn chúng tôi được”

Tháng Tư năm 1975, tôi đang hành nghề Luật sư ở Saigon. Bấy giờ tôi mới hai mươi lăm tuổi. Tôi nghĩ nếu Cộng sản chiếm được miền Nam thì tôi không thể nào sống dưới chế độ này nổi. Tôi không sợ bị Cộng sản giết nhưng tôi yêu tự do, tôi biết Cộng sản sẽ tước đoạt tự do của tất cả chúng tôi. Ngay khi Cộng sản mới chiếm được một vài phần đất, dân đã tháo chạy vì không thể sống với chúng. Dân Đà Nẵng, Nha Trang đều đã chạy vào Saigon tìm tự do. Bấy giờ có hàng ngàn người chạy về thành phố Saigon mỗi ngày.

Từ hai mươi tư cho đến hai mươi chín tháng Tư, tôi đã cố sức kiếm đường xuất ngoại, nhưng không xong. Phải có tiền mới đi nổi, mà tiền nong tôi lại chẳng có bao nhiêu. Ngày 30 tháng Tư, tôi với một người bạn xuống bờ sông Saigon. Chúng tôi nghe nói ở đấy có mấy chiếc tàu lớn sắp đi, hy vọng có thể kiếm được chỗ.

Lúc ấy một đám đông đang vây quanh Cảng. Có một tàu sắp nhổ neo. Chiếc tàu này trước bị hỏng máy. Nhưng đến 30 tháng Tư, họ sửa được một trong hai dàn máy. Thế là họ chất người lên tàu mà chạy.
Tàu chúng tôi đi rất chậm. Vì chỉ có một máy. Lúc ấy lại là lúc cần phải gấp rút, vì trước khi nhổ neo, chúng tôi nghe tin Tổng thống Minh đã đầu hàng Cộng sản.

Khi qua sông Saigon, cái đáng sợ nhất là hoả lực trên bờ sông. Tàu không treo cờ vì lẽ chúng tôi biết nguy hiểm, chúng tôi không sợ máy bay bằng sợ xe tăng trên bờ. Ngang khách sạn Majestic, chúng tôi thấy một chiếc xe tăng Nga T-54 được đưa đến, hướng mặt ra sông. Đám lính thiết giáp Cộng sản nhìn chúng tôi. Nhưng bấy giờ dân chúng đang bao quanh chiếc xe tăng để chào mừng, nhiều người trèo lên xe tăng đứng phất cờ. Chính vì dân chúng bao quanh, bọn thiết giáp Cộng sản không cục cựa nổi, chúng không bắn chúng tôi được. Chúng chỉ nhìn. Nếu chúng bắn thì chúng tôi bỏ mạng cả.

Khi chạy đến gần Vũng Tàu, phần lớn mọi người kéo nhau xuống núp dưới boong để con tàu đừng có vẻ khả nghi. Chúng tôi sợ nếu lính Cộng sản thấy tàu chất đầy người, chúng có thể bắn. Cho nên chỉ còn một ít người đứng lại trên boong, họ được nhìn thấy hình ảnh Việt Nam lần cuối. Hình ảnh bãi biển Vũng Tàu.
Sau chúng tôi, không còn một con tàu nào nữa. Tàu chúng tôi ra đi là chuyến cuối cùng.

Ra đến ngoài khơi Nam Hải, chúng tôi gặp một chiếc tàu Hải quân Hoa Kỳ. Chúng tôi đánh tín hiệu cấp cứu SOS, họ cập đến, cho người lên tàu chúng tôi. Họ cố sửa hộ dàn máy đã hỏng, nhưng không xong. Họ bảo tàu chúng tôi chỉ còn một máy, không thể nào đi xa. Vì vậy, họ cho chúng tôi lên chiếc tàu Hải Quân Hoa Kỳ.
Khi tất cả chúng tôi đã lên xong, chiếc tàu Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu nổ đại bác bắn chiếc tàu chúng tôi. Họ bắn hụt vài lần. Cuối cùng, con tàu trúng đạn, bốc lửa. Hình ảnh sau chót chúng tôi nhìn thấy là con tàu bắt cháy, từ từ trôi dạt lại phiá Việt Nam.

Tất cả chúng tôi đều cảm thấy đau buồn vì chuyện mất nước. Chúng tôi cảm thấy chính người Mỹ đã để cho Cộng sản thắng. Tất cả những gì chúng tôi cần để tiếp tục cuộc chiến chỉ là viện trợ Mỹ. Chúng tôi đã cạn tiếp liệu. Chúng tôi không hiểu tại sao Hoa Kỳ bỏ rơi chúng tôi.

Nhiều người ở miền Nam Việt Nam trước kia không hiểu Cộng sản là gì. Nghe Cộng sản tuyên truyền, nhiều người đã cả tin vào chúng. Nhưng giờ đây Cộng sản chiếm được đất nước, người ta mới hiểu sự thật về Cộng sản. Họ sẽ chiến đấu chống Cộng Sản. Ngay đến bây giờ vẫn còn nhiều người ở Việt Nam chiến đấu chống Cộng.

NGUYỄN NGỌC BÍCH
(Quyền Viện Trưởng Đại Học Cửu Long)
“Khủng khiếp hơn địa ngục”

Bấy giờ tôi là quyền Viện Trưởng Đại học Cửu Long, Sài Gòn. Viện Đại học này mới được ba tuổi, có khoảng sáu trăm sinh viên.

Mọi người bấy giờ đều tin tưởng vào sự hỗ trợ của Mỹ đối với việt Nam. Người ta tin sự hiện diện của Mỹ là một sự hiện diện bền bỉ lâu dài. Không ai có thể nghĩ đến việc một ngày kia người Mỹ rũ áo ra đi.

Câu chuyện của tôi có chút đỉnh đóng góp ở đây bởi vì tôi là người đã ở trong những phái đoàn cuối cùng đến Hoa Kỳ. Chỉ có hai chúng tôi lúc ấy là Gregory Hưng và tôi biết tình thế đã đến hồi tuyệt vọng. Bấy giờ 19 tháng Tư, lúc chung cuộc, chúng tôi là phái đoàn cuối cùng đến Hoa Kỳ. Chúng tôi biết miền Nam đang ở trong tình trạng bất thuận lợi với Quốc hội Mỹ, họ sẽ không chấp nhận cấp ngân khoản viện trợ cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi cảm thấy vẫn còn trong tay một vài lá bài then chốt. Một trong những lá bài đó, là lời hứa từ lâu của Lý Quang Diệu ở Tân Gia Ba. Ông Lý chủ trương phương thức duy nhất để đánh bại Cộng sản chính là cải tiến an sinh xã hội. Ông từng hứa giúp chúng tôi ngân khoản nửa tỷ Mỹ kim để thực hiện một chương trình gia cư.

Tổng thống Thiệu bèn gửi Hoàng Đức Nhã đi Tân Gia Ba thăm dò xem họ Lý có ứng cho chúng tôi vay số tiền đó để mua vũ khí và mua xăng, thay vì sử dụng vào mục tiêu gia cư không. Ông Nhã đã đi Tân Gia Ba. Còn ông Hưng và tôi đến Hoa Kỳ cố gắng tìm cách thuyết phục Quốc Hội Mỹ giữ im lặng, đừng công khai hóa việc họ không giúp chúng tôi. Công khai hóa việc ấy sẽ có tác dụng sút giảm tinh thần.

Chúng tôi nói chúng tôi vui lòng đặt cọc số dầu lửa mới phát hiện ở Việt Nam để bảo đảm số tiền vay mà Saudi Arabia đã hứa với chúng tôi trong một vài hình thức – số tiền khoảng nửa tỷ đến một tỷ Mỹ kim. Cùng một số tiền mà họ dạm đưa cho chúng tôi, chỉ có thể mua được nửa số nhiên liệu xăng nhớt mà Bộ binh và Không quân của chúng tôi cần.

Chúng tôi nghĩ nếu đạt được số tiền từ Tân Gia Ba và Saudi Arabia, và nếu thuyết phục được Quốc Hội Mỹ im hơi lặng tiếng về chuyện Việt Nam, chúng tôi hy vọng có thể lấy lại thế quân bình.

Chúng tôi rời Việt Nam ngày 19 tháng Tư. Nhưng ngay lúc đặt chân đến Hoa Thịnh Đốn, vừa gặp Đại sứ Trần Kim Phượng, thông điệp đầu tiên chúng tôi nhận được là chẳng còn phương cách gì có thể thay đối tình hình được nữa.

Chuyện ấy thực bi thảm. Gặp Đại sứ Phượng ở phi trường Dulles, ông cho biết ngay tình hình tuyệt vọng rồi. Chúng tôi không muốn tin thế, chúng tôi bảo ông lầm. Cả ba to tiếng la thét nhau, rồi cùng bật khóc. Sau đó, gặp một số người khác, họ cũng bảo chúng tôi tình hình đã tuyệt vọng.

Ông Thiệu từ chức, chuyến đi trở nên vô nghiã vì mục đích của chúng tôi tới Hoa Kỳ chính là để thương lượng. Gregory Hưng quyết định ở lại Hoa Kỳ.

Phần tôi quay về Việt Nam bằng chuyến bay dân sự chót đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Chuyến bay này hạ cánh lúc 8 giờ rưỡi ngày 26 tháng Tư. Tôi nghĩ sứ mạng của tôi là thất bại.

Hành khách trên chuyến bay đi từ Los Angeles đều là người Tàu Hồng Kông. Tôi tự hỏi chẳng rõ họ làm gì. Tôi nghĩ hoặc giả họ đến để đầu cơ trên sự sụp đổ này, hoặc đến để tìm cách đưa thân nhân đi. Chỉ có ba người trên chuyến bay không phải là người Tàu. Đó là một người Mỹ đến đón vợ con gia đình, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng và tôi.

Việc đầu tiên tôi nghĩ đến là phải ra ngay khỏi nước. Tôi đã có thông hành. Gần phi trường lúc ấy đã có nhiều vụ bắn phá. Cho nên sau khi làm phúc trình cho chính phủ xong, hôm sau chúng tôi trù tính ngay việc rời Việt Nam.

Cuối cùng chúng tôi đi được tại bến tàu lúc nửa đêm hai mươi chín. Ra khỏi Vũng Tàu, cuối cùng chúng tôi đã được tàu American Challenger vớt. Thực khủng khiếp hơn địa ngục. Khả năng tiếp thu của tàu là 1,080 người, nhưng họ đã vớt đến 7,500 người. Họ định đưa chúng tôi đi Subic Bay, nhưng rồi họ lại vớt thêm người nữa ngoài khơi Vũng Tàu. Vì quá đông, họ thu xếp đưa thẳng chúng tôi sang đảo Wake.

Đêm 30 tháng Tư khi họ vớt người, thực là một cảnh tượng kỳ lạ. Các con thuyền thắp đèn cặp đến, người ta leo lên tàu. Khi mọi người ra khỏi thuyền, người ta châm lửa đốt, rồi đẩy các con thuyền Việt Nam ra xa. Khắp mặt biển đầy những ngọn lửa kỳ quái bốc cháy trên các con thuyền trôi nổi vật vờ. Đêm hôm ấy giống như cả vùng biển Nam bốc cháy.

Lúc người ta leo lên tàu, tiếng khóc, tiếng kêu la thảm thiết. Một linh mục công giáo cố vác chiếc xe máy Honda lên tàu, nhưng người ta từ chối. Một chiếc thuyền khác đến, có ông Nha sĩ đòi đưa lên cả dàn ghế chữa răng. Ông ta nài nỉ: “’Đây là phương tiện sinh nhai duy nhất của tôi”, nhưng người ta không để cho ông ta đưa lên.

Đêm hôm ấy khắp biển Nam bừng cháy, chúng tôi đứng trên tàu mà nhìn ngọn lửa thiêu rụi bốc lên.

HUỆ THU
(Dạy học)
“Ông ấy là Tướng, ông ấy ở lại…”

Năm 1975 tôi sống ở Saigon, dạy Anh văn. Có một số học trò đến học tại nhà. Rất nhiều người đã đến tận nhà học tiếng Anh, tiếng Pháp.

Tôi không phải là con người chính trị nên tôi rất ngạc nhiên trước các biến cố 1975. Ngày 25 tháng Tư, có một người bạn Mỹ tên Jim Bradley bảo tôi phải ra khỏi Saigon cho nhanh, chúng tôi sắp thua đến nơi. Nhưng tôi không tin.

Đến khi chứng kiến việc người ta bắt đầu di tản cô nhi và trẻ con, tôi vẫn muốn ở lại. Cách suy nghĩ của tôi bấy giờ là: Dẫu Cộng sản có đến chăng nữa, chúng tôi vẫn còn nhà cửa và ít tiền bạc trong gia đình. Cha mẹ tôi đã mất, nhưng tôi còn có cái khách sạn với một tiệm ăn ở Đà Lạt, hai căn nhà ở Saigon. Tôi nghĩ mình có khá nhiều tiền trong ngân hàng, nhưng tiền mặt thì không. Làm sao đi với hai bàn tay trắng? Cho nên cứ ở lại đợi xem.

Tôi sẽ cố thu xếp ít tiền, rồi có lẽ dăm ba tháng sau khi họ vào, nếu không thích thì đi.

Rồi tôi nhớ đã nghe tướng Kỳ tuyên bố trên Đài phát thanh. Ông ấy bảo: “Tôi sẽ ở lại chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng”. Tôi nói với các bạn tôi rằng: “Ông ấy là tướng mà ông ấy còn ở lại, tại sao mình phải chạy”. Các bạn tôi cũng bảo: “Ừ, tại sao phải chạy…” Ở lại mà đánh. Chúng tôi đều ở lại. Tôi nói: “Tôi là đàn bà, tôi chả sợ Cộng sản cộng siếc gì cả. Cứ ở lại xem họ làm trò gì với tôi”.

Tôi đã nghe theo đài phát thanh. Thế rồi, tôi lại nghe họ bảo ông Tổng thống Thiệu, ông Thiếu tướng Kỳ, ông nào ông nấy co cẳng chạy hết rồi. Tôi nói: “Trời đất quỷ thần, mới đêm qua vừa nghe Thiếu tướng Kỳ nói trên Đài phát thanh là ông ấy sẽ ở lại chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng… Làm sao tôi lại đi tin những người như vậy hở Trời?”. Ngày 30 nghe thua, rồi tất cả tan vỡ hết. Tôi hết sức kinh ngạc. Lúc ấy tôi đang ở trường Đại học Vạn Hạnh, chỗ cầu Trương Minh Giảng. Chúng tôi ngồi đấy thấy bộ đội Cộng sản tiến vào. Trước đó, ở đấy có lính nhảy dù. Vài người chỉa súng lên trời bắn cho đến khi hết đạn rồi ôm mặt khóc. Tôi cũng thấy lính nhảy dù cởi áo, cởi giầy, cởi quần, ném hết vũ khí, chỉ mặc đồ lót mà đi. Khi chứng kiến cảnh này, tôi cũng khóc.

Khi bộ đội Cộng sản tiến vào, chúng tôi mới nhìn thấy rõ bộ dạng họ. Ông có biết tại sao người ta sợ Cộng sản không? Để tôi giảng cho ông hiểu. Bởi vì chúng giống hệt như mấy con khỉ! Tôi tự bảo: “Trời đất quỷ thần, chả hiểu tại sao chúng ta lại thua mấy của khỉ như thế!”.

Nhưng có một việc tôi hiểu. Việt Nam có câu tục ngữ: “Như rắn mất đầu”. Rắn mất đầu là rắn chết. Mấy cái đầu của tất cả binh sĩ đã chạy sạch rồi, cái đuôi phải thua thôi. Nhưng để tôi nói cho ông hiểu chuyện này: Mặc dầu chúng tôi thua ở Việt Nam thật đấy, nhưng tôi vẫn tự hào. Vì nhìn thấy bộ đội Cộng sản, tôi chả sợ gì. Không, tôi chả sợ gì sất cả!

Cho đến bây giờ tôi vẫn không thích cái kiểu các ông Kỳ, ông Cao Văn Viên, ông Thiệu vắt giò lên cổ mà chạy như thế. Đáng lẽ các ông ấy nên ở lại mà đánh thì tốt hơn. Đến phút cuối cùng, có đánh chác gì? Lúc ấy tôi vẫn ở đấy. Chả thấy đánh chác gì cả. Tôi chả rõ tại sao họ lại thua, đánh đấm gì đâu? Bỗng dưng chỉ có ông Dương Văn Minh lên tuyên bố thua. Lúc ấy tôi ra đường Tự Do. Tôi đi lung tung. Chỗ nào cũng đi. Tôi thấy người ta leo lên mấy cái tàu ở Vũng Tàu, chả thấy đánh chác gì. Có lẽ đánh ở Pleiku, Ban Mê Thuột, ở Đà Nẵng hay Huế thì có, chớ ở Saigon có ai đánh đấm gì đâu? Tôi nghĩ nhiều người đã mắc phải một lỗi lầm thật lớn.

NGUYỄN THỊ THANH NGUYỆT
(Bác sĩ)
“Sao con không mang theo thằng cháu nội của ba?”

Mùa Xuân 1975 tôi đang làm “ngoại trú” cho chương trình năm thứ năm Y Khoa – Cũng tựa như chương trình thực tập “nột trú” tại Hoa Kỳ. Vào cuối tháng Ba, tôi đang đến phiên làm ở bệnh viện Cơ Đốc, Saigon. Cũng như mọi người khác, tôi cảm thấy tình hình xuống dốc. Nhưng cho đến ngay lúc ấy, tôi vẫn không bao giờ tin là miền Nam sẽ sụp đổ và đầu hàng. Tệ nhất, tôi nghĩ Saigon có thể mất, có thể bị miền Bắc chiếm đóng tạm thời, nhưng sau một thời gian ngắn, mọi sự sẽ trở lại bình thường thôi.

Giữa tháng Tư, mỗi lúc người ta càng quan tâm hơn đến việc di tản các nhân viên trong bệnh viện chúng tôi. Tùy viên quân sự Hoa Kỳ, tướng Homer Smith ký giấy cho phép 175 người ra khỏi nước. Phần bảo trợ được ký trống để nhập nội Hoa Kỳ. Nhưng con số 175 không đủ cho số người muốn di tản. Vì thế chúng tôi đã tìm cách đưa nhiều người đi hơn với biện pháp tải thương. Chúng tôi băng bó một số người muốn đi, cho vào xe cứu thương. Chúng tôi cho xe mở còi hụ lái ra phi trường. Với biện pháp ấy lính gác cho vào, không khám xét gì. Nếu họ khám các bệnh nhân và tìm ra chuyện đóng tuồng, chắc chắn không ai đi nổi. Khi qua cổng phi trường, lập tức chúng tôi cho bệnh nhân lên các chuyến bay tải thương. Những chuyến bay này sẽ chở tất cả sang Phi Luật Tân.

Tôi còn nhớ có một bác sĩ với vợ ba con, tất cả đều khoẻ mạnh. Chúng tôi quấn băng, bó bột cho mấy đứa trẻ, còn giả vờ đặt cả ống truyền nước biển, chúng tôi đã đưa họ vào cổng phi trường bằng cách ấy. Nhưng rồi phải đợi máy bay. Trong lúc đợi, mấy đứa bé bó bột buồn tình ôm cả bông băng chạy quanh chơi đùa nghịch phá. Trong phi trường có lính gác. Tôi phải bảo bà mẹ nói mấy đứa trẻ im mồm, quay lại giả vờ ốm, không thì hết đi.

Chúng tôi thường cho khoảng hai mươi người vào trong hai hoặc ba xe cứu thương để cùng chạy ra phi trường. Các y tá, bác sĩ cùng đi theo để di tản với họ. Bằng biện pháp này, chúng tôi đã đưa đi được hầu hết những nhân viên muốn đi. Còn những người khác không đi bằng cách tải thương thì được cho vào danh sách 175 người có bảo trợ tại Hoa Kỳ.

Tất nhiên càng nhiều người đi thì số nhân viên bệnh viện càng hẹp lại, số bệnh nhân chúng tôi săn sóc cũng vậy. Hôm 24 tháng Tư, chúng tôi cho sáu bệnh nhân cuối cùng ra về. Đến hôm ấy, tôi vẫn chưa định đi. Lúc nói chuyện với bác sĩ Trưởng thường trú, ông bảo nếu tôi muốn ra đi thì tôi có thể đi chuyến bay lúc mười một giờ đêm. Như vậy phải có mặt tại nhà thương trước năm giờ chiều. Quá giờ ấy nếu không có mặt, xem như không muốn đi. Tôi hỏi tôi có thể mang theo con trai tôi được không. Ông bảo chỉ mang theo con trai thì được. Lúc ấy nhà tôi và tôi đã ly thân. Con tôi được mười tuổi. Khi nói chuyện về việc ra đi là đã ba giờ trưa. Như thế tôi chỉ còn hai tiếng đồng hồ để quyết định.

Tôi cố tìm người biết chuyện để hỏi ý kiến nếu Saigon mất, tình thế ra sao. Tôi cần nói chuyện để dứt khoát đi hay ở. Cuối cùng gặp người bạn học, cô ấy khuyên tôi nên đi. Tôi hỏi thế chị có đi không. Cô ấy bảo cô ấy là con cả, gia đình đến mười chị em, phải ở lại đỡ đần gia đình. Nhưng cô bạn tôi bảo nếu ở hoàn cảnh tôi, cô ấy sẽ ra đi. Sau khi nói chuyện với người bạn, tôi quyết định đi.

Trở về nhà. tôi nói chuyện với mẹ tôi rất ngắn ngủi. Lúc ấy mẹ tôi đương ốm. Tôi bảo mẹ tôi là con quyết định phải đi. Mẹ tôi khóc. Tôi băng qua đường, bảo em tôi và gia đình tôi rằng tôi sẽ mang con đi . Mọi người đều khóc.

Tôi lấy xe gắn máy chạy vào Khánh Hội, mất ba mươi phút. Tôi muốn đến chào ba tôi, lúc ấy đang làm việc ở đấy. Khi nghe tôi nói, ba tôi đứng sững. Ba tôi bảo: “Sao con không mang thằng cháu nội của ba đến đây. Nếu nó đi với con thì chắc đây là lần cuối ba được nhìn thấy nó”. Quả thật, đây là dịp cuối cùng mà ba tôi có thể gặp cháu nội. Ba tôi đã mất trong lúc mẹ con chúng tôi ở Hoa Kỳ.

Tôi bảo: “Ba ạ, con vội quá nên con quên”. Tôi đã bận bịu sắp xếp giấy tờ, học bạ, và vài ba bộ quần áo. Tôi ôm lấy ba tôi. Ba tôi và tôi cùng khóc. Rồi tôi chạy xe gắn máy về nhà đổi ít tiền, nhưng không đổi đâu ra được nữa. Tôi rời Việt Nam không một đồng xu dính túi.

Đêm mẹ con tôi rời Saigon, trời rất tối. Phi trường hết sức lộn xộn. Mãi đến lúc máy bay cất cánh mới dám chắc là đi được. Mẹ con tôi bay thẳng sang Guam vì bấy giờ chính phủ Phi Luật Tân không còn cho các chuyến bay Việt Nam vào nữa.

Tôi đến đảo Guam lúc Saigon đã mất ngày 30 tháng Tư. Nghe tin trên máy truyền thanh, chúng tôi đều khóc. Chúng tôi nghe tường thuật việc quân đội miền Bắc tiến vào thành phố bằng chiến xa, đi qua đường Thống Nhất vào chiếm Dinh Độc Lập. Trong tâm trí, mỗi chúng tôi đều có thể nhìn thấy hình ảnh ấy xảy ra. Chúng tôi hết sức đau buồn. Đêm hôm ấy, chúng tôi nói chuyện mãi về Việt Nam. Chúng tôi kể cho nhau nghe những chuyện chúng tôi nhớ, những gì chúng tôi yêu mến nhất ở Việt Nam. Chúng tôi nói với nhau rằng thật kinh ngạc khi miền Nam Việt Nam sụp đổ, việc ấy xảy ra như thế nào, có thể làm gì được để cứu vãn.

Nhưng quá muộn, chẳng còn có thể làm gì được. Đêm hôm ấy, tất cả những gì chúng tôi còn lại chỉ là hy vọng mà thôi.

HỒ QUANG NHỰT
(Giáo sư Trung học)
“Người Mỹ cuối cùng tôi thấy ở Việt Nam”

Bấy giờ tôi là một giáo sư Trung học, dạy ở Biên Hòa. Tôi lên Saigon, có mặt lúc thành phố này rơi vào tay Cộng sản hôm 30 tháng Tư, 1975. Khi vụ đầu hàng xảy ra, tôi đang ở trên Đại lộ Lê Lợi. Tôi đã chứng kiến cảnh dân chúng tan tác tìm đường trốn Cộng sản.

Trên đường phố tôi thấy một người Mỹ. Đó là người Mỹ cuối cùng tôi thấy ở Việt Nam. Anh đứng trước một tiệm ăn. Cặp mắt đỏ hoe. Tôi nghĩ anh rất buồn. Anh đang đợi người đến đón, tôi thầm nghĩ. Hoặc giả anh đang đợi ai đến giúp anh ẩn núp, che giấu cho anh? Nhưng không một ai đến cả. Tôi thấy anh xem đồng hồ vài lần rồi lại dáo dác nhìn khắp đầu đường cuối phố. Nhưng mọi sự đã quá muộn cho anh người Mỹ.

Lúc 4 giờ 45 Việt Cộng chạy xe vận tải qua đại lộ. Thấy người Mỹ đứng đấy, chúng dừng lại. Nhảy ra xe, chúng bắt đầu vặn hỏi anh ta. Hàng trăm người chứng kiến cảnh này. Anh người Mỹ bảo: “Tôi là công dân Hoa Kỳ”. Chúng bèn giáng cho anh một trận đòn. Chúng lôi xệch anh lên xe. Anh người Mỹ vẫn cố bảo: “Tôi là công dân Hoa Kỳ”. Nhưng chúng không buồn nghe. Việt cộng chả thèm nghe những chuyện như vậy. Chúng rồ máy xe đưa anh người Mỹ ra đi. Tôi không bao giờ biết thêm tin tức gì về anh ta nữa.

Không có nhận xét nào: