bài
Hồ Trường An
Trước năm 1968, những nữ sĩ miền Nam quá ít. Vào thời tiền chiến có bà
Tú Hoa, tác giả truyện dài Bóng Mơ đã đoạt giải của Tự Lực Văn Đoàn. Sau
đó bà Mộng tuyết cũng đoạt giải Tự Lực Văn Đoàn nhờ thi tập Phấn Hương Rừng.
Nhưng song song đó bà Mộng Tuyết vẫn viết tùy bút, tuy rằng đó là văn xuôi,
nhưng những tùy bút đó thấm nhuần chất thơ hơn, cho nên chúng ta cho đó là
những bài thơ du dương bằng văn xuôi được thêu hoa dệt gấm đúng hơn.
Sau hiệp định Geneva, trên dải đất miền Nam, bà Mộng Tuyết lại
viết một truyện dài dã sử Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp và lấy bút hiệu là
Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội. Truyện được viết bằng một văn phong kiều diễm và bay
bướm để thi vị hóa cuộc tình giữa Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ và bà ái cơ của ông
là Nguyễn Phù Cừ. Bà Tuyết Hoa viết thêm dăm ba truyện dài nữa, nhưng không thể
coi đó là một tác phẩm nghệ thuật mà là loại tiểu thuyết diễm tình đứng ngoài
nền văn chương nữ giới. Thế rồi bà Vân Trang tung ra tập truyện Một Lá Thư
Tình bát ngát phấn nội hương đồng. Bà Thu Vân tung ra quyển tùy bút Đất
Mẹ, sau đó them tùy bút thứ hai Màu Mưa Đêm, cả hai tác phẩm trải
rộng trong cõi thưởng ngoạn độc giả cây đồi cỏ lũng, đem lại cho văn chương nữ
giới một sắc thái kỳ đặc. Bà Vân Trang do tạp san Bách Khoa khám phá còn bà Thu
Vân do tạp chí Văn Hóa Ngày Nay khám phá.
Sự xuất hiện của Nguyễn Thị Thụy Vũ trên văn đàn nữ giới vào năm 1988 là
một biến cố gây rất nhiều chú ý cho những kẻ yêu văn chương. Chị gốc Nam Kỳ hợp
cùng Trùng Dương gốc Bắc Kỳ, cùng Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng gốc Huế
thành một hàng ngũ xung phong viết văn táo bạo mà thời nhân gọi là 5 con quỉ
cái của văn giới. Cả năm kéo theo nhiều nhà văn nữ nữa là Linh Trang, Trần Thị
NgH (Trần Thị Nguyệt Hồng), Thục Viên, Kiều Mỹ Duyên gốc Nam, Nguyễn Thị
Ngọc Minh, Quỳnh Như Ngọc gốc Trung, Lệ Hàng, Dung Sài Gòn, Lê Thị Bích Vân,
Nguyễn Thảo Uyên Ly, Ngô Thị Kim Cúc (về sau lấy bút hiệu Vô Ưu) đều là gốc
Bắc.
Vào thời đại nào, vào thập niên nào những nhà văn nhà thơ nam hay nữ gốc
Nam Kỳ ít quá so với các cây bút nam hay nữ gốc Bắc Kỳ hay Trung Kỳ. Nhưng khi
ra hải ngoại, ngành văn chương Việt Nam có khá đông các nhà văn nữ gốc Nam Kỳ
như Phan Thị Trọng Tuyến, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Trần Thị Kim Lan (chị kế của
Nguyễn Thị NgH), Phương Hoài Nam, Phượng Khánh, Song Thi, Trần Kim Vy, Tiểu
Thu, Việt Dương Nhân, Dư Thị Diễm Buồn…
Trong các quyển tiểu thuyết Chân Trời Hạnh Phúc. Trong Lâu Đài Kỷ
Niệm, Xa Bến Thiên Đường, Vén Màn Sương Ảo Mộng, nhà văn nữ Dư Thị Diễm
Buồn thường lấy bối cảnh quận Cái Bè (quê ngoại của chị), Tây Đô Cần Thơ (nơi
chị sinh ra và đeo đuổi việc học hành tại trường nữ trung học Đoàn Thị Điểm) và
Mỹ Tho (nơi chi làm nữ y tá cho bệnh viện Thủ Khoa Huân). Tôi có viếng Cần
Thơ vài lần, được dạo Bến Ninh Kiều, xem chiếu bóng tại rạp Tây Đô, và Huỳnh
Lạc. Cần Thơ nổi tiếng hến và ốc gạo không thua gì hến và ốc gạo ở cồn bãi trên
sông Cổ Chiên. Mỹ Tho là quê ngoại của ba tôi. Tôi đã sống ở đó nửa khoảng đời
thơ ấu luôn cả 2 năm học ở trường trung học Nguyễn Đình Chiểu để thi nốt bằng
tú tài toàn phần. Vào thời tiền chiến. Mỹ Tho nổi tiếng nuôi tằm dệt lụa ở làng
Đạo Ngạn; và từ bao giờ cho đến bây giờ vẫn nổi tiếng cá bống dừa Đạo Thạnh,
Long Nhãn Vĩnh Kim, bì gói và nem chua Cai Lậy, mận hồng đào Trung Lương, và
dưới thời Đệ nhất Công Hòa lại nổi tiếng hủ tíu Mỹ Tho. Đó là hủ tíu nấu bằng
lòng heo ăn với giá sống và cải tần ô (cải cúc). Lãnh thổ Định Tường (một tên
khác của tỉnh Mỹ Tho)là nơi sản sinh những ngôi sao sáng của ca kịch cải lương
như Năm Châu, Ba Du, Tám Mẹo (nam), Năm Phỉ, Phùng Há, Bảy Nam, Mười Truyền
(nữ) và nhà soạn giả thuộc đợt tiền phong Trần Hữu Trang. Tuy nhiên tôi
chưa hề biết tới Cái Bè dù nó là một quận lụy trù phú thuộc tỉnh Mỹ Tho. Tôi
chỉ biết địa danh ấy qua cam hồng mật Cái Bè. Đây là loại cam vỏ mỏng, khi chín
ửng vàng, chứ không có màu gạch tôm, gạch cua hay màu gạch ngói mới lộng lẫy
như cam tiểu bang California (Hoa Kỳ).
Cần Thơ, Mỹ Tho, Cái Bè không có thắng cảnh nổi tiếng, trừ chùa Vĩnh
Tràng ở Mỹ Tho. Chúng có những món trân cam, thổ sản, thủy sản ngon lành và
biết bao nhiêu kỷ niệm tươi đẹp của tuổi thanh xuân cho người yêu quê mến đất.
Dư Thị Diễm Buồn không cần mơ tới giang san cẩm tú nào khác ngoài nơi chôn nhau
cắt rún của mình. Nó thấm sâu vào trái tim nhạy cảm của cô nữ y tá sáng mát như
trăng và duyên dáng như loại chim khách báo tin vui mỗi khi chim hót những
tiếng ngắn ở trước cổng nhà. Đó cũng như tiết xuân sau thời tiết lập đông lạnh
lẽo, đem ánh nắng tươi hiền tới dải đất phì nhiêu Nam Kỳ, đem hơi gió chướng
mát rượi và khô ráo làm cho chất phù sa lắng xuống đáy nước để cho sông, rạch,
khe, ngòi cùng ao, bàu, lung, vũng, đìa, mương trong vắt như lộng gương. Nó đem
bướm đẹp về luống cải hoa vàng, đem những nụ hoa hoàng yến trên cành lạp mai,
đem những nụ đỏ tươi như những nốt ruồi son trên cành hoa gạo. Và thú vị quá,
ba tỉnh lỵ ấy đem biết bao cảm hứng phong phú, trơn ngọt và tươi mát của văn
chương Dư Thị Diễm Buồn.
Dư Thị Diễm Buồn và tôi quen nhau do nhà văn Nguyễn Văn Ba giới thiệu. Hình
như vào năm 1993 thì phải. Qua các cuộc điện đàm tôi nhận thấy tiếng cười chị
hào sảng, giọng nói tuy mịn màng như giát nhung nhưng cách phát âm không trau
chuốt nên hơi quê quê. Hình như các nhà văn nam hay nữ gốc Nam Kỳ đều có lối
phát âm lười lĩnh, uể oải và thờ ơ, không nhấn vuốt, không biết đánh lưỡi sửa
giọng. Coi nào. Chúng ta có thể kể sơ qua như sau: Sơn Nam, Kiệt Tấn, Nguyễn
Văn Ba, Trần long Hồ (nam), Nguyễn Thị Thụy Vũ, Phan Thị Trọng Tuyến, Tiểu Thu
(nữ). Tất cả những cây bút vừa kể đó đều có tài làm nồng mặn ý tình trong câu
chuyện mạn đàm một phần là nhờ có lối phát âm vụng về cẩu thả đó.
Tuy nhiên trong chương trình văn nghệ bỏ túi Chiều Tha Hương tại hội
trường Saint Jacques (Paris) vào hè năm 2000, Dư Thị Diễm Buồn lên diễn đàn để
đọc bài diễn văn do chị soạn trước. Dường như chị bị ám ảnh về tôi chê sự phát
âm hơi quê quê của chị nên chị gò gẫm giọng đọc. Giọng bị nhốt sâu trong cuống
họng lại bị nhấn vuốt quá trớn trở nên nhọn hoắc, dường như giọng của ai đâu,
chớ không phải của chị.
Qua các cuộc điện đàm, Dư Thị Diễm Buồn ưa bàn những món ăn phổ thông
miền Nam với tôi luôn. Chị hay suýt soa:
– Chèn ơi, món cá bống trứng kho tiêu ngon… chết giấc. Chu choa
ơi, món cá trê vàng cặp que tre tươi rồi nướng lửa than, đem dầm nước mắm gừng…
cũng ngon chết giấc luôn.
Cụm từ “ngon chết giấc” có duyên quá đỗi. Cho nên tôi bảo chị:
– Trong bữa ăn, nếu ai biện những món ăn khoái khấu ấy cho bà, bà
sẽ chết giấc mấy lần đây? Chết giấc chừng hai lần thì mệt quá, làm sao bà ăn
ngon bữa cơm? Làm sao bà ăn cho trọn bữa cơm, hả bà?
Trước khi tôi gặp Dư Thị Diễm Buồn vào tiết lập đông năm 1998, chị có
gởi cho tôi mấy tấm ảnh chị chụp ở thành phố Addison (thuộc tiểu bang
Illlinois). Người trong ảnh không có gì đặc biệt. Rồi sau nầy, tôi được gặp chị
tại quán Cây Me ở quận 13 Paris, tôi nhận thấy chị trắng trẻo, thon gọn và xinh
đẹp. Đi bên cạnh là phu quân của chị với nét mặt đều đặn, có vẻ mô phạm và trí
thức, mà chúng tôi tạm gọi là ông Vĩnh (nhân vật chính Trong Chân Trời Hạnh
Phúc) hoặc ông Dư Khải Minh (nhân vật chính T rong Lâu Đài Kỷ Niệm).
Tôi làm bộ lên giọng quở trách:
– Bà cứ giấu đấng trượng phu của bà hoài. Chồng như vầy thì đem
khoe chớ sao lại giấu? Mà giấu được với bạn bè không?
Diễm Buồn cười khè khè, giọng cười của bà Phùng Há trong tuồng Mạnh Lệ
Quân Thoát Hài.
– Ai mà giấu làm gì? Tại chưa có dịp khoe đó chớ. Nếu tui giấu ảnh
thì hôm nay sao ảnh đi bên cạnh tui?
Trong tấm ảnh chị đóng vai Cô Giang trong vở thoại kịch Ngày Tang Yên
Bái trong dịp lễ phát phần thưởng của trường, cặp môi chị hơi dầy tạo nét
gợi cảm, chân phác cho khuôn mặt. Nhưng trong tấm ảnh chị gởi từ Illinois, cặp
môi chị mỏng hơn làm cho nụ cười dưới lớp son hồng đào mặn mà hơn và cũng dí
dỏm hơn.
Hai lần gặp gỡ Dư Thị Diễm Buồn tại Paris, tôi nhân thấy chị có khuôn
mặt phúc hậu. Chị không thuộc loại cao sang thanh thoát vì ngôn ngữ chị bình
dị, giọng nói chị chân phương, tánh tình chị đôn hậu và chị không làm dáng hay
gọt dũa cử chỉ cho thật điệu đà. Chị không thuộc danh hoa trong hoa viên ngự
uyển. Chị là hoa ngoài khoáng dã, không có tên trong hoa phổ; chẳng hạn như hoa
ô môi tím trên bờ sông Tiền Giang chảy qua bắc Mỹ Thuận, hay hoa vông đỏ rực
vết son tươi ven các dòng kinh loáng nước trong veo vào cận Tết, hoặc hoa
phượng thắm chói màu tấm lụa đào trong sân trường, ven bến nước, trước cổng
đình.
Trong quyển truyện Trong Lâu Đài Kỷ Niệm có in tấm ảnh của chị
chụp chung tấm ảnh với chồng. Tôi nói đùa:
– Trong ảnh bà đứng cóm róm bên ông Vĩnh, giống như con chồn đứng
hai chân coi quê quá.
Diễm Buồn cà khịa liền:
– Hễ mở miệng ra là anh kiếm chuyện chê tui. Đó là tấm ảnh tụi tui
chụp vừa mới đính hôn. Hồi xưa khi chưa lấy chồng, tui ốm ròm, hai vai rút
ngắn, lưng hơi còng nên tôi đứng khóm róm như vậy. Bây giờ tôi đâu còn như vậy
nữa. Hồi xưa ở nhà gọi tôi là cô Tư Ròm. Lại nữa, tôi tiêu xài mực thước mà
cũng bị mang tiếng là cô Tư Kẹo. Bởi lẽ, hồi còn đi học, tui đâu có nhiều tiền
thì hào phóng sao được?
Đúng vậy, Bây giờ hai cái hổn danh Tư Ròm, Tư Kẹo cho cô nữ sinh ốm yếu,
èo uột chỉ có tiền đủ ăn quà thuở nào hiện nay không còn đúng nghĩa nữa. Bây
giờ cô trở thành nữ sĩ Diễm Buồn có vóc dáng đầy đặn nuột nà, hào phóng rất
mực. Nữ sĩ du lịch khá nhiều ở các tiểu bang trên đất Hoa Kỳ, qua thăm viếng
Paris xứ Pháp, Bỉ, Đức, Hòa Lan, Anh, Qua Úc Châu, qua lục địa Trung Hoa. Nữ sĩ
bây giờ còn xuất tiền túi, quyên góp tiền bạn bè để giúp đỡ Lệ Khánh, Thụy Vũ,
Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long khi họ đang sống chật vật sau bức màn tre.
Bạn bè chung của chị và và tôi thường bảo tôi rằng:
– Mụ ấy vui như trẻ con gặp Tết, được mặc áo mới, được tiền lì xì
trong phong bao đỏ . Mụ ấy lấy cái bút hiệu Diễm Buồn không đúng điệu đâu. Tụi
mình phải gọi mụ ấy là Dư Thị Diễm Vui hoặc Dư Thị Diễm Tết mới là phải chứ.
Dư Thị Diễm Buồn thích mặc áo dài hở cổ (kiểu do bà Ngô Đình Nhu sáng
chế ra). Kỳ qua Paris ra mắt thi tập Một Thoáng Hương Xưa (1998) tại
quán Cây Me (Paris 13 ème), chị mặc áo bằng mousseline đen in lác đác hoa màu
hoàng yến. Hai năm sau, vào năm 1990, chị qua Paris chấm giải thi hoa hậu áo
dài cho sinh viên Âu Châu và ra mắt thi tập Những Ngày Xưa Thân Ái, vẫn
mặc chiếc áo dài hở cổ, nền lụa đen nổi bật đóa hoa thục quỳ màu hoàng cúc đậm
hơn ở ngực bên phải, nhưng lá lại có màu đen viền trắng mọc ở nhánh hoa và điểm
rải rác ở ngực bên trái.
Mới đây chị gởi them 3 tấm ảnh nữa. Trong một tấm ảnh chị xõa tóc thề
đứng bên dòng nước in sắc màu trứng sáo, viền lớp cây hoang dại nhuộm ánh tà
dương màu vàng tái ở xa, và mọc tua tủa những lùm cỏ, cây ngô đồng màu thúy lục
đậm hơn màu rêu xanh ở gần. Người trong ảnh áo rằn ri nhiều màu, nhưng lại là
màu nguội và sắc đạm gồm có: tím đậm như màu nếp than, vàng tái như màu hoa kim
liên, tím pha xám như màu hoa soan đào, hồng đơn tức là màu hường pha xám bạc.
Các bông hoa trên áo (les motifs) dù có chen lấn nhau nhưng tổng thể áo màu sắc
không lòe loẹt chói chang. Mới nhứt là có lẽ 2 tấm ảnh chị chụp vào Tết Nguyên
Đán năm Ất Dậu: một tấm trong căn bếp bóng loáng vì được lau chùi kỹ lưỡng, một
tấm tại phòng khách có bộ xa-long bọc nệm da màu xám đậm gần đen giống như đá
huyền vũ (ardoise) có tủ kính đựng bát dĩa bằng sứ quý giá, có chậu sứ vẽ hoa
gấm choáng lộn sắc đen, màu xanh, màu đỏ chen lộn nét hoàng kim lấp lánh. Cây
kiểng trồng trong chậu có nhánh lá như đuôi chim linh phụng, nhưng mềm mại
thướt tha. Trong ảnh, chị Dư Thị Diễm Buồn mặc áo màu hồ thủy tức màu xanh như
nước bồn tắm lót gạch tráng men lam, bên ngực phải có vẽ đóa hoa màu gấm đại
hồng như hoa dâm bụp. Khắp thân áo in lác đác chấm đỏ, chấm trắng và còn điểm
thêm những viền trăng cong mềm màu trắng, những nét đuôi én chẻ đôi sắc sảo
cũng màu trắng. Những tấm ảnh của một người đàn bà cằm bút ở tuổi mùa thu cuộc
đời gợi cho bút giả liên tưởng những tác phẩm truyện dài cũng như tác phẩm thi
ca cùng đường lối viết lách của đương sự. Văn chương của chị đa dạng về mặt tình
cảm. Nó không như hoa cúc nở trong sương, hớn hở khoe sắc tơ vàng và cười ngạo
với mầm hủy diệt len lỏi trong thời tiết. Nó cũng không hắt hiu như ngọn heo
may thổi trong bóng tối lác đác mưa dầm. Nó có vui có buồn, phô diễn trọn vẹn
tấm lòng bén nhạy với cảm hứng của tác giả. Nó đưa độc giả trở về một thuở
thanh bình trên đất nước của chúng ta cùng thuở nhiễu nhương trong cuộc nội
chiến. Chúng ta có thể theo chân Dư Thị Diễm Buồn để tìm lại những dấu vết
thăng trầm trên mệnh nước nổi trôi.
Tâm sự với nữ
sĩ DƯ THỊ DIỄM BUỒN.
(Thực hiện
phỏng vấn: HỒ TRƯỜNG AN).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét