Thường thì chính quyền hay tổ chức kỷ niệm những ngày lễ lớn một cách “hoành tráng” vào những năm tròn như 10, 20, 30 hoặc 40 năm. Năm nay, kỷ niệm ngày 30/4 không nằm vào chu kỳ đó nhưng đối với tôi (có thể là với một số những công dân bình thường khác), kỷ niệm 30/4 năm nay mang ý nghĩa đặc biệt của sự “Bất An”.
Lướt trên Facebook, cái cảm giác “bất an” lại càng rõ nét. Tại Sài Gòn, mới đây một anh Thượng sĩ Công an dùng đòn hiểm quật ngã một anh bán hàng rong tại quận 6 đến độ chấn thương sọ não. Đó chỉ là giọt nước mới nhất… nhỏ vào cái ly đang chực tràn. <!->
Trước đó có biết bao nhiêu trường hợp người dân chết trong đồn công an chỉ vì những nguyên do “lãng xẹt” như… rửa bát không sạch, hay bị “ăn đòn” chỉ vì… chạy xe làm tung bụi đường... Chỉ một năm nay thôi, không biết có đến biết bao nhiêu vụ người dân chết trong đồn!
“Bất an” đến độ ngồi trong nhà cũng phải cảnh giác, đề phòng kẻ lạ. Hắn có thể giật iPad, iPhone của bạn ngay trong nhà bạn. Một lúc nào đó, chiếc xe để trong nhà tưởng an toàn tuyệt đối bỗng… không cánh mà bay.
“Bất an” mỗi khi bước ra khỏi nhà. Biết đâu nạn nhân bị cướp xe, chặt tay… kế tiếp lại rơi đúng vào mình? Rõ ràng người bị cướp giật ngoài đường không còn là một trường hợp hiếm hoi chỉ xảy ra đối với du khách nước ngoài khi đến Việt Nam. Không những chỉ là chuyện giật dây chuyền, điện thoại vẫn xảy ra hàng ngày mà còn “cướp” đất đai và mạng sống có thể xảy ra bất cứ lúc nào trên khắp tỉnh thành của cả nước.
Chưa bao giờ chữ “cướp” lại được nhắc đến trên cửa miệng người dân nhiều đến vậy. Năm 1945, người ta cũng dùng chữ “cướp” nhưng hiện tượng này, dạo đó, được tô hồng, nâng lên một quan điểm để trở thành cụm từ được “thi-vị-hóa-chính-trị” là “Cướp Chính Quyền”!
Sự “bất an” ngoài những biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày còn một nguyên nhân sâu xa hơn là mối đe dọa từ anh bạn láng giềng phương Bắc. Người láng giềng “4 tốt, 16 chữ vàng” đang như một vết dầu loang từ ngoài Biển Đông vào đất liền. Ải Nam Quan đã mất, vấn đề Hoàng Sa & Trường Sa chỉ còn là thời gian. “Bất An” thật rồi!
Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Ngày nay, trẻ con khi cầm trong tay những món đồ chơi hay cả những thức ăn đưa vào mồm cũng cảm thấy mình bị đầu độc bởi những hàng hóa “Made in China”. Huống chi là người lớn!
Chỉ những người nắm quyền sinh sát vận mệnh dân tộc trong tay, dù thấy rõ nhưng vẫn làm ngơ. Họ vẫn bỏ ra hàng tỷ đồng để xây tượng đài trong khi trẻ em không có cơm ăn, áo mặc. Họ vẫn tiến hành trò chơi dân chủ nửa vời “Đảng cử, dân bầu”, vẫn ca tụng thể chế chính trị “Dân chủ đến thế là cùng!”.
Năm nay, chúng ta “kỷ niệm 41 năm” trong “bất an”. Đó là điều mọi người dân đa số đều cảm nhận được sự “bất an” từ chính trị-văn hóa-xã hội cho đến cuộc sống thiết thực hàng ngày quanh quẩn trong vòng “cơm, áo, gạo, tiền”.
***
Ngày 30/4/1975 tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đó là ngày đến trong hào quang chiến thắng sau một cuộc chiến được mệnh danh "Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào". Người dân miền Bắc “hồ hởi, phấn khởi” vì miền Nam được hoàn toàn “giải phóng”.
Ngày đó, Huy Đức, tác giả cuốn sách “Bên Thắng cuộc” [1], đang sống ở một vùng quê nghèo đói tại miền Bắc. Anh mở đầu tác phẩm với những dòng tâm sự:
“Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra.
Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “hai mươi năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối”.
“… hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi”.
***
Nhiều tuổi hơn Huy Đức, nhà văn Dương Thu Hương, thuộc thế hệ “xẻ Trường Sơn đi đánh Mỹ” từ năm 1968, đã có lần công khai bầy tỏ rằng ngày 30/4/1975 bà đã ngồi trên lề đường của Sài Gòn ôm mặt khóc vì khám phá ra rằng, “chế độ chiến thắng trong cuộc chiến, chẳng qua chỉ là một thể chế man rợ”.
Phóng viên Sam Korsmoe, người đã từng ở Việt Nam hơn 10 năm, sau khi về Hoa Kỳ năm 2006, anh viết cuốn “Saigon Stories” [2]. Sam phỏng vấn một gia đình từ miền Bắc vào Nam sau năm 1975 gồm 2 vợ chồng và 3 người con gái. Phan Xuân Giáp (bác sĩ thú y, sinh năm 1945) và vợ là Nguyễn Thị Vinh (giáo viên tại Vĩnh Phú), Cô giáo Vinh kể lại cảm tưởng vào sáng ngày 30/4/1975:
“Tôi đang dạy trong lớp thì có tiếng người báo: ‘Giải phóng rồi! Thống nhất rồi!’ thế là cả trường hò reo. Hồi đó người dân đa số chưa có đài, mọi người phải nghe tin qua loa phóng thanh gắn trên cây trong sân trường. Chúng tôi ai cũng hồ hởi. Cả nước hồ hởi. Miền Bắc hồ hởi. Mừng vì không còn chiến tranh, không còn chết chóc!”
Cũng như Huy Đức, cô giáo Vinh có những suy nghĩ của kẻ chiến thắng. Vợ chồng Giáp-Vinh di dân vào miền Nam rất sớm trong năm 1975. Khởi đầu là cô giáo Vinh, tình nguyện vào dạy học tại Sài Gòn vào tháng 12/1975 vì, theo chính quyền Hà Nội lúc đó, “miền Nam rất cần giáo viên”.
“Chúng tôi phải học chính trị trong suốt 2 tháng trước khi vào Nam. Chúng tôi được hướng dẫn cách dậy học khi vào trong đó, học cả tâm lý của học sinh Sài Gòn, học cách làm gương vì chúng tôi sẽ là những đại diện của miền Bắc tại vùng mới giải phóng…”
Và đây là cảm tưởng đầu tiên của cô khi bước chân vào Sài Gòn, tháng 12/1975:
“Sài Gòn đẹp quá. Khi xe vào đến cầu Sài Gòn thì trời đã nhá nhem tối nhưng hai bên đường đèn sáng rực. Cả đời tôi chưa bao giờ thấy nhiều đèn đến như vậy. Tôi thấy thích thành phố này…”
Còn rất nhiều suy nghĩ của người dân miền Bắc trong ngày 30/4/1975. Nói chung là rất lạc quan trước viễn ảnh một nước Việt Nam thống nhất. Nhưng có một cái gì đó nghẹn ngào khi “quân-cán-chính” chế độ cũ lần lượt đi cải tạo.
Người Sài Gòn ở lại sau những đợt đổi tiền, cải tạo công thương nghiệp được khuyến khích, có nơi thậm chí còn bị cưỡng bức, đi “kinh tế mới” để thực hiện chính sách “giãn dân”, nhường chỗ cho đợt “di dân” của cán bộ, đảng viên từ miền Bắc vào Nam.
“Sài Gòn đẹp lắn, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi…”
Nhìn từ một góc độ khác, một góc độ “trung lập” của những người thuộc “phe thứ ba” tại miền Nam. Họ là những người không “cộng sản” nhưng cũng không “cộng hòa” mà Sam Korsmoe mô tả là… “Những người ái quốc miền Nam”.
Đại diện cho những người này là Lý Quý Chung, Bộ trưởng Thông tin trong “nội-các-3-ngày” của Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Chung còn được biết đến như một nhà báo với bút hiệu Chánh Trinh.
Vào “giờ thứ 25” của cuộc chiến, ông tham gia nội các “hòa bình & hòa giải dân tộc” ngày 26/4/1975, nội các này chỉ có 4 người: Dương Văn Minh (Tổng thống), Nguyễn Văn Huyền (Phó tổng thống), Vũ Văn Mẫu (Thủ tướng) và Lý Quý Chung (Bộ trưởng Thông tin).
Theo lời ông Chung kể lại trong “Saigon Stories”, buổi lễ bàn giao chức vụ Tổng thống từ Trần Văn Hương sang Dương Văn Minh được diễn ra ngày 27/4 nhưng tướng Minh không trực tiếp điều hành ngay lập tức, ông dự tính sẽ bắt đầu vào ngày 30/4. Cũng theo giải thích của ông Chung, tướng Minh là người rất tin dị đoan và ngày 30/4 mới là “ngày tốt” đối với ông.
Gặp tướng Minh trong ngày 29/4, ông Chung đề nghị sẽ tuyên bố Sài Gòn là ‘thành phố bỏ ngỏ’ và tự nguyện chuyển giao quyền lực cho Mặt trận Giải phóng miền Nam. Tướng Minh đồng ý và liên lạc với Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền để soạn thảo bản thông báo. Khi đó đã vào buổi tối nên thông báo của chính phủ sẽ được công bố ngày hôm sau, 30/4. Ông Chung kể lại với Sam Korsmoe:
“Khoảng 11g ngày 30/4, một chiếc xe tăng xuất hiện trên đường Thống nhất, cách dinh Độc Lập khoảng 500m. Xe tăng nổ súng, theo tôi, họ bắn chỉ thiên để phô trương sức mạnh chứ không nhắm vào dinh Độc Lập. Mọi người hốt hoảng rút vào trong dinh. Đến khi bộ đội vào dinh, chúng tôi khoảng từ 30 đến 40 người giơ tay đầu hàng…
“Ba người chúng tôi [Minh, Mẫu, Chung] bước tới phía trước, họ ra lệnh: ‘Buông súng xuống! Giơ tay lên!’… Một thoáng suy nghĩ trong đầu óc tôi, ‘Mình tranh đấu cho hòa bình và kết quả như thế này sao? Kết cuộc không hợp lý chút nào!’… Một vài phóng viên, trong đó có Nguyễn Bá Thành, ôm chầm lấy tôi, họ reo vui ‘Chúng ta thắng rồi! Chúng ta thắng rồi!’…
“Saigon Stories”, Sam Korsmoe, 2006
Góc nhìn từ bên ngoài vào cuộc chiến tại Việt Nam cũng đa dạng. Tuy nhiên, có thể nói, thế giới báo chí quốc tế gồm 3 hướng đưa tin chính: (1) ủng hộ cuộc chiến hay còn gọi là “diều hâu”; (2) phản chiến hay “bồ câu” và (3) trung lập.
Theo tôi, một trong những bài viết về những ngày cuối cùng của Sài Gòn đầy đủ nhất và nhiều chi tiết thú vị nhất là của John Pilger [3]. Không giống như các phóng viên Mỹ, Pilger là người Úc thuộc nhóm phóng viên “quốc-tịch-thứ-ba” tham gia cuộc chiến Việt Nam đến ngày cuối cùng và viết bài cho báo Anh.
Pilger đã hai lần đạt được danh hiệu “Phóng viên của năm” (Journalist of the Year), giải thưởng hằng năm cao quý nhất của báo chí Anh. Với tựa đề “The Fall of Saigon 1975: An Eyewitness Report”, Pilger đã đưa người đọc trở về với những ngày định mệnh vào cuối tháng 4/75. Pilger viết:
“Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là “thủ đô tiêu dùng” nhưng chẳng hề sản xuất một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày…”
Pilger tả lại quang cảnh đường phố Sài Gòn:
“Lệnh giới nghiêm 24/24 giờ được áp dụng, nhưng vẫn có người trên đường phố trong đó có cả lính của Sư đoàn 18 thuộc vùng 4 chiến thuật. Tôi nghĩ họ nổi giận khi thấy người Mỹ sắp ra đi. Họ xuất hiện ở trung tâm thành phố để nhìn những người nước ngoài, hoặc đe doạ hoặc bắn chỉ thiên để giải toả nỗi tức giận.
“Công trường Lam Sơn trống trải, chỉ có vài người lính đi lại với vẻ chán chường. Một người trong số này đi nhanh về hướng đại lộ Tự Do, thét vào mặt tôi. Hình như anh ta say. Anh ta lấy súng lục, ngắm bắn, chọn mục tiêu và bóp cò. Viên đạn sượt qua đầu trong khi tôi chạy…”
Tình hình ngày càng rối ren, bất ổn… người Việt tìm đường rời khỏi đất nước khiến Đại sứ Mỹ Graham Martin phải xuất hiện trên truyền hình với lời cam kết long trọng: “Nước Mỹ sẽ không rút khỏi Việt Nam”. Ông tuyên bố:
"Tôi, Đại sứ Mỹ, sẽ không chạy trốn lúc nửa đêm. Bất kỳ ai cũng có thể tới nhà tôi và chứng kiến tôi chưa sắp xếp hành lý" (I, the American Ambassador, am not going to run away in the middle of the night. Any of you can come to my home and see for yourselves that I have not packed my bags).
Theo Pilger, Đại sứ Martin vẫn khẳng định với Washington rằng miền Nam có thể tồn tại với "vành đai thép" (iron ring) bao quanh Sài Gòn và những máy bay B-52 lúc nào cũng sẵn sàng yểm trợ. Tuy nhiên, trong thâm tâm ông Đại sứ luôn giữ trong lòng một vết thương khó phai khi mất đi người con trai tại vùng đất này 9 năm về trước.
Ông Martin có lý do để lạc quan: Ngoại trưởng Henry Kissinger cho biết Đại sứ Nga tại Washington, Anatoly Dobrynin, hứa sẽ chuyển thông điệp muốn đàm phán của VNCH tới Hà Nội. Mọi chuyện không lạc quan như ông Đại sứ Mỹ nghĩ.
10g43 ngày 29/4/1975: Lệnh tiến hành “Option Four” được đưa ra. Tuy nhiên, Đại sứ Martin vẫn tin rằng “còn thời gian” để đàm phán để có một “giải pháp danh dự”. Một đám đông chen lấn ở trước cửa sứ quán Mỹ, có người còn cố trèo tường để vào bên trong. Một số người có mặt ở đây chỉ vì tò mò; một số khác vừa ôm chặt cánh cổng sắt vừa nài nỉ thủy quân lục chiến Mỹ.
3g15 chiều 29/4/1975: Chiếc Cadillac chở Đại sứ Martin không thể rời cổng phụ sứ quán. Chiếc xe dừng lại và ông tuyên bố: “Một lần nữa, tôi sẽ đi bộ về nhà của mình, tôi sẽ đi bộ một cách thoải mái trong thành phố này. Tôi sẽ rời Việt Nam khi Tổng thống bảo tôi phải làm như vậy”.
2g30 sáng 30/4/1975: Kissinger gọi điện cho Martin và yêu cầu ông kết thúc kế hoạch di tản lúc 3g45 sáng. Nửa tiếng sau, Martin xuất hiện cùng một chiếc cặp da, một túi xách tài liệu và lá cờ Sao & Sọc của Hoa Kỳ. Ông im lặng đi lên tầng 6, nơi một chiếc trực thăng đang đợi.
Những người lính Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ cuối cùng rút lên sân thượng, họ bắn lựu đạn cay xuống cầu thang trong tâm trạng hoang mang của những người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam.
Ngày 2/5/1975 vị Đại sứ Hoa Kỳ 61 tuổi với vẻ mệt mỏi đã tuyên bố ngắn gọn với các phóng viên có mặt trên Đệ thất Hạm đội:
“Với tư cách một quốc gia, nếu chúng ta đã làm những gì mà tôi nghĩ là chúng ta đã nói thì chúng ta nên làm – nếu chúng ta giữ những cam kết đó - thì chúng ta đã không phải di tản”.
John Pilger, 1970
Nhà văn Việt kiều, Nguyễn Thanh Việt, hiện là một giáo sư tại University of Southern California, có thể nói là đại diện cho thế hệ thứ hai của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ vừa đoạt giải Pulitzer về tiểu thuyết năm 2016. Đó là tác phẩm “The Sympathizer”, nếu dịch cho đầy đủ ý nghĩa sẽ có cái tên “Kẻ Nằm Vùng” chứ không phải là “Cảm Tình Viên” như BBC tiếng Việt đã đưa tin.
Tiểu thuyết bắt đầu từ những ngày cuối tháng 4/1975. Người kể chuyện là một gián điệp được cộng sản cài vào trong ngành cảnh sát VNCH với vai trò trợ lý cho một ông tướng. Anh ta xưng “tôi” trong suốt chuyện kể về hoạt động của mình trong lúc giao thời và sau đó được lệnh di tản sang Hoa Kỳ để tiếp tục công tác.
Chi tiết này cũng giống như chuyện đời thực của Phạm Xuân Ẩn, “nằm vùng” trong lãnh vực báo chí tại miền Nam, cũng được “tổ chức” giao cho nhiệm vụ sang Mỹ và đã chuẩn bị cho gia đình đi trước. Cuối cùng, “điệp viên hoàn hảo” đó gặp nhiều “trục trặc” từ phía chính quyền mới chỉ vì anh đã bị “Mỹ hóa”… nên phải chấm dứt mọi hoạt động và gia đình phải trở về Việt Nam theo con đường lòng vòng.
Vì khuôn khổ của bài viết này, tôi không thể phân tích góc nhìn của thế hệ người Việt thứ hai tại hải ngoại. Tuy vậy, nhìn chung, GS Nguyễn Thanh Việt rời Việt Nam năm 1975 khi mới 5 tuổi.
Đó là điểm yếu của người viết về giai đoạn 30/4/1975, thiếu hẳn kinh nghiệm sống của những bậc cha chú đã từng trải qua trong thực tế. Dẫu biết rằng sự thiếu sót đó có thể bù đắp qua nghiên cứu sách vở, tài liệu nhưng, ông cha ta thường nói, “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”!
***
Trở về với hiện tại của năm 2016. Sau 41 năm, không ít thì nhiều, những người có liên quan đến biến cố 30/4/1975 sẽ có những cái nhìn khác nhau, tùy theo chính kiến, vùng miền. Nói rộng ra, tùy theo ý thức hệ chính trị, để có sự so sánh đối chếu giữa quá khứ và hiện tại.
Như đã viết ở phần mở đầu, riêng tôi, cái cảm giác “Bất An” ngày càng đè nặng trong lần kỷ niệm thứ 41 của “Tháng Tư Đen”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét