HQ 14: Hộ Tống Hạm (PCE) Vạn Kiếp
1- Tư Lệnh HQ, Đáp Ứng Tình Hình Di Tản
Lễ nhậm chức của tân Tư Lệnh Hải Quân diễn
ra vào trưa ngày 24 tháng 3-75 có khoảng 7 Tư Lệnh các vùng đứng 1 hàng
ngang trước bàn tư lệnh chứng kiến và một sĩ quan báo chí hiện diện để
quan sát và tường thuật, trong văn phòng Tư Lệnh nhỏ nhắn trên lầu hai
nằm bên tay mặt của trụ sở Bộ Tư Lệnh trông ra bến Chương Dương.<!->
Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang lúc đó đang là Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, một trong vài “chỗ ngồi” sáng giá nhất chung quanh
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông được đổi về gấp nhậm chức Tư Lệnh Hải
Quân lần thứ nhì sau khi đã rời Hải Quân trên 10 năm về trước. Điều này
cho thấy kế hoạch “di tản và lui binh” là mối quan tâm nhất của Tổng
Thống Thiệu trong việc bổ nhậm chức vụ này. Ông Cang thổ lộ rằng nếu còn
ở vị trí Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô trực thuộc Bộ TTM, thì ông sẽ ở lại
Sài Gòn tử thủ.
Hồi đảo chính tháng 11 năm 1963, lần đầu ông
Cang được giao nắm chức vụ Tư Lệnh Hải Quân cũng là vì được lòng tin
cậy của nhóm tướng lãnh đối với ông. Và lần đầu ông làm tư lệnh kéo dài
khoảng 16 tháng. Còn lần thứ nhì này với cấp bậc cao hơn và giao tiếp
khẩn cấp rộng lớn hơn hẳn trước nhưng ông cũng chỉ ở lại chức vụ khoảng
trên một tháng, với một kế hoạch di tản Quân Lực VNCH và các công nhân
viên chức chánh phủ khi có nguy biến, để về Miền Tây, tập trung tại Côn
Sơn hoặc đi tị nạn.
Lễ Bàn Giao căng thẳng đó gồm cả những người
đã có bất hoà trước đây với cá nhân tân Tư Lệnh cũng hiện diện như: Phó
Đề Đốc Nghiêm Văn Phú, Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng.
Chỉ vài ngày sau ngày nhậm chức ông đã thành
lập đơn vị Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 bao gồm những Giang Đoàn Ngăn Chặn và
nhiều Căn Cứ Hải Quân do Đại Tá Lê Hữu Dõng là tư lệnh, với sự đóng góp
đáng kể của Phó Đề Đốc Phú.
Tân Tư Lệnh Chung Tấn Cang lúc đó có cấp bậc
cao nhất quân chủng, và ngang cấp với các tư lệnh quân binh chủng khác,
dễ dàng nói chuyện với Dinh Độc Lập và Tổng Tham Mưu. Trong những ngày
giờ dầu sôi lửa bỏng đó, quả ông đã quan tâm thực sự đến kế hoạch “Di
Tản” một cách chặt chẽ, với tiêu chuẩn phải mang đi được nhiều tướng
lãnh, quân nhân của các quân binh chủng khác và Hải Quân, dĩ nhiên.
Và ông thường xuyên có mặt trong Trung Tâm
Hành Quân thuộc Bộ Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển, trong tầng Ba một
cao ốc tân kỳ mới xây vài năm. Ông ngồi bề thế chỉ huy oai nghiêm như
một Tổng Tham Mưu Trưởng chiến trường Lục Quân. Phó Đô Đốc Cang liên lạc
hàng ngang với Tổng Thống và giới chức cao cấp nhất của Tổng Tham Mưu,
cũng như bên Biệt Khu Thủ Đô.
2- BTL/HQ Và Cuộc Di Tản QK 1 & Tướng Trưởng
Tư Lệnh Chung Tấn Cang theo dõi giải quyết cuộc di tản và tình hình trận liệt ngoài Quân Khu 1, và Đà Nẵng.
Ông biết từng bước đi của Tướng Bộ Binh,
Tướng Không Quân và các đơn vị tác chiến với những khi tạm trú trong căn
cứ HQ Đà Nẵng hoặc TTHQSĐ/TQLC. Sĩ Quan Báo Chí của Hải Quân lúc đó
cũng được chỉ định ngồi không xa những hải bàn chỉ huy của vị tướng Hải
Quân ba sao này.
Tướng Trưởng, Tướng Lân, Tướng Khánh, Phó Đề
Đốc Thoại… thường xuyên họp tham mưu tại TTHQ/ Sư Đoàn TQLC hiện đóng
tại Non Nước (Đà Nẵng).
Trong khoảng thời gian này hai sĩ quan của
BTL Sư Đoàn TQLC vừa trúng pháo của VC khi đang trên mặt nước để lên
chiến hạm, đó là Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc và Trung Tá Đỗ Hữu Tùng, theo
như lời thổ lộ của Trung Tâm Trưởng TTHQ/SĐ/TQLC Trần Vệ và sĩ quan
TQLC, Tô Văn Cấp. Vào phút chót Trung Tướng Trưởng đành bó tay, đã rời
bỏ Quân Khu I… Nếp đạo đức, khôn ngoan và thói quen chịu đựng đau đớn
cho thấy ông tướng danh tiếng này, vượt thắng hơn sự tính toán của TT
Thiệu… Theo lời một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến cho biết, Tướng Trưởng
ngồi lẻ loi trên ghế bố cùng với Đại Tá TLP/TQLC Nguyễn Thành Trí và độc
nhất một anh lính truyền tin Bộ Binh, chờ ôm poncho lội nước để lên Hải
Vận Hạm 404 vào lúc 10 giờ sáng ngày 29-3,
thay vì tin theo lời hứa hẹn của Sài Gòn là: “Cứ ở yên trong đó không
lội ra khơi chờ đến khi HQ 404 vô đón”. Và ông đã phải chọn một bộ quân
phục vải xám của Hải Quân để mặc trong suốt thời gian tạm trú trên tầu.
Dù theo dõi chặt chẽ, nhưng thực ra Trung
Tâm Hành Quân HQ ở Sài Gòn không nắm vững được phương vị di chuyển của
Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Tướng Ngô Quang Trưởng: Khi ông ra tới Chiến Hạm,
thì Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại vẫn còn đang thất lạc ở bờ biển chờ tiểu đỉnh
vào đón. Và trước đó, một vài viên chức người ngoại quốc đã được sắp xếp
lên HQ-5 rồi. .
Em trai của Phó Đề Đốc Thoại là Hồ Văn Kỳ
Tường, Hạm Phó HQ-5, đã cầm tận tay công điện Mật của chính Tổng Thống
giao cho Tướng Trưởng và nói: “Tổng Thống muốn Trung Tướng theo tiểu
đỉnh trở lại đất liền để tiếp tục chỉ huy”. Sau khi đọc công điện một
lúc khá lâu, Tướng Trưởng đã xin với Sài Gòn để được cùng với TQLC “tiếp
tục chỉ huy trên Bộ Tư Lệnh Nổi tại Hải Vận Hạm HQ 404”….(Thực ra không
ai rõ ngày giờ ấy: Tướng Trưởng đang ở chiến hạm nào?)
Trung Ương sau một khoảng thời gian chờ đợi,
đồng ý cho Tướng Trưởng được theo chiến hạm xuôi về Nha Trang, Phan
Rang về đến Sài Gòn. Buổi chiều cùng ngày, tin từ Đà Nẵng gọi về cho Tư
Lệnh Chung Tấn Cang biết một oanh tạc cơ không rõ của Không Quân VN hay
Hoa Kỳ đã bắn lầm một Hải Vận Hạm, có lẽ là Hộ Tống Hạm lọai 400, gây
cho khoảng 4 sĩ quan cùng với nhân viên, thủy thủ trúng thương và tử
nạn.
Một sĩ quan trẻ được báo cáo tử nạn là HQ
Trung Úy Chiến Binh Nguyễn Độ, cũng là người bạn cùng đơn vị của tôi
trong Hải Quân vài năm trước. Tin buồn này cứ ám ảnh trong lòng tôi như
không bao giờ nguôi quên.
Không đầy một tuần sau, khi chiến hạm có
Tướng Trưởng về đến cầu tầu Tư Lệnh HQ, Phòng Báo Chí cũng theo ra đón
Tướng Trưởng, chứng kiến tận mắt cảnh tượng Tướng Chức thay mặt Tổng
Thống Thiệu tỏ rõ sự bất bình. Có tin là Tướng Trưởng bị quản thúc cùng
với một số tướng khác qua lệnh của Tướng Trần Văn Đôn.
3- Tuyến Thép Phan Rang Và Phó Đề Đốc Minh
Chỉ vài ngày sau khi Đà Nẵng thất thủ, Bộ Tư
Lệnh Hải Quân đã muốn Phòng Báo Chí chuẩn bị các bài diễn văn soạn sẵn
của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tướng Viên và Tư Lệnh Hải Quân nhằm
nêu cao vai trò “Tư Lệnh Tuyến Thép” và một Sĩ Quan Báo Chí theo ra Nha
Trang giao trực tiếp để trao tận tay và đề cao chiến dịch mới: “Tuyến
phòng Thủ cuối cùng dự định tại Nha Trang, mang tên Tuyến Thép, do PĐĐ
Hoàng Cơ Minh là Tư Lệnh Chiến Trường- là vinh dự cho HQVN”, nhưng lễ
nghi quân cách và lệnh chưa kịp chính thức loan tải và phát thanh thì
lãnh thổ kiểm soát của VNCH đã phải cắt thêm về tới Tuyến Thép Phan
Rang. Rồi cũng từ Phan Rang, chưa kịp thực hiện những nghi lễ trang
trọng bảo vệ Tuyến Thép thì Tư Lệnh, lẫn sĩ
quan báo chí đã phải theo Chiến Hạm chạy dọc theo bờ duyên hải để đón
người di tản từ Phan Rang và các thành phố khác nữa xuôi Nam. Tôi, sĩ
quan Báo Chí HQ, có dịp rút lui khỏi Nha Trang, đi chung Chiến Hạm với
Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, cùng gặp gỡ trong phòng ăn Sĩ Quan Chiến Hạm
cùng những lúc chen chân giữa quân nhân tác chiến, và heo gà trên chiến
hạm kêu oang oác, ồn ào.
Đây là dịp tôi có giờ trò chuyện riêng tư
với Tướng Minh. Chúng tôi kể lại thời ăn cơm chung giữa chúng tôi với
nhà văn HQ Chu Sĩ Lương, Sĩ Quan Tùy Viên HQ, Lê Rĩnh; HQ Trung Tá Lê
Công Bình; Thiếu Tá Phi Đoàn Trưởng Thần Trùy 211; Nguyễn Kim Hườn, với
Thiếu Úy KQ Trần Thuỵ Chi thường chở ông trên trực thăng, những ngày tôi
được quan sát cuộc hành quân Thủy Bộ, ông tiếc cho buổi triển lãm tranh
ở Hội Việt -Mỹ khai mạc đầu tháng Tư sẽ không có nhân vật chính là tôi
về kịp tham dự… Chúng tôi ngậm ngùi chung những mất mát… Và chúng tôi
lênh đênh như thế trên biển hơn 3 ngày, chen lẫn trong số hàng ngàn
chiến binh tướng tá di tản, trên cả 3 soái hạm, HQ 2, HQ 3, HQ 5 và bao
gồm cả Dương Vận Hạm HQ 500
4- Hải Quân Họp Tiết Lộ Chi Tiết: Di Tản
Bộ Tư Lệnh Hải Quân và Đại Tá Nguyễn Xuân
Sơn, Tư Lệnh Hạm Đội đã họp với khoảng 100 hạm trưởng các loại chiến hạm
lớn nhỏ vào chiều ngày 26 tháng 4, ông Sơn tuyên bố rằng lấy quyền- Tư
Lệnh Hạm Đội thông báo đến quý vị hạm trưởng rõ 3 chuyện:
“Vũng Tầu, Phan Rang và Bộ Tổng Tham Mưu đã
tan rã, địa điểm Sư Đoàn 3 Không Quân đang bị dội bom, trong khi Hạm Đội
HQ còn an toàn và nguyên vẹn, chúng ta chuẩn bị tinh thần có thể di
chuyển về Phú Quốc.”
Chỉ vài ngày sau hôm 28-4 Đại Tá Sơn bị
“cách chức”, người thay thế là Đại Tá Khuê. Ông Khuê tuyên bố trong buổi
họp đầu tiên để trấn an và đánh lạc hướng: “Di tản không đặt ra nữa vì
Hoa Kỳ đã giúp ta thả bom CBU ở Xuân Lộc, ta sẽ thắng…”
Vào sáng sớm ngày 29-4 lại có một cuộc họp
tham mưu cao cấp cho biết: “nếu không có một phản lệnh nào khác, thì
toàn bộ Hạm Đội sẽ rời Bộ Tư Lệnh Sài Gòn vào lúc “Không Giờ”- Khuya 29
rạng 30, các hạm trưởng cứ thế mà tuân hành.”
Trong khi đó thì Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh
Châu khi bỏ Bộ Tư Lệnh Vùng về Sài Gòn, ông thường xuyên có mặt tại Căn
Cứ Hải Quân Cát Lái, cùng với toán Quân Cảnh và toán nhân viên làm một
nút chặn ngay tại ngoài tuyến đường lộ gần căn cứ, nơi được đặt là trại
tị nạn cho quân nhân và đồng bào về từ Phú Quốc. Trong lúc đó HQ Đại Tá
Trần Văn Triết điều khiển kiểm soát vòng đai Hải Quân Sài Gòn.
Vào lúc 5 giờ 30 chiều 29-4-75, cơn mưa
chiều vừa tạnh, khi Hạm Trưởng Đinh Mạnh Hùng của HQ 2 mang tên Trần
Quang Khải, chuẩn bị xuống chiến hạm, chuẩn bị công tác chiến dịch “Di
Tản-Lui Binh”, Sĩ Quan BTL Ưng Văn Đức (một Trung Tá và một Thiếu Tá)
thi hành lệnh của Đại Tá Triết đã đến ngăn cản không cho hạm trưởng và
nhân viên được xuống tầu di chuyển nếu không do chính ông cho phép.
Hạm Trưởng Đinh Mạnh Hùng đã bị cản không
được xuống tầu, đã phải dùng máy liên lạc cho một tiểu đỉnh đón ông
trước nhà hàng Majestic, và lên tầu phía tả hạm, bằng thang dây.
5- Tổng Thống Dương Văn Minh Đồng Ý Cho Di Tản Về Miền Tây
Cũng khoảng 4 giờ chiều hôm ấy, trong cơn
mưa nhỏ và mây xám, Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí, Tư Lệnh Hành Quân Lưu
Động Biển đã cùng với gia đình Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh xuống HQ 3.
Trong khi Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đứng trên một chiếc PCF, đậu ngay cầu
tầu Tư Lệnh để dàn xếp mọi diễn biến. Lệnh chiến hạm “Nội bất xuất,
ngoại bất nhập”. Và cho đến chiều tối mới chuyển qua HQ 5, chiến hạm này
được chọn làm soái hạm chỉ huy cùng với Tư Lệnh Chung Tấn Cang.
Đô Đốc Cang muốn bảo toàn đơn vị đến giờ
chót hoặc lên đường ra Phú Quốc hoặc Miền Tây. Những điều này khi trình
bày với TT Dương Văn Minh đều được Tổng Thống gật đầu và không phản đối
điều gì. Chủ trương của ông Cang cùng với các vị tướng tham mưu là không
chấp nhận liên hiệp. Xung quanh ông là những tướng lãnh chủ trương
chống Cộng, chống Liên Hiệp với CS… như Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Phó Đề
Đốc Đinh Mạnh Hùng, Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu
Chí.. Và Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú, là một sĩ quan chỉ huy mà trước đây
từng có những bất hòa riêng với Tư Lệnh, nhưng chính cuộc chiến đấu và
di tản cuối cùng gay go này đã đưa những người có những bất đồng ngồi
lại gần
nhau.. cùng hữu hiệu làm việc.
Họ thường xuyên liên lạc với Đại Tướng Minh,
Đại Tướng Minh đã bày tỏ rõ ý muốn ở lại của riêng ông, và mệt mỏi đồng
ý cho các đơn vị quân đội và HQ được quyền tự giải quyết hoặc đưa quân
nhân các cấp “di tản… lui binh”, sau khi ông cảm thấy đã tuyệt vọng và
bị lừa.
Phó Đề Đốc Chí, tức nhà thơ Hữu Phương lại
là vị tướng độc nhất trong BTL HQ (?) muốn phá hủy cơ sở Trung Tâm Hành
Quân để bảo mật. Trong lúc rời nhiệm sở, ông nói ra ý định muốn dùng lựu
đạn lân tinh để tiêu hủy hồ sơ theo mục đích bảo vệ những người còn kẹt
lại và ngăn chặn khi VC tới. PĐĐ Chí sau đó xuống chiến hạm bằng tiểu
đỉnh và lên bằng thang dây vì cầu tầu đã bị kiểm soát nghiêm nhặt.
Các phòng sở khác êm ắng như nhà hoang cửa
trống, ai cũng túa ra về vì tất cả họ tâm trạng đều rối bời, không ai
tiếc nuối gì hoặc có một hành động gì khác, ngoài nhóm người thân cận
với tân Tổng Thống Dương Văn Minh thì vẫn cố vớt vát tìm giải pháp…
chiến đấu (?)… Có lẽ vì vậy vài sĩ quan Hải Quân giờ chót chưa đi, gốc
Miền Nam, thân cận với ông Dương Văn Minh khi ở lại, vừa bị trên 16 năm
tù “cải tạo” vừa bị mang tiếng là đặc công nằm vùng! như Đại Tá Nguyễn
Văn Tấn, được khẩu lệnh của TTMinh hành xử quyền Tư Lệnh Hải Quân, Trung
Tá Lê Như Linh, Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh HQ, Thiếu Tá Trần
Bá Hạnh, Phó Trưởng Phòng TLC.
Suốt bao nhiêu năm trong Hải Quân tôi chỉ
biết có một Trung Sĩ Tâm Lý Chiến, Huỳnh Thanh Vân, cũng là tài tử điện
ảnh, là cán bộ nằm vùng sau 1975 đã trở thành thủ trưởng phòng Tài Chánh
và Ngân Hàng Quận Tân Bình. Còn những tiếng đồn khác như nhà văn Chu Sĩ
Lương và những người khác ở lại, hoặc không đi được gọi họ là “nằm
vùng” thì tôi không tin.
Phó Đô Đốc Cang, theo sát an ninh vào những
giờ cuối cùng. Ông liên lạc với TTM, cũng như Đại Tá TQLC Cổ Tấn Tinh
Châu, chỉ huy trưởng Đặc Khu Rừng Sát và Thủy Trình sông Lòng Tảo, Vàm
Cỏ – Soài Rạp… để giữ an ninh cho đoàn chiến hạm có khả năng di chuyển
trên sông Sài Gòn trong vòng vài giờ ra khơi, cùng hướng về điểm hẹn đặt
dưới quyền chỉ huy toàn diện của chính ông, không trở thành mục tiêu
của VC sẽ trải dài hai bên bờ sông. Ông Cang là vị tướng đã thu gọn quân
nhân dưới quyền tập hợp di tản nhẹ nhàng nhất mà chắc rằng không ai có
khả năng điều động rộng lớn và khó khăn được như thế.
Nếu không có lệnh đầu hàng, và nếu không có
lệnh khác thì một khối lượng lớn tướng lãnh, sĩ quan, quân nhân các quân
binh chủng và Hải Quân đã có mặt tại Miền Tây (?), như chính lời ông
Cang cho biết như vậy.
Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 cũng là con đẻ của
ông, một tổ chức cần thiết để giữ an ninh giờ chót cho Sài Gòn. Có lẽ
chính vì thế mà nhiều người còn rời Sài Gòn được trong ngày 30-4, như cụ
thể trường hợp nhà thơ Nhất Tuấn, và nhiều người khác còn cơ hội lên
được Quân Vận Đỉnh 9604 ra khỏi sông Sài Gòn từ Nhà Bè hoặc Tướng Trung
và Tướng Vĩnh Lộc rời Sài Gòn trong khoảng 4 giờ trên sông mà không bị
VC bắn từ hai bên bờ sông.
Tới trưa 30-4, những vụ hôi của dọc kho
Trịnh Minh Thế và Khánh Hội gây ra những vụ nổ súng và khói lửa trong
khi VC vẫn chưa xuất hiện dọc đường như nhiều người lo âu.
6- Hải Quân Ra Khơi
Tư Lệnh HQ Chung Tấn Cang đã không ra đi
bằng phương tiện hàng không. Mặc dù cũng giống như Phó Đề Đốc Chí, Đề
Đốc Chơn, Đại Tá Tấn –Khối An Ninh HQ đều được cơ quan DAO dành chỗ sẵn
để họï lên máy bay.
Trước đó một ngày, Đề Đốc hồi hưu Trần Văn Chơn ra Vũng Tầu đón cha
mẹ về cùng đi, chờ lên máy bay của Quân Đội HK, nhưng cuối cùng ông đã
quyết định ở lại. Con trai, là hạm trưởng HQ 601, HQ Đại Úy Trần Minh
Chánh, cũng từ chối cùng di tản trong chiều tối 29/4.
Trong cơn mưa chiều 29, vài tướng lãnh bị “tạm giam” trong khu vực
BTL Hải Quân như: Trung Tướng Lâm Quang Thi, Lâm Quang Thơ, Nguyễn Bảo
Trị, Nguyễn Đức Thắng, Phạm Quốc Thuần, Chuẩn Tướng KQ Nguyễn Đức Khánh…
được Hải Quân nhanh chóng mời đón lên chiến hạm HQ. 2 cùng di tản chiến
đấu.
Phó Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh vừa rời chức vụ Tư Lệnh Hải Quân tháng
trước, ngày đó cũng mới từ xa về, được hướng dẫn xuống Soái Hạm HQ 1,
đậu ở vị trí 1 gần sát đường lộ mặt tiền BTL.HQ. HQ 1 rời bến đầu tiên
sau đó mắc cạn phải chờ kéo đi. Ở vị trí số 2 cặp chính giữa là HQ 3 –
Phạm Ngũ Lão, Ngoài cùng vị trí số 3 là HQ 2 – Trần Quang Khải do Trung
Tá Đinh Mạnh Hùng là Hạm Trưởng đã tuân theo kế hoạch rời bến gần giữa
đêm “giờ Zéro”. Có các chiến hạm khác kể cả các chiến hạm PCF trong
nhóm tầu của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ huy đã rời bến từ sớm. Mỗi khi
có một chiến hạm tách bến lại có vài người trên bờ nổ súng… Và nhiều
trực thăng bay lượn xa gần vòng quanh Bộ Tư Lệnh càng lúc càng nhiều
như muốn được nhảy xuống nước để được HQ vớt.
Khi Chiến hạm rời bến, người ta nhìn thấy ngọn lửa đang bốc cao từ
Kho Đạn Thành Tuy Hạ và Kho Xăng Nhà Bè. Mặc dù trước đó cũng có nhiều
người rời Sài Gòn từ khu vực Quân Cảng vùng Cát Lái hướng về Phú Quốc.
Trong lúc này Phi Trường Tân Sơn Nhất và Bộ Tư Lệnh Không Quân đã là
trọng điểm của những đợt pháo kích, nhiều cấp tướng và cấp tá đã cho
biết họ không còn tìm được máy bay để rời Sài Gòn. Hình ảnh Bộ Tư Lệnh
Hải Quân và sông Sài Gòn bị pháo kích cũng trong tầm tiên liệu và lo âu
như phi trường, nhưng làn sóng người vẫn kéo về thật đông.
Sáng sớm ngày 30 tháng 4, theo lệnh từ Trung Ương chính phủ, HQ
Trung Tá Lê Như Linh cho phát ra lời kêu gọi các chiến hạm đừng rời bến
trên hệ thống tryền tin nội bộ. Riêng HQ Đại Tá Nguyễn Văn Tấn quyền Tư
Lệnh BTLHQ, sau khi đi họp với Tướng Vĩnh Lộc từ 7 giờ 30 sáng, có cả
ông Vanuxem cựu tướng lãnh Pháp trong buổi họp này. Tướng Vĩnh Lộc đã ra
lệnh Hải Quân phải cung cấp chiến hạm cho ông. Trở về BTL/HQ ngay sau
đó Đại Tá Tấn đã ra lệnh cho Sĩ Quan Báo Chí viết các lời kêu gọi của
TL/HQ “ban hành lệnh cho anh em chiến sĩ tiếp tục giữ vững tay súng” và
không đi đâu cả. Sĩ Quan Báo Chí HQ lúc ấy đã không viết hoặc đọc được
lời kêu gọi này.
Trưởng khối CTCT là Đại Tá Triết đã rời nhiệm sở, để nắm quyền kiểm
soát, cho phép từng người xuống chiến hạm. Theo lời Tướng Chí cho biết:
ông Triết đã rời bến nhanh chóng và có mặt ở Phi đầu tiên, mà không đi
theo 3 phân đội di tản của HQVN.
Lúc bấy giờ Bộ Tư Lệnh HQ có Thiếu Tá Trần Bá Hạnh là người thân
cận nhất với hàng tổng trưởng mới, thân tín của Tổng Thống “Big Minh”.
Ông Hạnh đi ra đi vào nói năng với nét mặt lạc quan, kể cả trong giờ
phút tân nội các Vũ Văn Mẫu đòi trục xuất cơ quan DAO và lực lượng Hoa
Kỳ. Thực sự Tướng Cang, là người lâu nay thường xuyên liên lạc chặt chẽ
với Tổng Tham Mưu, Dinh Độc Lập, với ông Thiệu… Ông nổi danh từ khi tham
gia đảo chánh 1-11-63 thành công. Nhưng giờ phút này ông Cang để cho
Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy có Thiếu Tá Phước đi cùng, thay mặt ông là
“con thoi” với ông Dương Văn Minh khi cần.
Các chức vụ xung quanh Tướng Cang như: Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí,
Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển; Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn, Tư Lệnh Hạm
Đội; Đại Tá Đỗ Kiểm, Tham Mưu Phó Hành Quân; Đại Tá Luân, Chỉ Huy Trưởng
Khối Tiếp Vận; Đại Tá Phạm Mạnh Khuê-tân Tham Mưu Trưởng Hành Quân
Biển, thế chỗ Đại Tá Sơn vào ngày chót; Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy, Tham
Mưu Trưởng Hải Quân; Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng, Tư Lệnh Hành QuânLưu
Động Sông; Đại Tá Dõng, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm 99. Những cách biệt
cá nhân không còn nữa, cuộc di tản mang họ lại gần nhau.
Riêng trường hợp cá nhân tôi, là một sĩ quan rất trẻ, lúc ấy mang
cấp bậc Trung Úy, và phục vụ trong phòng Báo Chí thuộc BTL/HQ, tôi còn
nhớ trong những giây phút hoang mang ấy có bạn thân quen lo toan xung
quanh. Như Đại Úy Đặng Phú Thiệt từ Đại Học Chiến Tranh Chính Trị về
phục vụ trong Khối Chính Huấn Hải Quân cũng bàn với tôi, chiếm đoạt một
chiến hạm loại nhỏ càng sớm càng tốt rời Sài Gòn ra đi khi bị bỏ rơi..,
Trung Tá Trịnh Tiến Hùng, rất thân, ông cũng là cánh tay mặt của Đại Tá
Sơn, sau khi lo cho người thân và nhân viên thuộc cấp cũng muốn tôi và
gia đình lên tầu, ông Hùng đã lên máy bay đi vào ngày cận chót.
Như anh Nguyễn Viết Kim tức nhà văn Người Khăn Trắng, trong ngày 29
tháng 4, nhân việc đi săn tin tức, chở tôi trên chiếc xe Honda đàn ông
đỏ của anh, tâm sự với nhau những lời từ giã vì vợ con anh đã ra Vũng
Tầu và ra khơi rồi. Anh đang tìm đường gấp rút ra đi. Chúng tôi nói
những lời chia tay từ đó.
Như Võ Hà Anh, vừa là Thượng Sĩ phóng viên và cũng là nhà văn nổi
tiếng thời ấy tên Dung-Võ Hà Anh, thì rất chu đáo và lo cho phòng Báo
Chí chúng tôi những giấy tờ lên máy bay đặc biệt do cơ quan DAO cấp cho
thân nhân người Hoa Kỳ
Như Thiếu Tá Nguyễn Đình Sài, tác giả của vài bài thơ mới thời ấy
vẫn rất nghiêm chỉnh cùng với nhóm sĩ quan BTL vào doanh trại kiểm soát
các toán trực gác mỗi đêm kể cả vào những đêm cuối.
Và chúng tôi vẫn gặp bạn cũ, Đại Úy Lê Rĩnh, tùy viên của Phó Đề
Đốc Đinh Mạnh Hùng; Hà Thúc Sinh say mê làm thơ và dịch sách là Trung Uý
đơn vị trưởng Hải Tiếp Vụ tại HQCX. Tuy nhiên giống như trường hợp
nhiều người khác, họ cũng không liên lạc được với máy bay của DAO, vì
con số người cần bốc khỏi Sài Gòn ngày càng tăng, nhiều quân nhân và
giới chức Hoa Kỳ vẫn chưa kịp lên máy bay rời Sài Gòn được…
Và dù biết danh sách các địa điểm trực thăng đón và có danh sách
được đón đi, tôi cũng chẳng màng chờ nghe bài hát White Christmas được
cho biết mật từ một tuần trước..
Tôi không còn gặp một bạn hữu hoặc nhân viên nào của Phòng Thông
Tin Báo Chí nữa, như Triều Dương, Nguyễn Tất Ứng, Trung, Cẩm Vân… từ
chiều 29-4-75.
Đêm 29–4 tại Bộ Tư Lệnh, Sĩ quan và đoàn viên, họï gọi nhau ới ới,
mở lối đi về hướng cầu tầu cho quân nhân “Xuống tầu đi kìa, gấp lên tầu
rời bến đêm nay…” Chiếc TV để giữa cổng ra vào từ đêm 21-4, ông Thiệu
đọc diễn văn từ chức vẫn chớp hình mà không ai muốn nhìn. Tôi lại rời
BTL, lái xe về nhà với ý định mang gia đình xuống chiến hạm ra đi theo
bạn bè, đồng đội.
7- Chi Tiết Di Tản Của Hải Quân Và Ông Armitage
úc này có một sĩ quan liên lạc cấp tốc từ Hoa Thịnh Đốn cử tới là
cựu Thiếu Tá Richard Armitage, là tùy viên viên quân sự Tòa Đại Sứ Hoa
Kỳ. Nay là thứ trưởng Bộ Ngọai Giao. Ai cũng có thể hiểu ông đã đóng vai
trò theo dõi, đôn đốc cuộc “Di Tản- Lui Binh” êm thắm và bí ẩn theo ý
muốn của chánh phủ Hoa Kỳ chứ không hẳn là theo ý của Tư Lệnh Cang. Tuy
vậy Phó Đô Đốc Cang cho biết “ông Armitage cũng không làm điều gì to tát
và không tỏ lộ là người có quyền chỉ huy trong cuộc di tản như những lo
ngại”… khi nhắc tới vai trò sĩ quan Hoa Kỳ này.
Đối với chính phủ Hoa Kỳ, ông Armitage mới là người đích thực lãnh
trách vụ trong chiến dịch mang quân nhân, viên chức Hoa Kỳ liên quan đến
HQ còn lại, toàn thể quân nhân HK tại Sàigòn lúc ấy chỉ còn khoảng 900
người cần mang ra khỏi VN càng sớm càng tốt.
Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng đã hướng dẫn sĩ quan liên lạc Armitage
thăm vùng cầu Bình Lợi, quan sát khu Quân Cảng và HQCX sau đó đi xuống
Chiến Hạm HQ 3 rồi chuyển qua HQ 5, và sau đó đón Tướng Cang và Tướng
Diệp Quang Thủy từ một Tiểu Đỉnh lên Soái Hạm, thay vì xuống chiến hạm
từ Bộ Tư Lệnh như bao nhiêu người khác để bảo mật.
8- Ai Là Quyền Tư Lệnh Cuối Cùng Trên Đất Liền?
Chiều hôm 29-4-75, Phòng báo chí Hải Quân nhận lệnh theo dõi các
diễn biến đi họp tại Tổng Tham Mưu, như lời kêu gọi. Khuya 29 và rạng
sáng ngày 30 tháng 4 lại được lệnh từ Đại Tá Tấn, hành xử như nhân vật
số 1 của HQ; Đại Tá Tấn cũng mời Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng từ Miền Tây
về cùng ông chỉ huy, Tướng Thăng nói “ Chờ tôi lấy trực thăng và sẽ có
mặt tại BTL.” Và đến gần trưa 30 tháng 4 vài giờ trước khi Tổng Thống
Minh chính thức đọc lời đầu hàng lại có sự xuất hiện của Đại Tá Trần
Bình Phú, Trưởng Khối Nhân Viên Bộ Tư Lệnh được Tư Lệnh Cang (hay ông
Tấn) chuyển lại quyền ra mặt, ở lại kiểm soát, chỉ huy Hải Quân.
Nhiều người gọi ông Đại Tá Tấn là Tư Lệnh cuối tháng Tư, và ông
cũng ra lệnh cho vài hạm trưởng trong ngày 29-4- “nhân danh Tư Lệnh” (dù
không nói rõ Tư Lệnh tên gì), nhưng không xác định Tư Lệnh là chính ông
hay không? Người ta thấy trong ngày 29 tháng Tư, ông Tấn trong quân
phục đại lễ HQ, có hai xe Jeep Quân Cảnh hộ tống vào Bộ Tư Lệnh HQ.
Người ta tin rằng Đại Tá Tấn đã được Tổng Thống Dương Văn Minh bổ
nhậm bằng khẩu lệnh ngay sau khi biết ý định của Tư Lệnh Hải Quân Chung
Tấn Cang xin có kế hoạch di tản. Ông Minh nói, “Các anh cứ việc đi và
cho mang theo hai người thân cũng là sĩ quan cao cấp VNCH”, đồng thời từ
chối lên một chiến hạm chuẩn bị chu đáo “dành riêng để nghinh đón Nội
Các và di tản các giới lãnh đạo quốc gia”.
Sau 16 năm tù “cải tạo” cay đắng nhục nhằn, đi Hoa Kỳ tị nạn, Đại
Tá Tấn có ý định định cư tại thành phố Seattle cùng với Đại Tá Dũ (Cơ
Khí), sau đó ông Tấn di chuyển về Cali. Khi được hỏi ông có phải là
quyền Tư Lệnh ngày 30-4 không? Đại Tá Tấn giữ thái độ yên lặng và xác
nhận vai trò của ông trong nỗ lực tuyệt vọng này.
Bấy giờ nhiều cánh quân VC đã vào tới Sài Gòn, xe tăng T-54 đã
nghiến lòng đường phố Sài Gòn tới góc đường Đinh Tiên Hoàng, Hiền Vương,
Hai Bà Trưng và nhiều nơi khác. Mặt khác đoàn quân CS Bắc Việt cũng
trên đường tiến tới ủi xập cổng sắt Dinh Độc Lập và đòi chánh phủ VNCH
phải đầu hàng.
Trong khi đó Đại Tá Trần Bình Phú, Trưởng Khối Nhân Viên cũng được
các sĩ quan tham mưu và nhân viên có mặt lúc ấy xác nhận ông là người ra
mặt chỉ huy tại Bộ Tư Lệnh. Trung uý Đỗ Anh Tuấn em vợ của Đại Tá Trần
Bình Phú cùng với Trung Tá Phan Ngọc Xuân chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh
BTL/HQ tiếp tục cầm súng chỉ huy những vị này và vài sĩ quan, hạ sĩ quan
thuộc Khối An Ninh đi theo Đại Tá Tấn là những người cuối cùng tôi gặp
và từ giã ở vòng vây rào kẽm gai chằng chịt.
9- BTL/HQ Bỏ Ngỏ Từ Lúc Tổng Thống Đầu Hàng
Giờ phút ấy tôi không nghĩ được phải làm gì, bỏ chạy ra xe về đón
gia đình xuống tàu hay ra vài điểm hẹn “chờ Trực Thăng”? Không hiểu tại
sao giờ phút đó chúng tôi còn đủ bình tĩnh, không sợ pháo kích và T-54
càn nát người và tiến vào vòng rào Hải Quân không chừng?
Trong giờ phút căng thẳng tôi nghe theo lời yêu cầu của người bạn,
chỉ biết Trung Úy Đỗ Anh Tuấn là người thân tín, kỷ luật bạn học trường
Taberd, vào cùng quân chủng giao súng, khẩn khoản mong tôi đứng trong
đội ngũ bảo vệ cuối cùng Bộ Tư Lệnh dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phú.
Tôi làm theo yêu cầu, cho đến khi biết rằng: Thật sự tuyệt vọng rồi, như
lời anh Đệ thông tấn viên truyền hình ABC, anh Nick Út thông tấn AP,
hai anh hôm trước đến chia tay tôi tại BTL/HQ và muốn rủ cô em Bình Minh
cùng theo anh lên máy bay Hoa Kỳ. Họ đưa tôi bản tin từ tờ New York
Times từ ngày 24-4-75 viết về sự thất thủ đã là sự thực không chối cãi
được khi viện trợ Hoa Kỳ cho VNCH đã bị ngưng. Chấm dứt bao nhiêu năm
sát cánh: với 58,000 người lính Hoa Kỳ
tử vong có lúc quân số lính Mỹ ở VN lên tới trên nửa triệu người, cũng
như tổng cộng gần 200 tỷ đô la đã tiêu pha cho cuộc chiến tranh VN, với
khoảng 500 triệu cho tài khoá năm cuối, viện trợ không bằng hiện kim mà
viện trợ bằng thuốc lá dự trù cho tài khoá sau 1975 cũng bị cắt đứt.
Hải Quân lúc ấy có quân số trên 40 ngàn chiến sĩ… nhưng viện trợ nay
thực sự bị cắt ngang rồi!
“Hãy rời Sài Gòn ngay hôm nay đi – không thể là ngày mai!”. Phóng
viên AP, Nick Út, và Đệ của Hệ thống Truyền hình Hoa Kỳ ABC và ông Ba Lê
của Truyền Hình Nhật NHK cùng nói như vậy. “Đừng để quá muộn!”
Cũng vào gần buổi trưa, Trung Tướng Vĩnh Lộc rời Bộ TTM và Trung
Tướng Trần Văn Trung cũng đi vào Bến Bạch Đằng gặp Đại Tá Tấn tìm tầu ra
đi. Lúc này thì công trường Bạch Đằng cũng vẫn còn nhiều người chen
lấn. Trước đó một giờ Giáo Sư Lê Đình Chi, cùng với gia đình ông có Lê
Đình Cẩm, Nguyễn Hữu Phúc (Puyallup), Huyên… là những người thân cũ trên
một chiếc xe van đến kiếm chúng tôi tìm đường ra đi, nhưng tôi cũng
đang trong trạng thái vô cùng bối rối nên không thực hiện được lời hứa:
cùng đi với họ trên chuyến Tàu của Trung Úy Đỗ Anh Tuấn, nếu giờ phút
đau lòng tuyệt vọng xảy ra.
Lúc ấy Thiếu Tá Trần Thiện Hiệp trong một may mắn bất ngờ sau khi
chờ đợi được đi theo cựu Tư Lệnh Trần Văn Chơn, đã nhẩy xuống chiếc
chiến hạm nhỏ đậu gần HQCX, mang theo được hai vị tướng Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa vào giờ chót: Tướng Trung và Tướng Vĩnh Lộc lúc ấy là Tổng
Tham Mưu Trưởng Quân Lực theo lời yêu cầu của Đại Tá Tấn, giúp Tướng
Tổng Tham Mưu Trưởng Vĩnh Lộc rời Sài Gòn, đúng vào lúc tướng Nguyễn Hữu
Hạnh lên thay.
Tướng Lộc trước đó cũng đã từng kêu gọi giữ vững tay súng, Tướng
Lộc cũng miệt thị Đại Tướng Viên về hành động đào tẩu. Nhưng vào sáng
ngày 30 tháng Tư, ông Vĩnh Lộc đã nhờ Trung Uý Hùng lái xe Jeep “chở tới
Đài Phát Thanh Sài Gòn để gửi đi thêm một thông điệp mới”. Thay vì tới
đài phát thanh, ông đã đi đón ca sĩ Minh Hiếu và chia tay với Hùng ở Bộ
Tư Lệnh Hải Quân.
Vào sáng ngày này, hệ thống vô tuyến có rất nhiều lời gọi máy của
các tướng tá, sĩ quan Bộ Binh thiết tha kêu gọi: “Các anh Hải Quân ơi,
chờ chúng tôi đi với, hãy cứu lấy chúng tôi vì phi trường Tân Sơn Nhất
cũng đã tan nát rồi. Đâu còn ngã nào để tránh CS đâu? – VC đã vào tới.
HQ đừng đi vội kiên nhẫn chờ cứu chúng tôi.”
Nhưng bây giờ là trưa 30 tháng Tư – quá muộn thật rồi”… Các nẻo
đường đã rền tiếng xe tăng, và tiếng đạn pháo kích thi nhau rền vang rất
gần, và súng đã cùng với quân phục mũ nón vung vãi chất đống khắp nẻo
đường từ BTL/HQ về tới Phú Nhuận nơi tôi đang cư trú tạm.
Khác với Đại Tá Tấn ở lại và đi tù trên 16 năm, Đại Tá Phú cũng
xuất hiện như chớp nhoáng trong ngày 30-4, nhưng Đại Tá Phú cùng Trung
Úy Tuấn đã kịp xuống tầu rời Bến Bạch Đằng ra biển ngay vào giờ phút ông
Minh đọc lời đầu hàng trên radio.
Và giờ phút ấy đã xảy ra thật. Nhanh chóng như một chợp mắt. Từ đó
radio đã nhiều lần đọc lời kêu gọi buông súng và đầu hàng. Thôi thế là
hết tất cả, không theo tầu di tản về Miền Tây, không ra Phú Quốc, và
cũng không được theo tầu ra khơi đi tị nạn.
Tôi rời Công Trường Bạch Đằng có tượng đài Đức Thánh Trần,
cổng vào Bộ Tư Lệnh, tìm Tuấn, sau đó lái xe lách xe qua những tốp
người đang hôi của tại khách sạn và căn cứ Mỹ tại các cao ốc xung quanh
Bộ Tư Lệnh Hải Quân, để về nhà đón người thân yêu ra đi.
Tôi cùng với gia đình trở lại Bến Bạch Đằng và chạy tiếp tới Đặc
Khu Rừng Sát để tìm tàu rời Sài Gòn thì bến bờ đã hoang vắng… Vô phương
trong lúc tiếng pháo kích nổ vang.
Lòng cảm thấy như ông Dương Văn
Minh đã mở “Lỗ Lù” (*) của chiến hạm đời tôi… Lúc ấy tôi cảm thấy như đã
quá muộn, tôi như lặng lờ chết chìm, chìm dần… khoan thai xuống lòng
biển.
Như từ đáy biển sâu, tôi cầu mong cho vài chục chiến hạm và vài
chục ngàn quân nhân và dân chúng miền Nam đi thoát được, khai mở ra
những đợt thuyền nhân kế tiếp, Nếu họ không tập trung chiến đấu ở Miền
Tây được, thì cũng tiếp tục “Khai phá mở mang bờ cõi sơn hà theo bước
chân tiền nhân” bằng hình thức “mang Việt Nam ra khơi tới khắp năm châu,
tận cuối chân trời và trên toàn cõi địa cầu.
Chú thích:
(*) Lỗ Lù: danh từ kỹ thuật Hải Quân còn gọi là “Van Đắm Tàu”, nhằm
mở ngỏ cho nước vào khi muốn đánh chìm chiến hạm khi muốn thủy táng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét