Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2025

TRỞ VỀ QUẢNG TRỊ MÙA HÈ 1972 (Kỳ 1) - Trương Dưởng


SƠ LƯỢC DIỄN TIẾN
Điều mà ít ai ngờ đến đã biến thành sự thật, một sự thật tàn khốc trong cuộc chiến tranh diệt chủng ở Việt Nam. Đó là việc Hà Nội công khai xua quân cộng sản bắc việt tràn qua sông ranh giới Bến Hải với hàng ngàn xe tăng, đại pháo 130 ly, cùng nhiều súng phòng không và hoả tiễn 122 ly, địch dốc toàn lực quyết tâm xâm chiếm miền Nam Việt Nam. Và nếu chiến cuộc không nổ lớn như vậy, cái tên Cổ Thành Đinh Công Tráng, dòng sông Mỹ Chánh, cũng như bao nhiêu địa danh xa xôi khác trên phần đất khốn khổ nầy đã không trở thành quen thuộc với mọi người như hiện nay.
<!>
Ngày 2/5/72, chỉ còn Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến lại phía Bắc sông Mỹ Chánh. Trong khi đó quân cộng sản bắc việt dồn nổ lực tấn công Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến tại cầu Mỹ Chánh. Sau nửa ngày giao tranh, 17 trong 18 chiến xa T-54 của địch đã bị các chiến sĩ thiện chiến của ta bắn hạ.

Hai Trung Đoàn cộng sản bắc việt bị thiệt hại nặng nề phải rút chạy về hướng rừng Hải Lăng. Ngày hôm sau, 3/5/72, cầu Mỹ Chánh đã được quân ta phá sập để cản bước tiến bằng cơ giới của địch.

Tỉnh Quảng Trị xem như hoàn toàn bị lọt vào tay quân cộng sản bắc việt!

Khi hay tin Quảng Trị bị thất thủ, dân quân tranh nhau chạy về Huế. Cũng trong ngày 2/5/72, Thiếu Tướng Trưởng được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhậm chức Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu 1 thay thế Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Ông cấp tốc bay ra ngay nhiệm sở mới, cố đô Huế lúc nầy đang ở trong tình trạng hỗn loạn vô trật tự.

Ngay khi đến Huế, Tướng Trưởng đã cấp tốc tổ chức phòng thủ chống lại áp lực của 3 Sư Đoàn 304, 308, và 325 cộng sản bắc việt từ phía Bắc sông Mỹ Chánh, và Sư Đoàn 324B ở phía Tây. Với một sự bình tĩnh đáng kính phục, không có một trách phạt hay quy lỗi cho một ai.

Ông đã vãn hồi được trật tự trong hàng ngũ quân sĩ và đặt lại ngay hệ thống an ninh phòng thủ trên bờ sông Mỹ Chánh, sẵn sàng chờ đón một cuộc tấn công mới của địch. Vì họ đã chiếm được một phần đất khá sâu và đang muốn tiến xa xuống phía Nam khai thác thành quả chiến thắng vừa đạt được.

Địch phải mất gần một tháng mới kịp bổ sung và tăng cường lực lượng để hòng tiếp tục khai thác thêm chiến quả. Một thời gian quá đủ cho tướng Trưởng kiện toàn xong hệ thống phòng thủ. Ông chẳng những chận đứng được đợt tấn công của quân cộng sản bắc việt mà còn phản công dò dẫm ở một vài điểm, làm địch phải lúng túng và chùn bước tiến quân của họ lại. Ông đã nhận được lệnh phải tiêu diệt 4 Sư Đoàn chánh qui bắc việt đang đối diện ở bờ Bắc sông Mỹ Chánh, bằng 2 Sư Đoàn tổng trừ bị là Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến mà hiện ông đã có sẵn trong tay.

Ngày 8/5/72, Lữ Đoàn 2 Dù ra tăng viện từ mặt trận Tây Nguyên. Đến ngày 22/5/72, thêm Lữ Đoàn 3 Dù từ mặt trận An Lộc, và sau đó là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù được chuyển vận ra bảo vệ cố đô Huế.

Ngày 14/5/72, Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đã trực tiếp chỉ huy cuộc phản công tái chiếm căn cứ Bastogne ở phía Tây Nam Huế. Chiều ngày 15/5, Trung Đoàn 3 Bộ Binh đã hoàn toàn làm chủ Bastogne.

Ngày 28/6/72, cuộc tổng phản công của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chính thức bắt đầu. Hai Sư Đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến tấn công tuyến phía Bắc sông Mỹ Chánh, trong khi Sư Đoàn 1 Bộ Binh đánh thọc ra hướng Tây thuộc dãy Trường sơn.

Mặt trận B5 đã tung ra chiến trường tất cả 6 Sư Đoàn gồm: 304, 308, 312, 320B, 324B và 325 (312 mới kéo từ Lào qua).

Ba Tiểu Đoàn 7, 9, 11 Nhảy Dù theo thế gọng kềm làm mũi nhọn vượt sông Mỹ Chánh tiến vào Quảng Trị. Chiến cuộc kéo dài dai dẳng cho đến ngày 25/7/72 lực lượng Dù (Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù) mới cắm được cờ Quốc Gia lên bờ ngoài Cổ Thành Quảng Trị.

Hai ngày sau, Sư Đoàn Dù chuyển vùng trách nhiệm phía Đông quốc lộ 1 lại cho Thủy Quân Lục Chiến, Cổ Thành Quảng Trị hình vuông với bề dài mỗi cạnh là 590 thước, chiều dầy và cao là 5 thước, đã được Thủy Quân Lục Chiến nổ lực dứt điểm vào ngày 16/9/72. Tàn quân của Trung Đoàn 48 trong Cổ Thành đã rút chạy sang bờ Bắc sông Thạch Hãn.

DIỄN TIẾN CHI TIẾT

Trước ngày 28/6/72 (ngày N); Sư Đoàn Nhảy Dù thỉnh thoảng vẫn cho các toán trinh sát và viễn thám vượt sông Mỹ Chánh đi sâu vào phía sườn Tây, dọc hành lang dãy Trường Sơn để dò la tình hình địch. Các tin tức do Viễn Thám cung cấp kể cả hình ảnh chụp được, cho biết địch đã tăng cường rất nhiều vào trận địa gồm: bộ đội, xe tăng, và pháo binh.

Tuyến đầu của Sư Đoàn gần bờ sông Mỹ Chánh do Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù trấn giữ. Tất cả khinh binh của hai Tiểu Đoàn nầy đều được trang bị bằng hoả tiễn M-72 hoặc hoả tiễn 4 nòng MX-202 để phòng chống chiến xa địch (ngoài thành phần vũ khí cá nhân).

Còn hoả tiễn “Tow” mặc dù Tiểu Đoàn nào cũng có, nhưng vì địa thế núi đồi nhấp nhô trùng điệp, nên chỉ đặt trên những điểm cao phía sau để dễ điều khiển, và nhờ vậy các xạ thủ không bị hạn chế tầm nhìn, hơn nữa loại nầy khá cồng kềnh và nặng nề.

Cũng cần nhắc lại là trong trận Hạ Lào, vì lần đầu tiên các binh sĩ Sư Đoàn Dù đã chạm trán với chiến xa địch, nên bị hoang mang và lính quýnh, do đó họ đã sử dụng M-72 không hữu hiệu chính xác, thiếu hiệu quả khi bắn vào xe tăng địch. Rút kinh nghiệm nầy, lúc trở về hậu cứ, các đơn vị Nhảy Dù (kể cả đơn vị chuyên môn như Truyền Tin, Công Binh, Tiếp Vận) đều được huấn luyện kỹ càng và liên tục. Để binh sĩ chính mắt trông thấy hiệu quả của M-72 khi bắn tập vào các chiến xa (đã hư hỏng, được làm mục tiêu thực tập).

Đầu tháng 6/1972, địch đã mở đợt tấn công thăm dò vào Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù ở bờ Nam sông Mỹ Chánh, bằng Nhị thức Bộ Binh Thiết giáp. Thoạt đầu cộng quân pháo kích liên tục, và lúc mờ sáng bộ binh địch và chiến xa đã càn lên, xông vào tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù (sở dĩ xe tăng T-54, thủy xa học sắt PT-76, và BTR-85 đã qua sông dễ dàng, vì công binh địch đã ủi và đổ đất làm một cầu ngầm, nước chỉ sâu đến cổ chân, với độ dốc bờ sông khoảng 30 độ).

Cùng thời gian đó, địch đã pháo kích vào vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù và căn cứ Nancy do một Đại Đội Dù trấn giữ cầu phao băng qua sông Mỹ Chánh (do Công Binh Quân Đoàn I thiết lập). Nhờ chuẩn bị hầm hố chiến đấu kiên cố và đúng cách, nên khi chiến xa địch vừa tới, các binh sĩ Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đã hạ ngay 2 chiếc T-54 bằng súng chống chiến xa M-72 và XM-202 (hoả tiễn lân tinh 4 nòng). Bộ đội địch hò hét xung phong, nhưng bị đẩy lui bởi các súng cá nhân, đại liên, và ngay cả lựu đạn. Địch cố gắng nhào lên nhiều lần nhưng đều bị đẩy lui.

Cộng quân núp theo sau xe T-54, PT-76, và thủy xa BRT-85 để mong chọc thủng phòng tuyến của ta. Trong lúc đó Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đã yêu cầu pháo binh bắn hỗn hợp đầu đạn chạm nổ, từ trên không chụp xuống làm cháy và hư hại thêm mấy chiếc thiết giáp, và làm hàng ngũ địch tan rã bỏ chạy tán loạn về phía sau. Đoàn xe tăng địch tháo lui về hướng bờ sông và để lại nhiều tên bị thương, bị chết, cùng vũ khí ngổn ngang.

Thấy địch rút lui, rối loạn hàng ngũ, Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh truy kích. Các chiến sĩ Dù, đang rất hân hoan vì đã sử dụng hiệu quả các súng chống chiến xa M-72 và XM-202, nghe lệnh vội nhào ra khỏi hố chiến đấu. vừa đuổi theo bắn vừa hò hét vang trời. Anh em rượt dịch qua khỏi bờ sông mới quay trở lại thu lượm chiến lợi phẩm.

Vì tháo chạy trong cơn hoảng loạn, nên khi qua sông, các chiến xa địch đã đâm húc lẫn nhau, tranh đường chạy trước, khiến một số xe bị lật nghiêng ngả, xích sắt hướng lên trời, giống như cua bị lật ngửa, nằm đó mà máy hãy còn nổ.

Tổng cộng trong trận nầy, địch thiệt hại bỏ xác tại chỗ trên 100 tên, bắt được 5 tù binh của Trung Đoàn 66, Sư Đoàn 324 cộng sản bắc việt, ngoài ra còn tịch thu hàng trăm vũ khí đủ loại. Bốn chiến xa T-54 bị hạ tại chân đồi ngay trước Đại Đội tiền đồn; 7 chiếc bỏ lại còn người thì chạy mất. Tại điểm vượt sông có 9 chiến xa T-54, PT-76, hoặc BTR-85 nằm ngổn ngang do lúc tranh giành trốn chạy, đã đâm sầm vào nhau lật nghiêng và bị kẹt dồn thành cục nên không di chuyển lên bờ được.

Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù bị tổn thất khoảng 20 (vừa chết và bị thương); đa số do pháo địch bắn trước giờ tấn công. Sau nầy Trung Đoàn 4 (thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh) tăng phái cho Sư Đoàn Dù, đến trấn thủ đồi Trần Văn Lý để các đơn vị Dù tiến lên phía Bắc, vượt qua sông Mỹ Chánh, tiến thẳng tới sông Nhung, vùng Trường Phước. Các Tiểu Đoàn Dù đã lục soát và tịch thu được một số thiết giáp chở quân loại BTR-85, mỗi xe có trang bị hai súng đại liên 12 ly 8 do Trung cộng chế tạo. Các chiến xa nầy vẫn còn tốt đã được che dấu trong các lùm cây bên bờ sông Mỹ Chánh.

Ngày 28/6/1972 (ngày N), Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù vượt sông Mỹ Chánh lúc 5 giờ sáng và tiến đánh địch trong cảnh trời còn mờ tối. Vì bị bất ngờ, địch chống trả yếu ớt chỉ lo trốn chạy hoảng loạn về hướng Bắc và để lại rất nhiều vũ khí nặng. Đặc biệt là các giàn pháo phòng không trang bị 2 đại bác 57 ly có ghế ngồi cho xạ thủ xoay trở vòng vòng.

Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù do Thiếu Tá La Tịnh Tường – Khoá 9 Thủ Đức (sau bị bệnh nên Thiếu Tá Lê Hồng thay thế) chỉ huy, đã tịch thu được 14 chiếc xe phòng không và nhiều vũ khí đủ loại khác, cùng bắt sống 5 tù binh.

Bên cánh trái là Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù do Thiếu Tá Nguyễn Đình Ngọc – Khoá 19 Đà Lạt, chỉ huy, đã đánh trúng ngay Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 203 chiến xa địch. Khi nghe tiếng la xung phong và các chiến sĩ Dù ào ạt nhào lên, các bộ đội tùng thiết địch đã chạy tứ tán về hướng núi và phía Bắc, bỏ lại 3 chiến xa T-54 máy vẫn còn đang nổ và đèn còn chiếu sáng.

Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đã tịch thu được nhiều súng cối 61 ly và 82 ly vẫn để nguyên tại vị trí bố phòng. Hai ngày sau các chiến xa địch được lái về căn cứ hành quân của Sư Đoàn Nhảy Dù tại cây số 17, gần An Lỗ. Nhờ chiến công nầy, Ngọc “Ngà” được lên Trung Tá đặc cách mặt trận.

Ngày 2/7/72 mở đầu cho giai đoạn II, Tiểu Đoàn 9 và Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù được trực thăng vận xuống phía Bắc của sông Nhung, con sông nhỏ bắt nguồn từ hướng Đông Bắc, qua Trường Phước, Mai Đằng, Thương Xá, để vào Thạch Hãn ở phía Đông Quảng Trị. Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù bên phải, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù bên trái, cùng chiếm từng thước đất trên những đồi trọc, dưới ánh nắng oi bức của mùa hè đỏ lửa!

Bắc quân pháo cản đường bằng hàng loạt đủ loại 130, 122, 82 ly,… Nhưng đoàn quân không dám chần chừ, mọi người quyết đội pháo vào lấy lại mảnh đất Quảng Trị thân yêu.

Trên đoạn đường dài 9 cây số, từ Giáp Hậu qua Mai Đằng, đến La Vang Thượng, binh sĩ thấy cảnh vật gần như không còn sự sống. Các đoạn đường nhựa thì lỗ chỗ hố bom, trên bãi cát điêu tàn bốc hơi dưới mặt trời đỏ lửa thì toàn là cảnh chết: vật chết và người chết!

Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù chia quân 2 ngã, cánh cực Tây do hai Đại Đội của Đại Úy Trọng – Khoá 25 Thủ Đức, Đại Đội 91 và Đại Úy Ngưu (94) tiến đánh vùng Tân Lê, Phước Môn…Bảo vệ sườn phải có Đại Đội 92 của Tường – Khoá 26 Thủ Đức, sườn phải có Trung Úy Vàng – Khoá 1/68 Thú Đức. Cả ba Tường, Vàng, Trọng,… đều bị thương trong cuộc tiến quân nầy! Riêng Ngưu bị hy sinh tại Tân Téo! Thăng lên thay thế.

Đại Úy Đinh Văn Tường bị mảnh B40 ghim vào xương bả vai, nhưng vì thiếu sĩ quan nên Bác sĩ Tính mổ tại chỗ. Trong khi Đại Úy Trần Ngọc Chỉ và Thiếu Úy Mặc Đạm đè tay chân và Bác sĩ Tính đang mổ thì địch pháo kích liên tục gần 10 phút. Mọi người phóng vào hầm ẩn núp, bỏ Tường nằm trên băng-ca máu chảy lai láng. Hết pháo kích Bác sĩ Tính trở ra tiếp tục!

Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Trần Đăng Khôi chỉ huy, và Tiểu Đoàn Phó Nguyễn Lô. Binh sĩ vượt qua cầu Mỹ Chánh vào khoảng 4 giờ khuya, chiếm vùng Lương Điền, Tân Tường, Trường Vinh, lần đến Nam sông Ô Khê, để bảo vệ bãi đáp cho Tiểu Đoàn 9 và Tiểu Đoàn 11.

Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù vượt qua sông Nhung làm mũi dùi cực Đông, một thiết vận xa bị chìm, Tiểu Đoàn tiến chiếm làng An Thái, tiêu diệt nhiều chốt cản đường, vượt qua Quốc lộ 1 bố trí tại phía Nam ngã ba Long Hưng.

Từ Hải Lâm, Thiếu Tá Lê Văn Mễ họp Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn thiết lập kế hoạch hành quân “Bắc tiến”. Chỉ tay trong bản đồ, Tiểu Đoàn Trưởng Lê Văn Mễ nói với Thành:
– Toa thấy cái La Vang Hữu nầy không?
– Thấy. —Thành trả lời.
– Toa thấy cái La Vang Chính nầy không?
– Thấy rồi, còn chi nữa không “Ôn”?
– Toa dẫn hai Đại Đội chiếm La Vang Hữu xong, quẹo tay trái vây Vương Cung Thánh Đường, bọc từ hướng Tây Nam đánh cả hai mục tiêu… Có gì thắc mắc?
– Không. —Thành thì khi nào cũng ít nói, trầm lặng như mặt nước chiều thu.

Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù tiến chiếm nhà thờ La Vang. La Vang là một địa danh nổi tiếng về mặt tôn giáo, theo truyền thuyết La Vang là tên một loại cây mọc hoang rất nhiều ở đây, người địa phương gọi là lá vang (nấu canh chua gà ăn rất ngon).

Trong lịch sử Việt Nam, 200 năm về trước là thời kỳ đàn áp tín ngưỡng, cấm đoán Công Giáo. Tương truyền rằng một số giáo dân bị nhà Tây Sơn lùng bắt vì nghi họ theo linh mục Bá Đa Lộc giúp chúa Nguyễn Ánh. Họ trốn trong nhà thờ La Vang, bị đói khổ và bệnh tật; hằng ngày chỉ biết cầu nguyện. Dưới triều đại vua Cảnh Thịnh, giữa tháng 8 năm 1798, Đức Mẹ Maria đã hiện ra bảo hái lá vang nấu nước uống sẽ hết bệnh. Từ đó La Vang được xem như Thánh địa của người Thiên Chúa Giáo được truyền tụng là nơi có nhiều phép lạ xuất hiện.

Tới đầu thế kỷ này một giáo đường đã được xây dựng tại đây. Sau nhiều lần tái thiết, ngôi nhà thờ khang trang cuối cùng đã được Toà Thánh La Mã phong làm Vương Cung Thánh Đường.

Đường vào La Vang tuy ngắn nhưng đó là đoạn đường của tử thần. Đoạn đường nầy có một cây cầu nhỏ, cầu Trường Phước. Cái tên Trường Phước có nghĩa là phước đức lâu dài, nhưng hôm nay cây cầu nầy là một trong những nơi đổ máu nhiều nhất. Máu của những chiến sĩ Công Binh Chiến Đấu Liên Đoàn 10 đang dọn đường cho quân ta tiến lên, máu của các chiến sĩ Dù đang tiến đánh về thôn La Vang.

Cộng quân không dàn ra để chận đường, mà chỉ pháo dọc theo Quốc lộ 1, đạn pháo rơi bên trên và chung quanh cầu, biến đây thành một vùng tử địa. Trước sức tiến vũ bão của các chiến sĩ Dù, chiến xa địch phải hạ nòng súng đại bác xuống bắn trực xạ một cách vội vàng để rút chạy. Thấy 2 chiếc T-54 đang trấn giữ trước nhà thờ, gần tượng đài Đức Mẹ, binh sĩ của Thành nhanh chóng bắn cháy cả hai, rồi đánh đuổi lực lượng địch bên trong nhà thờ, làm chủ tình hình sau 3 giờ giao chiến.

Vương Cung Thánh Đường chỉ còn mặt tiền, toà Thánh Đường đẹp vào hàng quốc tế ngày nào không còn nữa! Hàng dương xanh khô lá trốc gốc, mái nhà thờ xiêu vẹo tan nát… Thành đứng trên mặt sân trước chính toà, mặt sân đá tảng rộng mênh mông và phẳng lặng nay bị cày nát chỉ còn từng phiến đá vỡ sắc cạnh… Cảnh vật lặng lẽ, không tiếng chim hót trên cành cây, không tiếng cầu kinh rộn ràng vang dội khắp dãy Trường Sơn âm u tịch mịch, mang theo chiều rộng không gian nỗi bi thảm thiêng liêng của người trần tục, Vô Nhiễm!
– Chiến tranh bậy thật!

Thành làm dấu thánh giá, đứng dậy bỏ tràng hạt vào túi áo, đội nón sắt bước đi… Tượng Đức Mẹ La Vang bị mảnh đạn pháo chém mất một phần đầu! Thành nhìn hướng Bắc, nơi con đường đất đỏ dẫn về La Vang Tả. Tưởng đến những ngày Tết Mậu Thân, anh và Dưỡng đã đánh địch tại ngã tư gần căn cứ Trung Đoàn 1 Bộ Binh, tưởng đến những ánh đuốc bập bùng của đoàn người trẩy hội đêm trăng rằm trong những ngày đất nước còn thanh bình. “Chiến tranh bậy thật”, sự phiền muộn của Thành chỉ được diễn tả bởi bốn chữ trách móc nhẹ nhàng và ngắn gọn!

Chính Bắc, cứ một hướng mà đánh, từng nhà, từng hầm, từng chốt địch… Chiến sĩ Dù phải đánh bằng lựu đạn, cá nhân chiến đấu vận dụng tối đa.

Trục chính do Thiếu Tá Lê Văn Mễ dẫn thằng 114 (của Lại Ngọc Long), 113 của Điền Minh Xuyến. Thành dẫn Hùng móm (112) và Đinh Viết Trinh (111) đánh kẹp nách dọc đường rầy chiếm mục tiêu kế tiếp là nhà ga xe lửa.

Từng thước đất lúc nầy được đánh lấy lại bằng một giờ, một buổi… Khúc xương nầy thật khó nuốt (cửa họng chính của Quảng Trị) dầy đặc “Chốt cứng”, mà Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù cùng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù của người hùng Phan Văn Huấn, Phạm Châu Tài phải cố gắng nuốt gần trợn trừng con mắt!

Làm sao qua khỏi mấy cái “Khách sạn” nầy? “Khách sạn” là mục tiêu được đặt bằng tên những nơi ăn chơi nổi tiếng mà các sĩ quan Dù thèm thuồng tưởng nhớ nhưng chỉ có thể dùng nó để nhắc nhở cho đỡ buồn: Majestic, Maxim, Continental.

Thực tế những khách sạn ở đây với nhiều lớp kẽm gai, mỗi “Phòng ngủ” trí một khẩu thượng liên, được “Cover” bởi hàng rào súng cối.

Làm sao đánh? Nhờ mấy đứa con của “Hổ xám” (Biệt Cách Dù) đánh thử bằng chiến thuật đột kích suốt hai đêm cũng không xong!

Thành chỉ huy 111 và 112 tiến đánh nhà ga, Hùng “móm” định cùng Tú Trinh “Ra ga tiễn em đi”, nhưng gặp “Em” thứ dữ, em răng đen mã tấu thuộc dân chơi Hồ Gươm chính cống, em đeo dây ngực bằng dây đạn AK, em xách “Ví” đựng toàn bằng lựu đạn chày. “Em” là đứa con cuối cùng của đảng: Sư Đoàn 325 Tổng trừ bị.

Hùng và Trinh cứ thay phiên nhau “Hạ” em, hai người định tiễn em đi nhưng chẳng em nào muốn đi, em bám chắc nhà ga. Đoạn đường rầy không đầy 400 thước mà suốt 5 ngày cùng không thể vượt qua! Cái ngã ba xa xa đó là đường Trần Hưng Đạo, đường nầy dẫn vào chợ Quảng Trị, chỗ đó địch đã tử thủ trong nhà thương.

Suốt ngày 11/5/72, Hùng không thể chiếm được mục tiêu, anh từ hăng hái vui tánh của những ngày đầu trên đường giải toả quê nhà là tỉnh Quảng Trị nầy. Bỗng nhiên Hùng đổi tánh, la ó om sòm:

– Muốn chết phải không? Tại sao mi không đào hầm? Tao la mi còn hơn để việt cộng bắn mi vỡ sọ…!

Hùng nói những câu không bao giờ nói (Hùng nổi tiếng thương lính), anh đổi tánh một cách thất thường… Điềm gì đây ? Chiến tranh thường có những sự kiện kỳ lạ như thế, người sắp chết thường đổi tánh (Cố Thiếu Tá Lê Văn Huệ của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù bị con ve vô rún, rồi sau đó vài ngày, tự nhiên đứng khơi khơi trên đường rầy cao, rút súng Colt-45 bắn chỉ thiên thúc hối xung phong, để rồi bị địch bắn trúng 2 viên đạn chết không kịp trối!).

Hùng gọi máy nói chuyện với Bác sĩ Liệu:
– Lấy được khẩu K-54 nào thì tôi cho ông… Liệu ơi, sao moa nhớ mẹ moa quá, hôm ở Kontum vượt thoát trở về có mấy ngày phép lại không đi thăm bà. Chiếm xong Quảng Trị moa sẽ xin phép vài ngày vô Đà Nẵng thăm mẹ… Chỉ còn 400 thước là moa thấy cái nhà ở lúc nhỏ, vì thế cứ nhớ bà già!

Thảm thương thay, con chim kêu tiếng bi ai trước khi chết, con người linh thiêng hơn biết tìm chốn quê hương để đi về!

Ngày 14/7/72, đúng 3 tháng sau ngày rút khỏi Charlie, Hùng bị một quả đạn pháo vô tình và cay nghiệt rơi trúng ngay võng nằm! Hùng hy sinh sau những ngày chinh chiến không ngừng nghỉ. Khoá 22 Đà Lạt của Hùng ra trường nhằm Tết Mậu Thân, một số hy sinh ngay từ những ngày mới trình diện đơn vị.

Sau gần 5 năm đánh giặc, Hùng đã đi xa đến cuối trời miền Nam, Hùng từng đến hang sâu, núi thẳm của miền Tây Nguyên, giờ đây đã quay về cố thổ, bây giờ Hùng đã trở về Quảng Trị, nơi chôn nhao cắt rún của Hùng! Người chiến sĩ trẻ tuổi, can trường đã đi hết đoạn đường khổ nạn của quê hương Việt Nam đoạ đày, và trở về chết tại nhà xưa (cách 100 thước!)!

Từ vùng núi phía Tây, dọc theo dãy Trường Sơn, địch chuyển quân tăng cường định phản kích các đơn vị Nhảy Dù.

Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, do Trung Tá Lê Văn Ngọc chỉ huy, càn quét địch từ Nam lên Bắc lấy quốc lộ 1 làm chuẩn, mỗi bên sâu vào 3 cây số. Tiến từ Mỹ Chánh tới sông Nhung, vượt qua La Vang, tái chiếm Hải Lăng; thẳng vào thành phố Quảng Trị, giao tiếp với Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang chiếm giữ làng Tri Bưu.

Trong trận tái chiếm quận Hải Lăng, Thiếu Tá Trần Văn Sơn, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, bị thương hư một mắt, và Thiếu Tá Võ Thanh Đồng thay thế. Với sự yểm trợ của Pháo Binh và Không Quân, cùng sự chiến đấu dũng cảm kiên cường của chiến sĩ Nhảy Dù, nên trên đường tiến quân, mặc dù địch đã pháo hàng ngàn đạn đại bác đủ loại: 105 ly, 122 ly nòng ngắn và nòng dài, 130 ly…vào các đơn vị Nhảy Dù; nhưng vẫn không ngăn cản được bước tiến của quân ta.

Đầu tháng 9/1972, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đã làm chủ tình hình, chiếm lại phần lớn đất đai Quảng Trị, đáng kể nhất là căn cứ của Trung Đoàn 11 Thiết kỵ và căn cứ Trung Đoàn I Bộ Binh. Sư Đoàn 304 cộng sản bắc việt đã bị Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đánh đuổi về hướng Bắc. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tiếp tục mở rộng vùng trách nhiệm về hướng Tây, chiếm núi Tân Téo (phía Tây Bắc La Vang); rồi thọc sâu xuống làng Như Lộ gần bờ sông Thạch Hãn, cách cầu Lò Rèn Quảng Trị khoảng 2 cây số đường chim bay.

Hàng ngày, các đơn vị của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù và Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đều chạm địch, thường ở cấp Trung Đội, Đại Đội, và đôi khi tới cấp Tiểu Đoàn.

Trong cuộc tiến quân của các đơn vị Dù có một chuyện ngộ nghĩnh là trận chiến tại cầu Trường Phước, ở 2 cây số phía Nam La Vang. Lúc đó địch sử dụng các chiến xa chở quân BTR-85 và thiết giáp yểm trợ loại nhẹ là PT-76, tiến thẳng từ Bắc xuống Nam trên quốc lộ 1. Khi vừa qua khỏi cầu thì bị đơn vị Dù chận lại; sau gần hai giờ quần thảo, địch bị pháo binh, khu trục, và các vũ khí chống chiến xa bắn dồn dập.

Cộng quân chịu không nổi phải rút chạy; quân Dù nhào ra truy kích, khiến chiến xa địch hoảng loạn, tranh lấn nhau chạy đến nỗi một chiếc PT-76 vừa qua cầu chưa kịp đổ dốc thì chiếc PT-76 kế đã trèo lên nóc chiếc trước, khiến địch phải bỏ xe chạy trốn lấy người.

Khi quân Dù đến cầu, thấy cảnh tượng đó cứ để y nguyên. Sau nầy báo chí đến chụp hình, và đầu năm 1973 lúc dân chúng lên thăm nhà thờ La Vang, thường dừng lại để chụp hình lưu niệm. Có lẽ hiện nay, một số người dân miền Trung vẫn còn giữ được những tấm hình nầy (bên trái của 2 chiếc PT-76 là 1 chiếc BTR-85 bị đứt xích còn nằm nghiêng tại đó).

Tháng 9/1972, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, do Đại Tá Trương Vĩnh Phước chỉ huy, đã tiến sâu vào dãy Trường Sơn để tái chiếm căn cứ Barbara. Cuộc tiến quân thật gian nan vì đồi núi trùng điệp, cây rừng rậm rạp, rất khó quan sát; thời tiết lại luôn luôn bị mây mù che phủ, không thể sử dụng không yểm. Chỉ có pháo binh 105 ly (tối đa 11 cây số) và 155 ly (tối đa 14 cây số rưỡi) yểm trợ.

Nhờ có nhiều điểm che dấu, nên địch thường ẩn nấp chận đường tiến quân. Nhất là khi càng gần căn cứ Barbara, cây rừng càng rậm rạp. Từ dưới chân núi nhìn lên chỉ thấy một màu xanh thẫm; đường lên núi lại thẳng đứng và ngoằn ngoèo; từ chân núi nhìn lên binh sĩ không thấy rõ căn cứ.

Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, chỉ thị Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù phải chiếm cho được căn cứ chiến thuật nầy. để ngăn chận đường xâm nhập của cộng sản bắc việt, và để làm đài quan sát điều chỉnh pháo binh tiêu diệt các khẩu pháo địch, mà vẫn hay bắn về chỗ trú quân của ta tại cầu Mỹ Chánh và căn cứ Nancy.

Sau những lần đánh ban ngày không kết quả, Lữ Đoàn Trưởng quyết định cho đột kích đêm. Nhiệm vụ được giao phó cho Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù do Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Văn Bá Ninh và Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó Đào Thiện Tuyển chỉ huy.

Sau khi họp các Đại Đội Trưởng, Trung Tá Ninh quyết định dẫn hai Đại Đội thọc sâu vào phía Tây căn cứ Barbara; và Tiểu Đoàn Phó chỉ huy hai Đại Đội còn lại tiếp tục tấn kích mặt chính để cầm chân địch (kiểu dương Đông kích Tây). Quả nhiên với yếu tố bất ngờ, hai Đại Đội đã trèo dốc lên tới đỉnh; rồi dàn quân đồng loạt vừa bắn vừa la xung phong vang rền đỉnh núi. Địch bị trở tay không kịp, hoảng hốt chạy tán loạn.

Trận nầy Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù bắt được khá nhiều tù binh thuộc Sư Đoàn 324; tịch thu rất nhiều vũ khí đủ loại; và đặc biệt nguyên một đoàn xe tiếp vận hơn 20 chiếc gồm xe Zin, Molotova… Trên xe còn chất đầy lương khô, đạn dược, và mìn bẫy đủ loại. Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù có 1 sĩ quan bị hy sinh và 3 binh sĩ bị thương.

Ngày hôm sau Trung Tá Ninh cho lái nguyên đoàn xe vận tải đến căn cứ Nancy; rồi tiếp tục chạy qua cầu Mỹ Chánh, An Lổ, cuối cùng về tới cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh), nơi bản doanh của Sư Đoàn Nhảy Dù. Dân chúng hai bên đường thấy đoàn xe đi qua, dẫn đầu là chiếc Jeep của quân cảnh Dù, tiếp sau là hơn 20 chiếc xe chở đầy trang cụ của cộng sản bắc việt còn nguyên cây lá ngụy trang quanh xe, cùng một số cờ việt cộng. Mọi người đều vỗ tay hoan hô và reo hò mừng rỡ vang trời.

Lục soát chung quanh chân núi căn cứ Barbara, các binh sĩ Lữ Đoàn 3 còn tịch thu một số súng đại bác 122 ly nòng dài; những xe súng phòng không gắn đại bác 37 ly và 57 ly.

Ngoài ra còn lấy lại được mấy khẩu đại bác 105 ly của ta mà địch đã chiếm được lúc trước tại phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Chính chúng đã kéo những súng nầy xuống Barbara để bắn vào các vị trí đóng quân của các đơn vị Dù.

Giữa tháng 9/1972, Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù được lệnh tiến sâu vào sườn núi phía Tây (Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn đóng tại cầu Trường Phước), với nhiệm vụ mở sâu rộng vào các vùng đồi núi để tìm và tiêu diệt địch, nhằm mục đích ngăn chận không cho địch tiến về phía Nam và đồng bằng ở hướng Đông.

(Còn tiếp)

Trương Dưởng

 

Không có nhận xét nào: