Ngày 19 tháng 6 là Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà [QLVNCH]. Đó là ngày ghi nhớ ơn nghĩa của những nam nữ quân nhân Việt Nam Cộng Hoà đã vì nước hy sinh, vì dân chiến đấu khi còn ở nước nhà. Và những người ấy bây giờ đã lớn tuổi mà không nghỉ ngơi, vẫn tiếp tục chiến đấu bằng tay không với ý chí kiên cường, tinh thần bất khuất trong một cuộc “chiến tranh khác” – là cuộc chiến tranh chánh trị, đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN ở hải ngoại để hỗ trợ cho đồng bào người Việt Quốc gia trong nước. Chớ ở hải ngoại tại các nước định cư ở Tây Âu, Bắc Mỹ và Úc châu, tự do, bình đẳng, dân chủ, nhân quyền đã có thừa người Việt không cần đấu tranh cho mình nữa.

Một, người chiến sĩ VNCH trong chiến tranh Quốc Cộng ở nước nhà VN. Trong cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược của CS Bắc Việt, QLVNCH là những người Việt Bắc, Trung, Nam, Thượng đem những ngày hoa mộng của đời mình để chiến đấu cho tự do, dân chủ của đồng bào trước làn sóng xâm lược của CS. Chiến đấu hào hùng, bẻ gãy mọi cuộc tấn công của CS. Dù mới thành lập nhưng kiên cường chiến đấu suốt hai thời đệ nhứt và đệ nhị VNCH, trở thành một quân lực hùng cường nhứt ở Đông Nam Á. Không một xóm, một làng, một quận nào của Miền Nam từ Bến Hải đến mũi Cà mau, CS tấn công mà CS chiếm giữ được.
Có trên 300,000 quân nhân VNCH đã hy sinh cho Tổ Quốc. Nếu so với dân số Mỹ và số 2 triệu thương vong Mỹ trong cuộc Chiến Tranh Nam Bắc của Mỹ, tỷ lệ tổn thất của QLVNCH cao gấp đôi của Mỹ. Nếu không thực sự dũng cảm chiến đấu, thì không thể tổn thất lớn lao như vậy.

Một, người chiến sĩ VNCH trong chiến tranh Quốc Cộng ở nước nhà VN. Trong cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược của CS Bắc Việt, QLVNCH là những người Việt Bắc, Trung, Nam, Thượng đem những ngày hoa mộng của đời mình để chiến đấu cho tự do, dân chủ của đồng bào trước làn sóng xâm lược của CS. Chiến đấu hào hùng, bẻ gãy mọi cuộc tấn công của CS. Dù mới thành lập nhưng kiên cường chiến đấu suốt hai thời đệ nhứt và đệ nhị VNCH, trở thành một quân lực hùng cường nhứt ở Đông Nam Á. Không một xóm, một làng, một quận nào của Miền Nam từ Bến Hải đến mũi Cà mau, CS tấn công mà CS chiếm giữ được.
Có trên 300,000 quân nhân VNCH đã hy sinh cho Tổ Quốc. Nếu so với dân số Mỹ và số 2 triệu thương vong Mỹ trong cuộc Chiến Tranh Nam Bắc của Mỹ, tỷ lệ tổn thất của QLVNCH cao gấp đôi của Mỹ. Nếu không thực sự dũng cảm chiến đấu, thì không thể tổn thất lớn lao như vậy.

Với độ lùi thời gian quá đủ, với tài liệu về Chiến tranh VN Mỹ giải mật gần hết, những nhà nghiên cứu và lịch sử đã trả lại chân lý cho QLVNCH một thời bị Phản Chiến Mỹ gieo tiếng oán một cách oan sai trên truyền thông và công luận Mỹ. Rõ rệt như trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân của Cộng sản Bắc Việt, quân nhân VNCH đã chống trả một cách quyết liệt và hữu hiệu. Không một đơn vị nào bị tan rã, không một thành phố nào CS chiếm giữ được.
Trái lại quân của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị nướng gần hết. Các sư đoàn xâm nhập của CS Bắc Việt bị phản công điên đảo phải rút qua biên giới Miên, Lào “dưỡng quân”, tạo một thời kỳ hậu Mậu Thân rất yên ổn cho VNCH.
Lúc bấy giờ tinh thần quân dân như cá với nước lên cao làm thanh niên VN tình nguyện vào QLVNCH quá đông khiến QLVNCH ngưng tuyển mộ và cho quân nhân gốc giáo chức biệt phái về trường tiếp tục dạy học.
Trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, CS Bắc Việt pháo kích như mưa, dùng chiến xa tấn công liên tục. QLVNCH đã anh dũng tử thủ chiến trường An Lộc. Một tiểu đội hạ được hai xe thiết giáp của CS Bắc Việt. Để rồi đánh đuổi bộ đội CS Bắc Việt bao vây, làm ngạc nhiên Mỹ và thế giới.
Trong trận Khe Sanh, báo chí phản chiến của Mỹ ở Saigon, ăn ngủ trong phòng lạnh chê QLVNCH. Trái lại người quân nhân Mỹ ở chiến truờng rất kính phục. Trên Báo Armed Forces Journal của Mỹ số 19 tháng 4 năm 1972, Đại tá Robert Monelli, một sĩ quan Hoa Kỳ có mặt trong mặt trận đó đã kể lại "Một tiểu đoàn VNCH với 420 binh sĩ bị bao vây liên tiếp trong ba ngày bởi một trung đoàn Cộng Sản độ 2.500 đến 3.000 tên. Quân đội Hoa Kỳ không thể tiếp tế cho họ được. Họ phải chiến đấu cho tới khi gần hết đạn, rồi mở đường máu bằng khí giới tịch thu của địch. Họ đã mang theo tất cả binh sĩ bị thương và cả một số xác chết. Không ảnh thám sát chụp được rõ ràng có 637 xác địch rải rác chung quanh căn cứ. Về phía quân đội VNCH, tiểu đoàn trên chỉ còn lại có 253 binh sĩ sau khi đến được vòng đai bạn.”
Trong thời kỳ Mỹ việt nam hoá chiến tranh và thi hành Hiệp Định Paris năm 1973, các cuộc nghiên cứu sau này của những chiến lược gia Mỹ, đặc biệt là ở ở Đại Học Texas cho biết nếu Quân lực Mỹ bị cúp quân viện như QLVNCH, thì Quân Lực Mỹ chỉ có thể chịu đựng ba tháng mà thôi, chớ không phải ba năm như QLVNCH.
Và trận chiến sau cùng khi VNCH bị Mỹ bức tử. Mỹ cúp viện trợ chánh quyền VNCH, cúp quân viện QLVNCH, kể cả đạn dược và xăng dầu thiết yếu. Thế nhưng một sư đoàn của QLVNCH đã anh dũng cầm cự chiến đấu với bốn sư đoàn quân Bắc Việt trong suốt hai tuần lễ tại Xuân Lộc.
Hai, người chiến sĩ VNCH trong chiến tranh chánh trị ở hải ngoại. Ngày Quân Lực là ngày thán phục những quân nhân VNCH sau nhiều năm tù cải tạo còn da bọc xương, đi tỵ nạn chánh trị ở các nước, nhưng không ai coi mình đã giải ngũ. Tướng Mac Athur tài danh của Mỹ nói, người lính già không chết mà chỉ mờ khuất trong lịch sử thôi. Những người lính gìa của QLVNCH cùng toàn quân dân, cán, chính vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu. Chuyển sang hình thái chiến tranh mới, chiến tranh chánh trị, đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN. Có tự do, dân chủ nhân quyền là không có CS độc tài đảng trị toàn diện.

Ngày Quân Lực là ngày quân dân cán chính VNCH tự hào mình đã tiếp tay khai nguyên, xây dựng được một Việt Nam Hải Ngoại đối kháng với chế độ CS ở nước nhà VN, như quân nhân và kháng chiến quân Pháp và những người Pháp yêu nước cùng Tướng De Gaulle kết họp lại thành France d Outre mer, làm đầu cầu cùng đồng minh đánh đuổi quân Đức Quốc xã ở nước nhà Pháp và ở Âu châu. Không sống được ở VN với CS, quân dân cán chính VNCH và hậu duệ đem VN theo mình. Tương kế tự kế vận động giương cao ngọn cờ VN nền vàng ba sọc đỏ tại các nước định cư ở Tây Âu, Bắc Mỹ và Úc châu dù VNCH bây giờ không còn pháp nhân công pháp đối với Liên Hiệp Quốc.
40 năm sau, chỉ một thế hệ xã hội học thôi, non nửa đời người thôi, bất cứ nơi nào có cộng đồng người Việt là có các tổ chức chánh trị, hội đoàn, văn hóa, xã hội ngoại vi, thân hào nhân sĩ vừa là đối tượng vừa là chủ thể của một Việt Nam Hải Ngoại.
Trong những người Việt còn gắn bó với vận mạng nước non nhà, phần lớn có anh chị em QLVNCH. Bỏ công bỏ của riêng, “ăn cơm nhà ra vác ngà voi hàng tổng” để phục vụ cộng đồng. Bất cứ nơi nào có biểu tình chống Cộng là có mặt anh chị em quân nhân VNCH đảm trách vai trò xương sống và an ninh nổi chìm cho cuộc đấu tranh. Khen thì ít, chê lại nhiều, nhưng tinh thần cộng đồng trong tim óc vẫn mạnh hơn những lời ra tiếng vào vốn phải có trong sinh hoạt tập thể ở các nươc tự do.
Ba, Ngày Quân Lực VNCH là ngày nhớ ơn những người mẹ, ngưởi vợ, người chị, người em gái, ngươi con của quân nhân QLVNCH đã buôn gánh bán bưng, lo tần lo tảo, chắc mót để dành đi “thăm nuôi chồng con em” là quân nhân QLVNCH bị đi tù cải tạo.
Ngày Quân Lực là ngày lớp trẻ của các gia đình quân dân cán chính VNCH dành cơ hội tự vấn lương tâm, nhận thức và khẳng định mình từ đâu, nhờ ai mà đến được những vùng đất hứa này để tiến thân ngàn lần hơn những người đồng trang lứa còn kẹt trong nước. Để từ đó tiếp nồi truyền thống hào hùng và tinh thần bất khuất của những cha anh là chiến sĩ VNCH đi trước. Đó là những người nay dù già rồi vẫn tiếp tục con đường đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN mà hơn 90 triệu đồng bào trong nước rất hy vọng và tin tưởng/. (Vi Anh)
Nhân Ngày Quân Lực VNCH 19-6
Trương Sĩ Lương


Giở chồng sách cũ, tìm lại hình ảnh ngày xưa, những người lính trẻ của QLVNCH một thời đã phải xếp bút nghiên lên đường theo tiếng gọi non sông. Họ có hận thù ai không? Chắc chắn là không! Nhưng bổn phận của họ là “ăn cây nào phải rào cây ấy”, thế thôi. Giặc đến nhà, làm trai không thể ngồi yên để chờ trói. Giặc đến nhà không thể ngồi đó để ăn chơi hưởng thụ. Thế rồi giặc cộng đã đến theo lệnh quan thầy Mác-Lê và người chiến sĩ QLVNCH đã chiến đấu đến hơi thở sau cùng, mặc dù đã bị những bàn tay lông lá quốc tế bán đứng vì quyền lợi của họ.
Càng ngày những tài liệu sự thật về cuộc chiến quốc-cộng đã được giải mã, danh dự của người lính VNCH đã và đang được phục hồi. Những hy sinh anh dũng, cao cả của người lính sẽ được ghi vào binh sử mai hậu.
Cho đến giờ phút này, người chiến sĩ của Quân Lực VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu trên nhiều chiến trận, vì cuộc chiến ấy vẫn chưa kết thúc, dù họ đã luống tuổi đời. Chỉ có những kẻ hèn nhát mới quay đầu, làm tay sai cho địch. Chỉ có những người hám danh, hám lợi mới luồn cúi theo chân bọn đồ tể lòng lang dạ thú, hại nhà hại nước; chỉ có những kẻ làm chính trị theo thuyết “duy lợi”, háo danh, suy luận nông cạn mới lọt vào bẫy sập của những tay phản thùng. Thời nào cũng có hạng người như thế! Thời nào cũng có những anh hùng và thời mà không có những tay Việt gian bán đứng anh em, bà con, bạn bè.
Vâng, nhân sinh mỗi người mỗi tính. Có người khi thấy đồng loại máu đổ thịt rơi là họ đau đớn như chính bản thân họ lâm nạn; nhưng có người thì dửng dưng bỏ đi không một chút bận tâm; có người khi thấy quê hương ngụp lặn trong đau khổ vì đại nạn cộng sản, họ đã quên đi đời sống riêng tư của mình để dấn thân vào đại cuộc, góp máu, góp xương cho tự do quê nhà; có người xem nhẹ vật chất, vì vật chất không thu hút được họ trước đại nghĩa, trước sự sinh tồn của quốc gia dân tộc; nhưng có rất nhiều người vật chất đã làm cho họ mờ lý trí, chấp nhận để đồng tiền sai khiến, phản lại anh em, phản lại đồng đội, nhận làm tay sai cho kẻ thù mà từ xưa tới nay vẫn không thiếu những loại người như họ.
Có thể theo thời gian và vì hoàn cảnh sống, họ không còn hăng say đấu tranh như buổi ban đầu trốn chạy cộng sản; có thể vì trăm thứ lý do khác để họ không còn ở trong hàng ngũ của người tỵ nạn cộng sản.
Thậm chí vì tư lợi, vì bản chất của họ đổi thay như trời đất đổi mùa, nên họ có thể giao du, mua bán làm ăn với những kẻ một thời hành hạ xác thân họ, gia đình họ, bạn bè họ… Họ có thể làm bất cứ chuyện gì họ thích trên xứ tự do này: ăn chơi, dùng đồng tiền phi nghĩa ấy cho bản thân họ, cho gia đình họ; thâm chí ngay cả việc quay về nơi họ xuất phát để hưởng thụ trên nỗi đau triền miên của đất Mẹ cũng chẳng ai màng tới, miễn là họ âm thầm rời khỏi hàng ngũ của những người Việt tỵ nạn cộng sản là được. Thà như vậy còn rõ ràng hơn là họ ở đây, nhởn nhơ, trà trộn, quấy phá trong tập thể của những người không cùng chiến tuyến, không cùng lý tưởng. Thà như vậy còn hơn là họ đội lốt dưới nhiều danh nghĩa khác nhau để đâm bị thóc, thọc bị gạo, xé lẻ hàng ngũ của chúng ta với mục tiêu duy nhất: tuyên truyền, làm tay sai cho cộng sản, phá nát cộng đồng ở khắp nơi.
Những tên du kích tuyên vận ấy đang mở cuộc tổng tấn công vào tập thể người Việt khắp hải ngoại, theo lệnh của quan thầy Bắc Bộ. Họ tấn công chúng ta bằng phương tiện nào? Súng AK, Súng cối, Hỏa tiễn 122 ly, Xe tăng, Đại pháo… Thưa không, họ đang tấn công chúng ta bằng mặt trận tuyên vận, sử dụng văn nghệ, văn hóa, báo chí, truyền thông để vô hiệu hóa công cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa của chúng ta. Mục tiêu của họ là gây hoang mang, tạo chia rẽ bằng những lý luận ru ngủ tập thể người Việt ly hương vốn có quá nhiều cảm tính. Họ chính là những người đang sống chung quanh ta, nhởn nhơ trước mắt, lăng xăng vào những công tác của tập thể người Việt, khi úp, khi mở mà chúng ta đã thấy, đã nghe, đã biết.
Những tên du kích tuyên vận ấy đang mở cuộc tổng tấn công vào tập thể người Việt khắp hải ngoại, theo lệnh của quan thầy Bắc Bộ. Họ tấn công chúng ta bằng phương tiện nào? Súng AK, Súng cối, Hỏa tiễn 122 ly, Xe tăng, Đại pháo… Thưa không, họ đang tấn công chúng ta bằng mặt trận tuyên vận, sử dụng văn nghệ, văn hóa, báo chí, truyền thông để vô hiệu hóa công cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa của chúng ta. Mục tiêu của họ là gây hoang mang, tạo chia rẽ bằng những lý luận ru ngủ tập thể người Việt ly hương vốn có quá nhiều cảm tính. Họ chính là những người đang sống chung quanh ta, nhởn nhơ trước mắt, lăng xăng vào những công tác của tập thể người Việt, khi úp, khi mở mà chúng ta đã thấy, đã nghe, đã biết.
Vậy đối sách của chúng ta là phải làm gì? Làm thế nào để nhận diện, đối đầu với chiến dịch tuyên vận cộng sản rất xảo quyệt, tinh vi. Khó lắm! Nhưng không vì thế mà chúng ta không biết nhận diện, phân loại. Một số đã lộ diện ở khắp nơi mà chúng ta đã biết. Trước nhất là không giao du, không liên lạc, không cần những phương tiện của họ. Bởi họ đã ra mặt. Cây kim trong lai áo lâu ngày phải lòi ra. Vì vậy không tiếp xúc, nhất định không tiếp xúc là xong. Họ dùng chiêu rỉ tai, viết lách lăng nhăng trên diễn đàn ảo để phá hoại? Chúng ta vô hiệu hóa, bằng cách đứng nghe, đứng đọc. Nơi nào họ có mặt, ta không đến, nơi nào ta có mặt mời họ ra… thế là tuyệt chiêu.
Nhân ngày Kỷ Niệm QLVNCH 19-6, ngày tưởng niệm những chiến sĩ đã bỏ mình cho quê hương dân tộc, ngày vinh danh các chiến sĩ một thời cầm súng chiến đấu cho sự tự do của 18 triệu dân miền Nam, chúng ta không ai không có thân bằng quyến thuộc trong hàng ngũ của những người chiến sĩ ấy. Xin hãy thắp nén tâm hương gửi đến hồn thiêng của những người trai trẻ đã nằm xuống cho chúng ta được sống và được hít thở tự do như ngày hôm nay. Đồng thời xin tri ân những chiến sĩ đang sống và xin hãy thêm sức, thêm tinh thần cho họ bền vững, một lòng với đại cuộc giành lại quê hương.
Đã đến lúc những người cầm súng, một thời hy sinh cho chính nghĩa quốc gia, hãnh diện vì màu cờ sắc áo không thể để cho thành phần đâm sau lưng chiến sĩ tiếp tục chui rúc, quấy phá trong hàng ngũ của chúng ta; đồng thời đề cao cảnh giác trước âm mưu chia rẽ để trị của CSVN.
Đã đến lúc chúng ta phải đứng dậy, đứng thẳng, vạch mặt, chỉ tên thành phần trở cờ, phá hoại, buôn xương bán máu trước công luận. Chúng ta không bao giờ sợ cộng sản, sợ tay sai cộng sản, vì nơi này là hậu cứ an toàn nhất của chúng ta. Cán bộ việt gian cộng sản chui rúc, lén lút phải sợ chúng ta chứ ta nào sợ chúng.
Đã đến lúc người chiến sĩ QLVNCH phải vun lại niềm tin vì các anh đã đổ máu xương cho cuộc chiến Quốc Cộng đầy chính nghĩa, chính danh. Chúng ta vẫn tiếp tục chiến đấu bằng cách yểm trợ cho phong trào tuổi trẻ yêu nước đang vùng dậy ở quốc nội; đồng thời khuyến khích thế hệ trẻ của chúng ta ở hải ngoại nỗ lực tiếp tay cho quốc nội trước trận chiến sau cùng này. Chế độ công an trị của CSVN đang đứng trước bờ vực thẳm trong trận chiến mất còn ở Biển Đông, sớm muộn cũng sẽ sụp đổ. Chắc chắn hoa tự do sẽ rộ nở trên quê hương Việt Nam một ngày tất đến.
Trương Sĩ Lương
Giá trị của VNCH
Trần Trung Đạo

- ...Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc. Sau 40 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong rặng núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu ai cho tôi khoác lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến...
Trong suốt 60 năm từ 1954, bộ máy tuyên truyền của đảng đã không ngừng vẽ trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng khác gì một con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. Suốt 60 năm qua, VNCH là hiện thân của thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà thơ đều được dạy để biết VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas 8 năm trước người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Chẳng những có mà còn vô cùng trầm trọng.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có, không chỉ đàn áp một lần mà nhiều lần, không chỉ một năm mà nhiều năm.
Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không? Có, không chỉ 300 triệu dollars “viện trợ đặc biệt” như nhiều người hay nhắc mà nhiều tỉ đô la.
Vâng, tất cả điều đó đều có. Chế độ cộng hòa tại miền Nam Việt Nam ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên tắc dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi đó đã đâm vào thân thể của chế độ cộng hòa hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi. Miền Nam có tất cả sắc thái của một xã hội dân chủ đang từng bước đi lên. Dân chủ không phải là lô độc đắc giúp một người trở nên giàu sang trong một sớm một chiều mà là quá trình tích lũy vốn liếng từ những chắt chiu của mẹ, tần tảo của cha, thăng trầm và thử thách của cả dân tộc.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nam Hàn cũng phải bước qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay. VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và vì dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó, quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ rệt: ”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội”.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam. Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay chết theo một chính quyền. Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc. Sau 40 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong rặng núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu ai cho tôi khoác lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến. Công nhận các giá trị được đề ra trong hiến pháp VNCH không có nghĩa là đầu hàng, chiêu hồi. Không. Không ai có quyền chiêu hồi ai hay kêu gọi ai đầu hàng. Đây là cuộc chiến mới, cuộc chiến giữa dân tộc và phản dân tộc, giữa cộng hòa và cộng sản, giữa tự do và độc tài, giữa nhân bản và toàn trị. Mỗi người Việt sẽ chọn một chỗ đứng cho chính mình phù hợp với quyền lợi bản thân, gia đình, con cháu và sự sống còn của dân tộc.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Hạt giống dân chủ khơi mầm tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi 1954 mà đã có từ hàng trăm năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường, tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng cho chế độ cộng hòa sau này. Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều người. Đó không phải là tài sản của riêng miền Nam mà của tất cả những người Việt cùng ôm ấp một ước mơ dân chủ. Những ai biết gạt bỏ định kiến Bắc Nam, tháo gỡ lớp màn “căm thù Mỹ Ngụy” ra khỏi nhận thức, sẽ thấy đó chính là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Không cần phải tìm giải pháp từ Miến Điện, Nam Phi, Ai Cập, Libya hay tìm chân lý ở Anh, ở Mỹ mà ngay ở đây, giữa lòng đất nước Việt Nam.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phủ nhận công lao của những người đã hy sinh trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Như kẻ viết bài này đã nhấn mạnh nhiều lần, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Đó là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng rất anh hùng của một dân tộc bị nô lệ đã đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Việc tham gia vào đảng phái, kể cả việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập nhưng đối với đảng CS chiếc phao lại chính là dân tộc.
Nhiều người yêu nước chọn tham gia vào đảng CS nhưng bản thân đảng CS như một tổ chức chính trị dựa trên ý thức hệ CS chưa bao giờ là một đảng yêu nước. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Dù sao, người yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, tổ quốc sẽ ghi công họ một cách công bằng.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là tái thực thi hiệp định Paris. Dân tộc Việt Nam là một thực thể thống nhất và tất cả các hòa ước Patenôtre, hiệp định Geneva hay hiệp định Paris đều là những chiếc còng của thực dân và đế quốc áp đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam yếu kém và phân hóa. Trước 1975, trong đáy lòng của bất cứ một người Việt yêu nước nào cũng mong một ngày dân tộc Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau sẽ được đoàn viên trong tự do, dân chủ và thịnh vượng. Tuy nhiên, ngoài trừ lãnh đạo CSVN chủ trương CS hóa toàn cõi Việt Nam bằng súng đạn của Nga, Tàu, không ai muốn đoàn viên phải trả bằng giá của nhiều triệu sinh mạng người dân vô tội, đốt cháy một phần đất nước, để lại một gia tài nghèo nàn lạc hậu cho con cháu. Hôm nay, dù không tự mình chọn lựa, dân tộc Việt Nam cũng đã là một và không có một thế lực nào làm Việt Nam phân ly lần nữa.
Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm, có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật. Khoảng thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam vẫn tồn tại và lớn lên. Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia trên thế giới trong đó người dân gọi nhau bằng hai tiếng đồng bào thân thương và trìu mến. Đối mặt với một kẻ thù đông hơn nhiều và mạnh hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay. Đảng CS có 3 triệu đảng viên nhưng đa số trong số 3 triệu người này trong thực tế cũng chỉ là nạn nhân của một tập đoàn lãnh đạo đảng tham quyền và bán nước. Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống giáo dục một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng vào thực tế đất nước sau 39 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở châu Phi như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên. Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng họ không có và cũng không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm người lãnh đạo được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước. Như người viết đã trình bày trong bài trước, rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.
Sau hải chiến Hoàng Sa đầy hy sinh xương máu, VNCH lần nữa lại được lịch sử giao trọng trách đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa trong tay Trung Cộng. Cuộc tranh đấu mới sẽ khó khăn nhưng là con đường đúng nhất của dân tộc trong cùng hướng phát triển của nhân loại. Giống như hầu hết các nước cựu CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát. Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ CS. Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.
Trích đoạn từ bài viết "Việt Nam Cộng Hòa, lối thoát của Hoàng Sa và dân tộc" của tác giả Trần Trung Đạo.
Trần Trung Đạo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét