Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

Từ Giàn Khoan HD-981: Việt Nam có thể sẽ “đón nhận” một “Hiệp định Da Beo” lần nữa! - Hàn Giang Trần Lệ Tuyền


Kể từ ngày Trung cộng hạ đặt giàn khoan HD-981 xuống ngay lãnh hải của Việt Nam, thì đã có rất nhiều những bài viết của người ngoại quốc lẫn người Việt Nam đã “tiên đoán” về những tình huống có thể xảy ra cho Việt Nam; Trong đó, cũng có nhiều ý kiến: “phải làm gì để hóa giải công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng”.
<!->

Về phía đảng Cộng sản Việt Nam, thì gọi đó là “công thư chứ không phải là công hàm và không có giá trị, vì công thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng, chỉ công nhận 12 hải lý của Trung quốc, chứ không nói gì đến hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa”. Ngoài những điều ấy, Hà Nội cũng nói “sẽ kiện” Trung cộng.

Về phía Trung cộng, thì chẳng những đưa cái “công hàm” của ông Phạm Văn Đồng, mà còn trưng dẫn cuốn “sách giáo khoa” của Hà Nội ra làm “bằng chứng chủ quyền” của Trung cộng. Ngoài ra, Trung cộng còn khuyến cáo: “Việt Nam phải tôn trọng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng.”

Với những sự kiện nêu trên, thì khoan nói tới cái “công hàm - công thư” của ông Phạm Văn Đồng, mà chỉ nói lên một sự thật hiển nhiên rằng: Nếu không có cái “công hàm - công thư” của ôngPhạm Văn Đồng,  thì Trung cộng lấy cái gì “làm bằng” để ngang nhiên hạ đặt giàn khoan HD-981 xuống lãnh hải của Việt Nam, và cho đến hiện giờ còn đưa thêm 02 hay có thể còn nhiều giàn khoan khác  xuống lãnh hải của Việt Nam???

Chỉ chứng đó thôi, cũng đủ chứng minh rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước quốc dân đồng bào về cái “công hàm-công thư” của ông Phạm Văn Đồng “Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” có con dấu của “Chính phủ VNDCCH” đã gửi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958, bằng một câu có tính cách quyết định như sau:

“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định chủ quyền của Trung quốc”. Như vậy, tất nhiên là bao gồm cả Hoàng Sa-Trường Sa của nước Việt Nam Cộng Hòa, mà cách đây hai năm, người viết đã nêu lên những sự kiện ấy, qua qua bài: Hoàng Sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Hòa, nên ở đây, không cần phải viết thêm nữa.

Tuy nhiên, tất cả những gì đã xảy ra, thì đã xảy ra, nên cho dù là thánh cũng không thay đổi được quá khứ, mà phải tìm mọi kế sách hay giải pháp tốt nhất để thay đổi hiện tại và tương lai. Vì thế, tất cả những “diễn biến” bắt nguồn từ cái văn bản của ông Phạm Văn Đồng, đã do đảng Cộng sản “cột” vào “vận mệnh” của đất nước, thì tất nhiên chính kẻ cột phải biết cách để mở ra. Còn nếu như đảng Cộng sản Hà Nội không chịu “mở ra”, thì toàn dân sẽ bằng mọi cách, để “mở ra”, để cứu lấy đất nước và dân tộc thoát khỏi đại họa diệt vong!

Thế nhưng, cho đến thời điểm hiện nay, trước một tình huống khó lường trước mọi sự, thì đảng cộng sản Việt Nam nếu muốn  “mở ra”, thì phải “mở” bằng cách nào, vì khi “ông Chủ tịch nước” Hồ Chí Minh và cả “bộ chính trị” của Cộng sản Việt Nam vào ngày 14/9/1958, đã quyết định để cho “thủ tướng” Phạm Văn Đồng gửi cái “công thư-công hàm” cho Chu Ân Lai với nội dung mà hôm nay, không riêng người Việt Nam, mà cả thế giới đều biết.

Nên nhớ và nên biết, cá nhân ông Phạm Văn Đồng không dám, không có quyền tự ý quyết định khi viết và gửi văn bản này. Vì nếu tự ý, thì đảng Cộng sản Việt Nam phải dùng “đảng kỷ” để trừng phạt bằng những biện pháp cao nhất. Nhưng không, Phạm Văn Đồng vẫn ngồi trên chiếc “ngai” để cầm quyền cho đến khi chết thì vẫn có “Đại học Phạm Văn Đồng” và “đường Phạm Văn Đồng” trên khắp cả ba miền của đất nước, để tuyên dương cái công trạng  của ông Phạm văn Đồng, với một văn bản chính thức: Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định chủ quyền của Trung quốc”!  

Người viết xin nhắc lại:

Ngày 14 tháng 9 năm 1958,  “thủ tướng” Phạm Văn Đồng  đã bất chấp cả luật pháp quốc tế, khi ngang nhiên nhân danh:

“Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, kính gửi đồng chí Chu Ân Lai Tổng lý nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” để ký-gửi một bản văn mà xem như là dâng hiến cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của nước Việt Nam Cộng Hòa cho Trung cộng. Một bản văn hoàn toàn bất hợp pháp; bởi vì theo nguyên lý thông thường, thì không một ai có quyền dâng, bán bất kể là một vật gì, dù nhỏ nhất của người khác, không thuộc quyền sở hữu của mình, và một người biết tôn trọng luật pháp, tôn trọng lẽ phải, thì không bao giờ chịu đi mua hay nhận  bất cứ một vật gì mà do một người không có quyền sở hữu đem dâng, bán cho mình.

Nhưng đây là chuyện giữa ba nước: Nước Việt Nam Cộng Hòa, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Bản văn của Phạm Văn Đồng, là “Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” lại dám ngang nhiên ký một cái “công hàm”, có con dấu của “Chính phủ nướcViệt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”  để đem dâng-bán một phần biển, đảo của nước Việt Nam Cộng Hòa cho Trung cộng, thì không phải riêng người bán, mà kể cả kẻ mua cũng đều vi phạm luật pháp quốc tế.

Năm 1958, Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền của Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, Phạm Văn Đồng “Thủ tướng nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa”,  không có một chút quyền, không có một tư cách gì để ký-gửi một văn bản như thế cho được.

Phải nhắc lại như thế, để hiểu rằng, đảng Cộng sản Việt Nam không thể đương đầu với Trung cộng, mà chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới đủ tư cách trước Công Pháp Quốc Tế, để giành lại hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Chính Hà Nội cũng thừa biết điều ấy, nhưng vì đã đặt quyền lợi riêng trên cả Tổ Quốc và Dân tộc, nên họ vẫn cứ thà mất nước, chứ không thể thay đổi thể chế chính trị!

Đừng ỷ vào ngoại bang

Mới đây, một câu nói của cậu Cộng con, không hề có một chút kiến thức về chính trị,  nên không muốn nêu tên vào đây làm gì. Tuy nhiên phải ghi lại câu trả lời khi được cô Trà Mi của đài VOA phỏng vấn như sau:

“Khi Việt Nam và Mỹ thực sự cần đến nhau thì không có việc bỏ rơi nhau. Mỹ và Việt Nam là bạn của nhau cùng hợp tác phát triển về mọi lãnh vực chứ không phải riêng về Kinh tế”.

Câu trả lời này, đã chứng tỏ đây là một con người hoàn toàn không hề biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị cả. Những người có tham vọng chính trị, đều cần phải nghiên cứu thật kỹ về những thủ đoạn chính trị và những thành bại của các nhân vật nỗi danh khắp năm châu, cũng như những cuộc cách mạng đã xảy ra trên thế giới, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, dù có đổ máu hay «cách mạng nhung».

“Mỹ không bỏ rơi Việt Nam”; Nhưng chính Mỹ đã tạo dựng ra cái Hiệp định Paris,1973, mà mọi người thường gọi là “Hiệp định Da Beo”; bởi theo cái Hiệp định này, đã buộc Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận “ngưng bắn tại chỗ”, ở những vùng đất do phía nào kiểm soát, thì vẫn cứ duy trì, không thay đổi. Nghĩa là cho phép quân đội Bắc Việt được “sống chung” tại miền Nam. Và  nước Việt Nam Cộng Hòa đã bị mất vì cái Hiệp định này!

Là người Việt Nam, có ai không biết đến Hiệp định Geneve, 20/7/1954 và Hiệp định Paris, 1973 về Việt Nam, với những nước đã ngồi vào, cùng ký bằng những lời “cam kết vàng ngọc” như thế nào. Thế nhưng, những gì đã xảy ra sau đó, dẫn đến tang thương, máu lệ suốt bao nhiêu năm qua, cũng như thảm trạng ngày nay trên đất nước Việt Nam, thì các nước đã từng tham gia và ký kết vào cái Hiệp định quái ác này có lên tiếng hay không???

Trong chính trị, vốn không có sự thỏa hiệp nào vĩnh cửu ; bởi một khi muốn “xóa bỏ” những “cam kết” trước đó, nếu một chính phủ với nội các mới lên thay quyền lãnh đạo đất nước, thì chính phủ ấy có toàn quyền để quyết định, giữ lại phần nào, hay xóa bỏ, nếu xét thấy có lợi cho quốc gia hơn.

Tiếc thay, những người đã và đang “tranh đấu” mà luôn luôn “đội” các cường quốc Âu-Mỹ lên đầu. Những điều ấy, đã chứng tỏ một cách chắc chắn: Các “nhà tranh đấu” theo kiểu này, họ không bao giờ đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân Tộc lên hàng tối thương!

Nhân đây, người viết muốn nói thêm một cách chắn chắn rằng, Hoa Kỳ cũng như các cường quốc khác không bao giờ đưa quân đi đánh Trung cộng, để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa cho Việt Nam, và đừng nghĩ Hoa Kỳ sẽ làm như những lời tuyên bố: “Nếu Trung quốc đánh chiếm đảo Điếu Ngư, thì Hoa Kỳ sẽ đánh chiếm lại cho Nhật Bản”. Điều này, hoàn toàn khác, vì Nhật Bản không có gửi cái “công hàm-công thư công nhận chủ quyền của Trung quốc” cho Trung cộng giống như cái công hàm của ông Phạm Văn Đồng. Vì vậy, chỉ có chính người Việt Nam phải đứng lên tự cứu lấy Quê Hương đất nước của mình. Và xin đừng quên: Không có một cường quốc nào thương một dân tộc khác, mà tất cả chỉ vì quyền lợi của họ mà thôi!

Về việc kiện Trung cộng ra Tòa án Quốc tế. Nói thì dễ, nhưng làm thì thiên nan, vạn nan, vì trước hết chính Hoa Kỳ đã lên tiếng rằng: “Hoa Kỳ đề nghị Việt Nam và TQ cùng rút hết tàu về và “Trung quốc đừng hung hăng trên biển Đông. Nên nhớ, Hoa Kỳ chỉ nói đến “Biển Đông” và đề nghị hai bên rút hết tàu về, chứ không nhắc đến Hoàng Sa-Trường Sa.

Mới đây, ông Jean-Vincent Brisset, cựu Tướng không quân của Pháp nay là Giám đốc nghiên cứu Viện quan hệ quốc tế và chiến lược của Pháp nói: “Việt Nam nên kiện Trung Quốc” ; Nhưng ông không nói rõ Việt Nam phải kiện như thế nào, để “thắng”, trong khi Trung cộng đã trưng dẫn công hàm của ông Phạm Văn Đồng đã gửi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958, để làm bằng chứng “chủ quyền” của họ. Ngoài ra, Trung cộng cũng thách thức: “Nếu Việt Nam đi kiện, thì nhớ đem theo công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng”.

Cho tới thời điểm hiện nay, đảng Cộng sản Việt Nam đã “công nhận” hai Bia Chủ Quyền của Việt Nam Cộng Hòa tại Hoàng Sa và Trường Sa là “di tích lịch sử”; và cũng nói rằng “vào  năm 1958 Hoàng Sa - Trường Sa do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quản lý”.

Đó là những điều hiển nhiên, mà bây giờ đảng Cộng sản Hà Nội không thể nào chối cãi được, là đã biết Hoàng Sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Hòa, mà đảng Cộng sản Hà Nội đã ngang nhiên viết và gửi cái công hàm có con dấu của “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định chủ quyền của Trung quốc”.

Vậy thì, cái gì của Việt Nam Cộng Hòa, hãy trả lại cho Việt Nam Cộng Hòa, để Việt Nam Cộng Hòa có đủ tư cách trước Công Pháp Quốc Tế mà đòi lại Hoàng Sa-Trường Sa. Và chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới có những hành động quyết liệt như: Đoạn giao với Trung cộng, đóng cửa biên giới Việt-Trung, như Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã từng làm đối với người Pháp. Đến lúc đó, thì không cần phải “trục xuất”, thì những đoàn quân Mã Viện, đã được ngụy trang dưới lớp vỏ bọc như “Học viện Khổng Tử” và các “Đặc khu kính tế” của Tầu cộng ở Hải Phòng, Vũng Áng, Cam Ranh, Tây Nguyên, Đà Nẵng, Bình Dương… cũng phải lo cuốn gói, “chui ống đồng” chạy khỏi nước Việt Nam. Còn nước “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” hậu thân của nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” không thể đối đầu với Trung cộng, dù bất cứ một tòa án Quốc tế nào, để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa!

Chính vì những lẽ ấy, đừng bao giờ ỷ lại vào ngoại bang, mà người Việt Nam phải tự quyết định lấy tương lai của đất nước, vì nếu ngoại nhân “thương” những dân tộc nhược tiểu, thì Tân Cương và Tây Tạng không đến nỗi phải nằm trong bàn tay sắt máu của Trung cộng như cả thế giới này đã chứng kiến, cho dù máu của người Tân Cương và Tây Tạng đã đổ, bao nhiêu người đã gục ngã, họ đã tự đốt chết thân mình với hy vọng là đòi lại đất nước của họ. Những hành động hy sinh ấy thật đáng thương, đáng phục. Nhưng tiếc thay, tất cả đều vô ích, vì chẳng có Quốc tế nào đưa quân đi đánh Tầu cộng, để giành lại đất nước cho người Tân Cương và Tây Tạng ; bởi quyền lợi của các cường quốc không có ở trên đất của Tân Cương và Tây Tạng!

Thế nhưng, đối với Thái Bình Dương lại là chuyện khác. Xin nhấn mạnh là Thái Bình Dương, là Biển Đông, là cửa ngõ nằm trong vị trí chiến lược, thì các cường quốc trên thế giới không thể làm ngơ. Chúng ta đều biết, ngày xưa quân Pháp đã đổ bộ lên hải cảng Đà Nẵng, rồi quân đội Hoa Kỳ cũng đổ bộ lên Đà Nẵng, và tầm quan trọng của Vịnh Cam Ranh.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng như các cường quốc trên thế giới đều chỉ muốn giữ “tuyến hải hành” Thái Bình Dương hay Biển Đông, chứ không bao giờ đem máu xương, để giành giữ Hoàng Sa -Trường Sa cho Việt Nam, mà chính người Việt Nam phải bằng mọi cách để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa. Thế nhưng, nếu có cuộc đụng độ lớn xảy ra, thì Hoa Kỳ và các cường quốc khác trên thế giới sẽ có những hành động thiết thực, để bảo vệ quyền lợi của họ trên Thái Bình Dương, hay Biển Đông. Còn nếu cuộc tranh chấp chỉ  bằng mồm, bằng “giải quyết song phương”, thì đó, chỉ là chuyện riêng của hai đảng Cộng sản  “anh em một nhà”, nên người ngoài không thể can thiệp.


Tại sao nhà cầm quyền Hà Nội cứ câu giờ?

Như trước đây, cũng như hôm nay, Trung cộng vẫn tuyên bố theo như chính các báo trong nước như sau:

“(ANTV) - Cục Hải sự Trung Quốc vừa đưa ra thời gian công tác trên... Theo đó, giàn khoan Nam Hải 9 sẽ kết thúc tác nghiệp vào ngày 20/8.”

Tiếp theo, vào ngày 26/6/2014, các báo trong nước đã đăng những lời phát biểu của “Chủ tịch nước Trương Tấn Sang”. Xin trích một đoạn như sau:

 “ … Năm nay không xong thì năm tới, mười năm này không xong thì mười năm sau, đời ta không xong thì đến đời con cháu, phải dứt khoát như vậy. Trước sau như một, vấn đề chủ quyền là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, “Tuổi trẻ dẫn lời chủ tịch nước nói.”(*)

Và hôm nay, ngày 01/07/2014,  các báo trong nước đã đăng tải những lời của ông Nguyễn Phú Trọng “Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam” rằng:

“… phải kiềm chế để nhất quyết không cho phép xảy ra xung đột…”

Những lời đã trích ở trên, đã cho toàn dân Việt thấy rằng: Nhà cầm quyền Hà Nội “tuyên bố  phải kiềm chế để nhất quyết không cho phép xảy ra xung đột”; bởi không được phép “xung đột”, để chờ cho đến “mười năm sau… đến đời con cháu…” Nghĩa là đến lúc đó, thì đất nước Việt Nam đã trở thành một Tân Cương, một Tây Tạng rồi, thì con cháu nào để giành lại được đất nước? Riêng gia đình và con cháu của những người Cộng sản đã và đang cầm quyền, thì vì quá giàu, nên nếu có những biến động lớn xảy ra, thì họ sẽ không khó khăn khi chạy ra ngoại quốc, để sống một đời đế vương với những tài sản, mà từ lâu họ đã tẩu tán ra các quốc gia khác để hưởng thụ, chỉ còn lại người dân Việt sẽ phải chịu kiếp nô lệ như người Tân Cương và Tây Tạng!

Một điều khác nữa, như bản tin (ANTV) - Cục Hải sự Trung Quốc vừa đưa ra thời gian công tác trên... Theo đó, giàn khoan Nam Hải 9 sẽ kết thúc tác nghiệp vào ngày 20/8.”

Và chính vì biết Trung cộng sẽ rút giàn khoan vào ngày 20/8/2014, nên trong suốt thời gian qua đảng Cộng sản Hà Nội  chỉ lên tiếng cho có lệ, để chờ cho đến ngày 20/8/2014, khi Trung cộng rút giàn khoan khỏi lãnh hải Việt Nam, thì mọi sự sẽ đâu vào đấy. Thế nhưng, một khi Trung cộng đã “cắm mốc chủ quyền” rồi, thì dù có rút đi, nhưng tất nhiên Trung cộng sẽ quay trở lại bất cứ lúc nào, vì khi đã hạ đặt Giàn khoan HD-981 và các Giàn khoan khác xuống lãnh hải của Việt Nam, giết hại ngư dân Việt,  mà nhà cầm quyền Hà Nội không hề có hành động cụ thể nào để chứng tỏ “bảo vệ chủ quyền”, bảo vệ dân, thì đương nhiên đã “công nhận” như văn bản của “thủ tướng” Phạm Văn Đồng đã viết: “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định về chủ quyền của Trung quốc”. Vì vậy, trong những thời gian tới, Việt Nam Cộng sản không làm sao thoát nổi thiên la địa võng của Trung cộng!


Về việc Hà Nội kiện Trung cộng

Nếu nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội kiện Trung cộng ra trước tòa án Quốc tế, thì như phía Trung cộng đã “khuyến cáo nếu Việt Nam đi kiện, thì hãy nhớ phải kèm theo cái công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng”.

Nói cho ngắn gọn, có ai dám nghĩ rằng: Toà án Quốc tế sẽ buộc được Trung cộng phải cuốn gói, rời  bỏ các nhà máy, trường học… trên đảo Hoàng Sa cũng như cái gọi là Thành phố Tam Sa… trên đảo Trường Sa, để giao hết lại cho Việt Nam hay không???

Riêng người viết bài này, thì lại nghĩ rằng: Nếu Việt Nam Cộng sản kiện Trung cộng ra trước Tòa án Quốc tế, thì trong tương lai, sẽ có một “Phán quyết” tương tự như cái “Hiệp định Da Beo” của Hiệp định Paris, 1973 về Việt Nam vậy.

Nghĩa là, phía nào kiểm soát những vùng đất biển đảo nào, thì cứ giữ y nguyên trạng, hai bên không đụng chạm lẫn nhau. Còn Thái Bình Dương - Biển Đông thì “quốc tế hóa”, để các cường quốc đều được hưởng đặc quyền, đặc lợi như nhau. Cường quốc nào cũng cần Thái Bình Dương – Biển Đông, chứ không cần quyền lợi của Việt Nam, cũng như việc Hoàng Sa - Trường Sa thuộc Tầu cộng hay Việt cộng cũng chẳng khiến cho các cường quốc phải lưu tâm!

Và chính vì những lẽ ấy, nên Trung cộng đã và đang gấp rút hạ đặt thêm giàn khoan, và xây dựng thêm những nhà máy, “thành phố Tam Sa”, trường học… trên cả hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa, với mục đích là để “cắm dùi chủ quyền”, và để “chờ đón” cái “Hiệp định Da Beo” đó.


Tạm kết:



Images intégrées 3
Sắc lệnh số 174-NV ngày 13/7/1961 của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đình Diệm



Nếu nhà cầm quyền Hà Nội không đặt Tổ Quốc và Dân tộc lên trên hết ; Không thay đổi thể chế chính trị, thì không thể đối đầu với Trung cộng được, mà chỉ có Việt Nam Cộng Hòa, một Quốc Gia đã từng dựng bia đá chủ quyền trên cả hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa từ năm 1956 với Sắc Lệnh rõ ràng, cũng như những thân xác, những dòng máu thắm của các Chiến Sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã hòa quyện dưới đáy Biển Đông, trong cuộc Hải chiến 1974, khi đã “nhắm thẳng quân thù mà bắn” để bảo vệ Hoàng Sa. Đó là những chứng tích lịch sử đời đời, và sẽ còn thâm khắc, để lớp hậu sinh cần phải ghi nhớ:

Tiền nhân của chúng ta đã dày công dựng nước và giữ nước bằng cả núi xương, sông máu, thì hôm nay, toàn dân Việt; đặc biệt là lớp hậu sinh, sẽ không thể thản nhiên mà nhìn đảng Cộng sản Việt Nam mỗi ngày cứ đem dâng - bán từng phần lãnh hải, lãnh thổ của đất nước cho Trung cộng cho đến khi cả dân tộc phải bị diệt vong. Chính vì thế, cho dẫu có phải đánh đổi cả sinh mạng của mình, thì lớp hậu sinh cũng phải lấy máu xương để bảo vệ máu xương, là non sông gấm vóc Việt Nam của Tiền Nhân để lại!

 
Kính thưa quý độc giả,

 
Bài này, đã được viết hai năm trước, vào ngày 01/07/2014. Và bây giờ là thời điểm của Giàn khoan HD. 981 đã và đang quay trở lại; nhưng lần này, nó càng tiến gần vào lãnh hải của Việt Nam hơn. Cùng lúc với những tin tức nào là "Việt Nam đang chuyển thiết giáp và quân đội chuẩn bị chiến tranh - Trung cộng và Cam-Bốt đang chuyển quân vào biên giới Việt Nam..."
 
Qua những "tin tức" như vậy, lại có người vì mang căn bệnh hoang tưởng, nên đã nghĩ rằng, "Hoa Kỳ sẽ đưa quân chiếm lại Hoàng Sa - Trường Sa cho Việt Nam" hoặc "Mỹ sẽ đưa người từ Mỹ (đang làm cảnh tại Mỹ) về Việt Nam làm Tổng Thống..."
 
Xin mọi người hãy dừng ngay những cơn mộng du, mà hãy nhìn vào những sự thật, dù có đau đớn, phủ phàng, nhưng đã hiển nhiên từng xảy ra trên đất nước Việt Nam, tất cả là những bài học đầy xương máu của hơn 40 năm về trước; kể từ cái Hiệp định Da Beo, 1973, về Việt Nam, và cuộc Hải chiến 1974, giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa trước lũ giặc Tầu xâm lăng. 
 
Xin hãy ghi nhớ, trong giờ phút sinh tử ấy, "Đồng minh" Hoa Kỳ đã thản nhiên "Kiến nghĩa bất vi... Kiến nguy bất cứu..." .Và "Đồng minh" Hoa Kỳ cũng đã thản nhiên nhìn các Chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa phải chết một cách tức tưởi, đau thương, máu loang mặt nước, xác chìm xuống đáy đại dương, để cho giặc Tầu xâm lăng và chiếm đoạt hải đảo Hoàng Sa. Và cuối cùng là những máu lệ, tang thương kể từ ngày Quốc Hận 30/4/1975 trong suốt hơn 40 năm qua trên cả ba miền đất nước!
 
Và xin đừng quên rằng: Tất cả những "cường quốc" trên thế giới, họ đều lo bảo vệ quyền lợi của họ trên hết. Và nếu họ có nhìn vào Biển Đông hay có "quay lại Việt Nam", thì cũng chỉ vì quyền lợi của họ trên con đường hải hành huyết mạch tại Thái Bình Dương, chứ không bao giờ vì đất nước và Dân Tộc Việt Nam cả. 
 
Người Việt Nam muốn giành lại lãnh thổ, lãnh hải và quyền tự quyết của Dân Tộc, không có con đường nào khác, là toàn dân phải cùng nhau đứng lên tự cứu, rồi sẽ có những giải pháp tốt đẹp cho đất nước, sau những cơn phong ba, bão tố.

Một lần nữa, người viết xin lập lại: cho dẫu có phải đánh đổi cả sinh mạng của mình, thì lớp hậu sinh cũng phải lấy máu xương để bảo vệ máu xương, là non sông gấm vóc Việt Nam của Tiền Nhân để lại!

 
Paris, 01/07/2014
Hiệu đính ngày 16/7/2015
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

 -----------------------------------------------------------

TIN NÓNG: GIÀN KHOAN HD 981 ĐÃ LẠI VÀO ĐẾN CỬA VỊNH BẮC BỘ

Việt Nam yêu cầu Trung Quốc rút Hải Dương 981 khỏi cửa Vịnh Bắc Bộ

Lao Động
5:56 PM, 07/04/2016 

Ngày 7.4, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình phản đối Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, nơi Việt Nam và Trung Quốc đang tiến hành đàm phán phân định. 

Trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đi vào vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ từ tối ngày 3.4.2016 để tiến hành tác nghiệp, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nêu rõ: 

“Theo thông tin từ các cơ quan chức năng Việt Nam, từ tối ngày 3.4.2016, giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc đã di chuyển đến vị trí có tọa độ 17º3’12 Bắc – 110º04’18 Đông để tác nghiệp. Đây là khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ mà Việt Nam và Trung Quốc đang tiến hành đàm phán phân định.

Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Trung Quốc hủy bỏ kế hoạch khoan giếng và rút ngay giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi khu vực này, không có thêm các hành động đơn phương làm phức tạp thêm tình hình và có những đóng góp thiết thực cho hòa bình, ổn định ở Biển Đông. 

Việt Nam bảo lưu tất cả các quyền và lợi ích pháp lý của mình đối với khu vực nói trên và quyền sử dụng tất cả các biện pháp hòa bình được luật pháp quốc tế cho phép để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp đó".

Trước đó, chiều ngày 5.4, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội để trao công hàm phản đối.

Tuần trước, trong cuộc họp báo chiều 31.3, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã lên tiếng phản đối về việc Trung Quốc đưa một giàn khoan khác là Hải Dương 943 vào hoạt động tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, khu vực mà Việt Nam và Trung Quốc vẫn đang đàm phán để phân định. Bộ Ngoại giao Việt Nam đề nghị các bên liên quan cần tránh các hành động đơn phương, làm phức tạp tình hình, không có lợi cho việc đàm phán phân định tại vùng biển này.

Tư lệnh Tàu cộng đích thân thị sát đảo ở Trường Sa

Đô đốc Ngô Thắng Lợi, Tư lệnh hải quân Tàu cộng.

16.10.2014

Giới chức tình báo hàng đầu của Đài Loan cho biết người đứng đầu lực lượng hải quân của Tàu cộng đã đích thân đi thị sát các hòn đảo ở biển Đông.

Phát biểu tại một cuộc họp của Ủy ban Ngoại giao – Quốc phòng của Viện lập pháp ở Đài Bắc hôm 15/10, tổng giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia Đài Loan Lý Tường Trụ cho biết, Đô đốc Ngô Thắng Lợi, Tư lệnh hải quân Tàu cộng, tháng trước đã đi thị sát năm hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa.

Ông Lý cho biết ông Ngô đã thực hiện chuyến đi 'chưa có tiền lệ' kéo dài một tuần để thị sát công tác lấn biển mà Tàu cộng thực hiện trên các hòn đảo này trong những tháng gần đây.

Báo chí Hong Kong và Đài Loan dẫn lời ông Lý nói rằng đích thân Chủ tịch Tàu cộng Tập Cận Bình đã thông qua dự án lấn biển và xây dựng các hòn đảo nhân tạo, gây quan ngại cho các nước, trong đó có Việt Nam.

Việt Nam chưa lên tiếng về thông tin về chuyến thị sát của ông Ngô, nhưng trước đây từng nhiều lần khẳng định 'chủ quyền không thể tranh cãi với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông'.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel từng lên tiếng chỉ trích 'hành động đơn phương, gây mất ổn định' của Tàu cộng ở biển Đông, trong đó có 'các hoạt động lấn biển tại nhiều địa điểm'.

Giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia Đài Loan đưa ra thông tin được cho là sẽ làm nóng vùng biển tranh chấp trong khi Đài Bắc cũng có các động thái củng cố chủ quyền.

Tin cho hay, Đài Loan đang cân nhắc củng cố sự hiện diện quân sự thường trực ở biển Đông bằng cách đưa các tàu hải quân ra thả neo gần các quần đảo tranh chấp.

Đài Bắc hiện thực hiện dự án xây cảng trị giá 100 triệu đôla trên đảo Thái Bình (Việt Nam gọi là Ba Bình) thuộc quần đảo Trường Sa.

Khi toàn tất vào năm sau, cảng này có khả năng cho các tàu tuần duyên và quân sự nặng 3.000 tấn cập bến.

Nguồn: New York Times, Reuters
____________________________________

Tàu cộng hoàn thành phi trường quân sự ở Hoàng Sa


Tàu Quốc lập thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm 2 năm trước đây để quản lý hành chính một khu vực rộng lớn ở Biển Đông. Thành phố Tam Sa có một đồn quân sự và Tàu Quốc đang cho lập một hệ thống tuần tra một phần nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia.

08.10.2014

Bắc Kinh vừa hoàn thành một đường băng phục vụ máy bay quân sự trên một hòn đảo ở Biển Đông mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.

Tân Hoa xã ngày 8/10 loan tin đường băng vừa mới xây trải dài băng qua đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam, Đài Loan, Tàu Quốc đều có tuyên bố chủ quyền trên quần đảo này, và các hoạt động xây dựng, khai thác dầu khí của Tàu Quốc tại đây đã làm leo thang căng thẳng giữa Bắc Kinh với Hà Nội trong năm nay.

Đường băng vừa hoàn tất là hành động mới nhất của Tàu Quốc trong chính sách khẳng định chủ quyền tại khu vực. Động thái này diễn ra 2 năm sau khi Bắc Kinh công bố thành lập thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm để quản lý hành chính một khu vực rộng lớn ở Biển Đông.

Đường băng có chiều dài 2.000 mét và sẽ được sử dụng cho mục đích quân sự.
Tân Hoa Xã nói với việc hoàn tất đường băng này, các máy bay quân sự có thể đặt ở Hoàng Sa, cải thiện đáng kể khả năng quốc phòng của Tàu Quốc ở hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa.

Thành phố Tam Sa có một đồn quân sự và trong năm nay Tàu Quốc bắt đầu thành lập một hệ thống tuần tra một phần nhằm bảo vệ quyền chủ quyền quốc gia.

Ngoài ra, Bắc Kinh cũng đang tiến hành công tác mở rộng cơ sở hạ tầng và du lịch tại đây.  

Hồi tháng 6, truyền thông nhà nước Tàu Quốc đưa tin Bắc Kinh cho xây dựng một trường học trên đảo Phú Lâm.

Đầu tháng 5, Tàu Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển gần Hoàng Sa, khơi mào các cuộc bạo loạn chống Tàu Quốc ở Việt Nam.

Nguồn: Xinhua, AFP
------------------------------------------------------------------------

Hải Vân Quan và tầm ngắm của Tàu cộng
Thứ Tư, 19 tháng Mười Một năm 2014 11:42
Tác Giả: Phi Khanh/Người Việt

ĐÀ NẴNG (NV) - Đèo Hải Vân ngút ngàn mây trắng với phía Đông là vịnh Đà Nẵng, eo biển Nam Ô, phía Tây là dãy Trường Sơn sừng sững, phía Đông Bắc là eo biển Lăng Cô và vịnh Đá Bạc, trên đỉnh là đồn trú Hải Vân Quan lở lói vết thời gian, dưới thung lũng Hải Vân có chùa Hải Vân Sơn Tự một thuở...

deohaivan 3Từ Hải Vân Quan có thể nhìn thấy một phần thành phố Đà Nẵng.
(Hình: Phi Khanh/Người Việt)

Câu chuyện về Hải Vân Quan và Hải Vân Sơn Tự vừa thấm đẫm huyền thoại thời mở mang bờ cõi về phương Nam. Và câu chuyện ấy càng trở nên “thời sự” khi người Trung Quốc xuất hiện ngày càng đông ở phía Bắc Hải Vân, thuộc về địa phận Lăng Cô, Thừa Thiên-Huế.

Ký ức về cổ tự nơi thung lũng

Một vị thầy từng tu luyện ở Hải Vân Sơn Tự mười năm, yêu cầu không nêu tên, nói, “Hải Vân Sơn Tự bây giờ không còn nữa, nhà nước tịch thu cách đây mười hai năm rồi. Trước khi có chùa thì Hải Vân Sơn Tự là một đồn trú thời vua Minh Mạng, con suối trước chùa có nguyên một con đường lót đá tròn về thẳng kinh thành Huế men theo đường núi...”

“Cách đây mười hai năm, nhà nước đến tịch thu chùa và thầy trò chúng tôi tứ tán. Ngôi chùa được xây bằng gạch cổ, tường dày một mét ấy sau này bị biến thành trạm gác và sắp tới là biến thành khu du lịch. Họ dự tính sẽ dùng ngôi chùa làm nhà nghỉ sinh thái.”

“Thực ra thì trước đây hai mươi năm, người Trung Quốc đã đến nhòm ngó khu vực này rồi và chúng tôi biết cách gì thì họ cũng sẽ biến nơi đây thành một thứ gì đó của họ. Trước đây đèo Hải Vân và núi Sơn Trà không có dây bìm bìm phủ kín, khi họ sang, loại dây này mọc lên phá hết rừng thông, không cây gì phát triển nổi với thứ dây này.”

“Sư phụ của tôi vốn là một người không thuộc giáo hội nhà nước, thầy tự phát tâm đi tu, xuống thung lũng Hải Vân, thuộc về địa phận Lăng Cô để trùng tu lại ngôi nhà đồn trú bỏ hoang và đắp tượng, trồng cây. Thời của thầy tu còn cả cọp vào chùa, nó cứ ngồi trước cửa chùa nghe kinh vài ba giờ rồi bỏ đi. Sau này khi già, nó về luôn sân chùa nằm đó một thời gian rồi chết.”


deohaivan duongĐường đèo Hải Vân, gần nơi Trung Quốc đang xây khu du lịch sinh thái.
(Hình: Phi Khanh/Người Việt)


“Tôi theo thầy hơn mười năm, chỉ chứng kiến ngôi mộ thầy đã chôn con cọp chứ không nhìn thấy con cọp, chỉ nghe qua lời kể của thầy. Sau này, khi chùa di dời, ai đó đã đào mất bộ xương cọp. Có lẽ cũng vì tấm bia chúng tôi đặt trên mộ giải thích quá rõ về đối tượng bên dưới, mô Phật!”

“Gần đây nghe thông tin Trung Quốc vào xây dựng khu du lịch ngay vị trí chùa Hải Vân Sơn Tự mà mình từng tu, tôi buồn lắm, có vẻ như yết hầu của quốc gia đã thuộc về họ. Vì với Hải Vân, nếu như Hải Vân Quan là đôi mắt để quan sát cho cửa ngõ miền Trung thì Hải Vân Sơn Tự là yết hầu quyết định Hải Vân Còn hay mất.”

“Khu vực thung lũng này rộng chừng 300ha, nếu tính cả lòng chảo thì rộng chừng 10,000ha. Đủ để đồn trú vài sư đoàn. Có lẽ dân họ hoang mang lắm!”

Nhân dân chẳng hiểu mô tê gì

Bà Huyền, còn gọi là “O Huyền” đã có bốn đời sống trên đèo Hải Vân để làm thuê, bày tỏ, “Mệ tui lên đây che lều để sống thời Pháp, đến thời Mỹ thì tui bám trụ, rồi bây giờ là con cháu tui cũng bám trụ để vá xe, bán nước, tra nước mui... Nhưng sắp tới đây thì họ đuổi đi rồi!”

“Thì người Trung Quốc đến đây đuổi mình đi để họ xây dựng khu du lịch chứ còn ai nữa! Nghe đâu họ xây cả ngàn tỷ đồng lận, mình đi mà không được cho đồng nào vì mình chỉ dựng lều tạm qua ba thời kì chứ không có cái bìa đỏ nào nên họ bảo đi thì mình tìm miếng đất khác mà cắm dùi thôi, đời mình cũng như kẻ giang hồ vậy thôi!”


deohaivan duong2Một góc quanh co của đèo Hải Vân. (Hình: Phi Khanh/Người Việt)

“Bà con ở khu này được nhà nước khuyến kích di dời ra xa vực địa điểm du lịch của họ, vì ở gần sẽ làm ảnh hưởng đến hình ảnh du lịch gì đó. Khu này tui biết sẽ rất đẹp vì nó dựa lưng vào núi, nhìn xéo lên thì thấy Hải Vân Quan, nhìn nghiêng thì thấy Biển Đông, nhìn ra xa một chút thì thấy đầm Lập An, vịnh Lăng Cô, nói chung là quá đẹp!”

“Nhưng tui chỉ lo là mai mốt họ không cho mình bén mảng đến gần, họ đưa người Trung Quốc qua đây nói là lao động chứ thật ra làm chi mình cũng chẳng biết, rồi tác oai tác quái trong đó, đến khi họ ra quậy thì mình chết. Vì không giống như Hà Tĩnh.”

“Vụ Hà Tĩnh là khu Vũng Áng ở cách khu dân cư chưa đầy một cây số, nên có đụng độ thì người dân rủ nhau kéo đến để bảo vệ dân mình. Chứ như ở đây, chỉ lèo tèo vài trăm nhà, nếu có đụng độ, nó làm thinh, khuya kéo ra đốt nhà, mình chết cháy rồi cũng chẳng biết ai đốt, bất quá thì nói là do bất cẩn làm chập điện, coi như huề cả làng. Mà dân mình nghe Trung Quốc đến thì ngán ngẩm, bao nhiêu cũng chấp nhận di dời càng xa tụi nó càng tốt, cho an toàn.”

“Dân mình có cái tệ, một thì tránh nó càng xa càng tốt, hai là bâu vào nịnh nó. Tránh nó xa quá thì nó tác oai tác quái ngay trên quê hương mình, còn bâu vào nịnh nó thì kiếm được vài đồng lẻ của nó để làm giàu nhưng lại bán đứng đồng bào. Cả hai thái độ này đều nguy hiểm cho đất nước, đều tạo cơ hội cho kẻ ngoại xâm lấn lướt!”

“Khổ nỗi mình chỉ là thứ dân đen, thấy vậy thì buồn chứ biết nói răng. Mình cần tiền thì bọn quan lại nó cũng cần tiền, mình bán nước trên đèo Hải Vân này để mua tấm tôn lợp nhà thì bọn nó cũng bán nước dưới vịnh bên cái đèo để kiếm tiền xây ngân hàng, thế thôi, chứ có ngu gì thì vẫn phải thấy là quá nguy hiểm!”

Nói đến đây, O Huyền lại đi bán nước vì có một chiếc xe đậu phía trước chở đổ nước mui. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, theo lời O Huyền là có những người bán nước khác đến đây thay vào vị trí của O và bứng O đi về đâu cũng chưa biết nữa!

Không có nhận xét nào: