Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

Tạp Ghi và Phiếm Luận : UỐNG "XÂY-CHỪNG", ĐÁI RA "XÂY NẠI" - Đỗ Chiêu Đức

Nói cho đủ câu nói trên là như thế nầy :"Buổi sáng, uống ly Xây Chừng, buổi tối đái ra Xây Nại". Vậy "Xây Chừng" là gì, và "Xây Nại" là gì ?! Xin Thưa :- XÂY CHỪNG là phát âm tiếng Quảng Đông của từ TẾ CHỈNH 細整. TẾ là Nhỏ, CHỈNH là Hoàn chỉnh, ở đây có nghĩa là nguyên chất; Nên XÂY CHỪNG là "Ly cà phê nhỏ thuần chất", ý nói "Chỉ thuần cà phê chớ không có thêm chất gì khác cả". Nói tóm lại "XÂY CHỪNG là LY CÀ PHÊ ĐEN NHỎ". Còn...

<!>

- XÂY NẠI là phát âm tiếng Quảng Đông của từ TẾ NÃI 細奶. TẾ là Nhỏ, NÃI là Sữa, nhưng XÂY NẠI không phải là "Ly sữa nhỏ"; Vì đó là từ nói gọn lại của ba chữ XÂY PHÉ NẠI 細啡奶. XÂY là Nhỏ, PHÉ là Cà phê, NẠI là Sữa. Nên XÂY PHÉ NẠI là "Cà phê sữa nhỏ", nói gọn lại thành XÂY NẠI.


Ly Xây Chừng và Tài Chừng dùng uống Ca phê và rượu Đế
Ngày xửa ngày xưa, trước cổng phi trường Biên Hòa, nơi đóng quân của 2 đơn vị Quân đội : Sư Đoàn 3 Không Quân và Sư Đoàn Kỹ Thuật & Tiếp Vận, nên cái Dốc Sỏi trước phi trường là một xóm yên hoa của "Chị em ta". Cứ mỗi lần đến ngày phát lương cho lính là nơi đây lại vô cùng náo nhiệt. Tôi thường nghe các thằng bạn Không quân độc thân "Hào hoa phong... ngứa" của nhóm chúng tôi kháo nhau rằng : Lãnh lương xong, ghé Dốc Sỏi qua đêm, sáng ra quán cà phê uống ly "Xây Chừng", tối về đái ra "Xây Nại" là sẽ thành... Triệu phú ngay ! Người khác nghe thì lấy làm lạ, chớ chúng tôi thì đều hiểu là : Uống "Cà phê đen" mà đái ra "Cà phê sửa" là đã bị bệnh "lậu mủ" rồi (vì chơi bời bị bịnh Lậu nên có pyuria).. Nhà binh thường dùng Péniciline loại 4 triệu rưỡi, nên nói thành "Triêu phú" là vì thế. Trở lại với từ XÂY NẠI còn được nói thành...
- XÂY CÁ NẠI cũng là âm Quảng Đông của ba chữ TẾ GIA NÃI 細加奶. TẾ là Nhỏ, GIA Thêm, NÃI là Sửa; là nói gọn của nhóm từ XÂY PHÉ CÁ NẠI 細啡加奶 là "Cà phê đen nhỏ thêm sữa", là CÀ PHÊ SỮA NHỎ đó. Trong xã hội Miền Nam ngày xưa (và có lẽ cho đến hiện nay), tiền lo lót, hối lộ thường được gọi là "Tiền Cà phê" mà phải là "Cà phê sữa" mắc và ngon hơn Cà phê đen. Nên ta lại có từ phát sinh là "Trọng Tài Xây Cá Nại". Có nghĩa trong một trận thi đấu Thể dục Thể thao nào đó mà Trọng tài bắt thiên vị cho đội nầy hoặc đội khác, thì bị gọi là "Trọng tài Xây cá nại". Tức là Trọng tài đã được đội nào đó cho uống "Cà Phê Sữa" rồi !

TÀI CHỪNG và TÀI NẠI
Còn XÂY CHỪNG, XÂY NẠI uống không đã, thì kêu thứ lớn hơn là TÀI CHỪNG (Cà phê đen lớn), TÀI NẠI (Cà phê sữa lớn). Nhớ... Sau 1975, các lớp bậc Tiểu học (Cấp 1) cũng được chia thành từng tiết học (Trước đây, các lớp bậc Tiểu học, thầy cô giáo phải đứng lớp xuyên suốt cả buổi học). Nên chúng tôi có rất nhiều thời gian rảnh rỗi khi không có tiết lên lớp. Thế nên các thầy giáo trẻ của Thị Trấn Cái Răng chúng tôi hay kéo qua quán cà phê ngang trường để nhâm nhi thư giản và tán gẫu. Nhưng buổi sáng đã "uống cà phê" rồi, nên các lần sau không uống nổi cả ly "Xây Chừng" nữa, vì thế mà lại phát sinh thêm một từ mới rất gần gũi thân thương và thực tế là..."LƯNG CHỪNG". Cứ vào quán kêu "Cho một cái LƯNG CHỪNG !" là chủ quán hiểu ngay là chỉ có "Nửa ly XÂY CHỪNG" mà thôi ! Và từ nầy hoàn toàn là từ Việt Nam chớ không phải phát âm theo tiếng Quảng Đông nữa !

XÂY NẠI là Cà phê sữa nhỏ, TÀI NẠI là Cà phê sữa lớn. Thế hôm nào đó không khỏe trong người, muốn uống một ly SỮA NƯỚC SÔI thì kêu làm sao ? Sửa Nước Sôi trong tiệm nước người Hoa gọi là...
- BẠC TẨY là âm Quảng Đông của từ BẠCH ĐỂ 白底. BẠCH là Trắng, ĐỂ là Đáy, ở đây có nghĩa là cái NỀN, Nên BẠC TẨY nghĩa đen là "Cái nền trắng", là ly sữa nước sôi trắng tinh, không đen thùi như Cà phê đen, không nâu đậm như Cà phê sữa, mà trắng trẻo trông rất đẹp trai như một chàng thư sinh, nên SỮA NƯỚC SÔI còn được gọi là LEN CHẨY 倩仔 âm Hán Việt là THIẾN TỬ có nghĩa : Anh chàng đẹp trai. Nhưng uống ly sữa nước sôi trông có vẻ bệnh hoạn và yếu đuối quá, nên có người lại muốn thêm chút cà phê vào, nên lại phát sinh từ...
- BẠC XỈU PHÉ âm Quảng Đông của nhóm từ BẠCH THIỂU PHI 白少啡. BẠCH là Trắng, THIỂU là ít, PHI là Cà phê. Nên BẠC XỈU PHÉ là Sữa ít Cà phê. Cái lớn quá uống không nổi kêu cái nhỏ hơn, nên lại có từ...
- XÂY BẠC XỈU là âm Quảng Đông của "Cà phê sữa nhỏ ít cà phê".


LEN CHẨY và XÂY BẠC XỈU
Ở Mỹ hễ nói đến ăn trứng thì là Trứng Gà, còn ở Việt Nam ta thì thường ngày chỉ ăn Trứng Vịt, nên Trứng Gà được xem là bổ dưỡng hơn, qúy giá hơn; Nên hôm nào muốn tẩm bổ và muốn uống cho sang một chút thì vào quán kêu một ly...
- QUẢNH CẤY là Âm Quảng Đông của từ CỔN KÊ 滾雞. CỔN là Sôi, KÊ là Gà. Nhưng QUẢNH CẤY không phải là "con gà sôi" mà là "Nước sôi hột gà" và dĩ nhiên là có bỏ sữa hộp vào, lớp sửa trắng có ẩn cái lòng đỏ trứng tựa như trái banh bong, nên còn được các anh chàng "Phổ Ky" ví dỏm gọi là LEN CHẨY TẢ PÓ 倩仔打球. Có nghĩa "Anh chàng đẹp trai đánh banh". Quậy ly nước sôi sữa hột gà lên cho màu vàng nhạt rất đẹp, uống cũng rất ngon và có cảm giác như rất bổ rất khoẻ, nhưng lại... hơi tanh mùi trứng, nên có người lại muốn để thêm chút cà phê vào cho nó bán cái mùi tanh của trứng đi, đó là món...
- QUẢNH CẤY LỌT SỨC âm Quảng Đông của nhóm từ CỔN KÊ LẠC SẮC 滾雞落色. LẠC SẮC là Bỏ thêm màu sắc vào. Nên QUẢNH CẤY LỌT SỨC là "Sữa nước sôi hột gà thêm chút cà phê vào". Đây là thức uống bổ khỏe và sang chảnh của giới bình dân trong thời điểm Cà phê Sáng.
- PHỔ KY là âm Quảng Đông của từ HỎA KẾ 伙計. Từ Phiếm chỉ dùng để chỉ chung tất cả những nhân viên được thuê mướn trong một cửa hàng, cửa hiệu nào đó. Ví dụ : Tiệm nầy có tất cả 3 Phổ Ky. PHỔ KY cũng thường bị đọc trại thành "HỦ KY". Đi làm "Hủ Ky" là đi làm công cho hàng quán nào đó.


Hột Gà nước sôi và Sữa Hột Gà
Sáng uống nóng, trưa uống lạnh, nên lở kêu Xây Chừng rồi đành phải xin thêm một ly nước đá để đổ cà phê vào. Ly Nước Đá đó gọi là...
- XUỴT TẨY (XỊT TẨY) là âm Quảng Đông của từ TUYẾT ĐỂ 雪底. TUYẾT ở đây là Nước Đá, ĐỂ là cái Nền; nên XỊT TẨY là "Ly nước đá không" chưa có gì cả, nếu thêm cà phê vào thì gọi là...
- XUỴT PHÉ là âm Quảng Đông của từ TUYẾT PHI 雪啡, là "Cà Phê Đá". Vì ly cà phê đen cao có lổn ngổn nước đá trắng trong trôi nổi trong đó, nên các anh "Phổ ky" của các Quán nước đặt tên khôi hài là...
- HẮC QUẨY XÚNG LƯỜNG là âm Quảng Đông của nhóm từ HẮC QUỶ XUNG LƯƠNG 黑鬼沖涼. HẮC QUỶ là con quỷ đen, XUNG LƯƠNG là Tắm rửa. HẮC QUẨY XÚNG LƯỜNG là Con quỷ đen đang tắm, là "Cà phê đá". Vì ở Việt Nam ta chỉ thấy các anh Chà Và là có làn da đen thui mà thôi, nên HẮC QUẨY XÚNG LƯỜNG nói cho vui là "Ông Chà Và đang tắm" để chỉ ly Cà Phê Đá. Còn CÀ PHÊ SỮA ĐÁ là...
- XUỴT PHÉ NẠI là âm Quảng Đông của mhón từ TUYẾT PHI NÃI 雪啡奶, là Cà phê sửa trong tuyết, là Cà phê sữa đá đó.
- XUỴT XỦI là âm Quảng Đông của từ TUYẾT THỦY 雪水. Có nghĩa là Nước trong đá, là "Nước Đá Lạnh" nói chung, từ XUỴT XỦI còn có thể dùng để chỉ tất cả các thức uống có nước đá. Ví dụ như :"Mời Anh cùng chúng tôi đi "nhẩm"(uống) một ly XUỴT XỦI !". Có nghĩa là muốn uống Phê đá, Sửa đá, Cô Ca, Xá Xị, Nước Cam, Nước ngọt gì gì cũng được cả ! Nói thêm...


Tất cả các loại Xuỵt Xủi
- NHẨM là âm Quảng Đông của từ ẨM 飲 có nghĩa là UỐNG. Như NHẨM XÀ 飲茶 là "Uống nước trà". Nghĩa rộng của từ NHẨM XÀ là UỐNG TRÀ NƯỚC. Mời người ta đi NHẨM XÀ là mời người ta đi đến quán nước để uống nước... gì cũng được. Nên "Tiền Nhẩm Xà" là "Tiền Trà Nước", "Tiền Cà Phê", cũng là tiền lót tay, tiền hối lộ đó. Vì NHẨM XÀ nói lái là NHÀ XẨM, nên hồi đó chúng tôi cũng thường nói chơi với nhau là "NHẨM XÀ ở NHÀ bà XẨM". Trên mạng hiện nay lại có câu đối thách đối như thế nầy :"Vào Nhà bà Xẩm để Nhẩm Xà". Bạn thử "đối lại" xem sao !?...


Sau khi uống cà phê thì nước trà được uống miễn phí, chỉ trừ trà Lipton, tiếng Quảng Đông gọi là...
- HÙNG XÀ là âm Quảng Đông của từ HỒNG TRÀ 紅茶. Một loại trà pha ra có màu đỏ đậm và chát, nên khi uống nóng thì ngoài việc bỏ đường còn phải có thêm một lát chanh để làm giảm vị chát của trà. Uống nóng còn có thể cho thêm sữa hộp vào, gọi là XÀ NẠI 茶奶 (TRÀ NÃI) là Trà Sữa (không nặn chanh, vì chanh là Acid gặp sữa là chất kiềm sẽ bị kết tủa lợn cợn). Uống lạnh thì cứ bỏ nước đá vào gọi là HÙNG XÀ XUỴT 紅茶雪 (Hồng Trà Tuyết) là Trà đá Lipton...


HÙNG XÀ và HÙNG XÀ XUỴT
Quán Nước hay Tiệm Nước của người Hoa nói chung, được người Quảng Đông gọi là "XÀ THỔI" âm chữ Nho là TRÀ ĐÀI 茶枱. Có nghĩa là :"Cái bàn dùng để uống trà". Nghĩa phát sinh là "Nơi có rất nhiều bàn dùng để uống trà", nên XÀ THỔI có nghĩa là "Tiệm Nước" theo Tập quán Ngôn ngữ riêng của tiếng Quảng Đông mà thôi. Nói thêm cho rõ...
QUÁN 館(舘) là Nhà, nhưng ngoài mục đích để ở. Ví dụ : Lữ Quán 旅館 là Nhà trọ, Trà Quán 茶館 là Quán bán trà nước; Đại Sứ Quán 大使館 là Toà nhà cho Đại sứ ở và làm việc, Tăng Nghi Quán 殯儀館 là nhà Quàn để hòm người chết... Còn...
TIỆM là do âm Triều Châu (hay Tiều Châu) của chữ ĐIẾM 店 mà ra; Người Tiều Châu gọi là "CÀI TIẸM (không có dấu Ê) 個店", ta gọi trại thành CÁI TIỆM.
Trong QUÁN NƯỚC, ngoài để uống các loại nước ra, còn dùng để ăn sáng, mà người Hoa gọi là TỈM SẤM theo âm của tiếng Quảng Đông : TỈM SẤM là ĐIỂM TÂM 點心. ĐIỂM 點 Động từ có nghĩa là "Chấm phá, Cho vào..." TÂM 心 ở đây không phải là TIM , mà là LÒNG, là BỤNG. Nên ĐIỂM TÂM 點心 có nghĩa là "Buổi sáng mới thức dậy bụng còn trống, kiếm chút gì đó bỏ vào bụng cho vững để đi làm việc". Nên ĐIỂM TÂM là "Ăn Sáng Nhẹ". Mời cùng đọc giai thoại sau đây :


TỪ VĂN TRƯỜNG 徐文長 ( 1521-1593 ) tên là VỊ, tự là Văn Trường, sanh năm Chánh Đức thứ 16 đời nhà Minh. Người đất Sơn Âm (Thiệu Hưng ngày nay), lớn lên trong một gia đình quí tộc đang hồi xuống dốc. Sáu tuổi đã đi học, nổi tiếng là THẦN ĐỒNG, 20 tuổi đậu Tú Tài, là một nhà văn, nhà thơ, nhà thư pháp và là một họa sư nổi tiếng ở cuối đời Minh đầu đời Thanh.
Ông là người phóng khoáng, không chịu gò bó vào khuông phép, nên thi hoài 8 khoa mà vẫn không đậu Cử Nhân giống như Trần Tế Xương của ta : " Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui ! "vậy. Tài hoa thì có thừa, nên hay dùng văn thơ châm biếm người đời, bởn cợt kẻ quyền thế, rất được giới bình dân hâm mộ giống như là Trạng QUỲNH của ta vậy !
Từ Văn Trường văn hay chữ tốt nổi tiếng trong vùng, nên một hôm, có người đến nhờ ông viết dùm bảng hiệu "Tỉm Xấm" để bán đồ điểm tâm. Ba chữ " ĐIỂM TÂM ĐIẾM 點心店 là Tiệm Điểm Tâm vừa treo lên thì người ra vào ăn điểm tâm nườm nượp suốt cả tháng trời, ông chủ tiệm cười híp cả mắt, mặc sức mà hốt bạc... Nhưng có một điều hết sức ngạc nhiên là thực khách nào ăn xong khi đến tính tiền đều nói với chủ tiệm là : " Ông ơi, 3 chữ ĐIỂM TÂM ĐIẾM 點心店 của ông, chữ TÂM sao viết thiếu mất một chấm ở giữa ?!". Như ta đã biết, hình dạng chữ TÂM được Cụ NGUYỄN DU diễn tả lúc Thúy Kiều nhớ Thúc Kỳ Tâm ( là Thúc Sinh đó) với 2 câu như sau :
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành TRĂNG KHUYẾT BA SAO giữa trời.


Từ Văn Trường và chữ TÂM 心
Chữ 心 có hình dạng như Nửa Vành Trăng Khuyết và 3 vì sao, 2 cái 2 bên, 1 cái ở giữa, nhè Từ Văn Trường không có chấm "Cái chấm ở giữa". Ông chủ tiệm là dân thị tứ đâu có biết gì là chữ nghĩa, nghe mọi người đều nói vậy nên tìm Từ Văn Trường để nhờ anh ta chấm thêm cho một chấm. Nhưng sau khi chấm xong chấm đó, thì suốt cả tháng trời buôn bán ế ẩm. Ông chủ quán lại gặp Từ Văn Trường than thở rằng, từ khi chấm cái chấm đó xong thì buôn bán không còn như trước nữa. Từ Văn Trường cười bảo ông ta rằng : "Chữ TÂM là cái lòng, cái bụng, bụng có trống thì người ta mới ghé lại mà ĐIỂM Tâm, nay đã chấm thêm một chấm là bụng đã no rồi, không cần phải ĐIỂM TÂM nữa, ế là phải ! ". Ông chủ mới té ngữa ra, bây giờ muốn xóa chấm đó đi thì đã không còn được nữa rồi !
Sự thật thì Từ Văn Trường chỉ lợi dụng cái tâm lý hiếu kỳ và hiếu sự của quần chúng để "câu khách" cho tiệm. Ai trông thấy chữ Tâm thiếu mất một chấm đều "ngứa ngáy" muốn nói cho chủ quán biết, sẵn đã vào tiệm nên ăn điểm tâm luôn một thể mà thôi !

Món TỈM XẤM đầu tiên mà ai cũng biết hết, đó là món...
- XÍU MẠI là âm Quảng Đông của từ THIÊU MẠI 燒賣. Một loại thức ăn Điểm Tâm buổi sáng của người Quảng Đông; Có 2 loại : Xíu Mại Khô, thịt bằm, củ sắn được ướp thêm gia vị và được bọc bằng một lớp vỏ bột mì màu vàng; Xíu Mại Nước, không có bọc vỏ, được chưng cách thuỷ trong một cái dỉa nhỏ. Hai loại KHÔ và NƯỚC nầy thường được ăn với "Dầu-Chá-Quẩy" hay bánh mì đều rất ngon...
Nhớ hồi nhỏ, má tôi đưa tiền biểu cô em gái lớn ra quán nước Trương Ký ở đầu đường nhà lồng chợ Cái Răng mua 2 viên "Xíu Mại" về cho thằng em trai ba tuổi ăn cháo. Khi ra đến quán nghe người ta kêu "Xây chừng", "Xây nại" lung tung beng... nên quên hết lời má dặn, bèn nói với chú phổ-ky là : Bán cho tui 2 cái "Xây chừng" gói lại ! Chú phổ-ky ngạc nhiên hỏi : Xây chừng mà GÓI gì con ? Má con biểu mua cái gì ? Nó quýnh quá nói rằng : Mua "cái gì đó"... cho em con ăn cháo ! Chú phổ-ky hiểu ra hỏi : Mua "Xíu Mại" phải hông ? Nó mừng qúa nói " Ừa, Xíu mại, xíu mại... Bán cho con hai viên đi !"...


Xíu Mại khô Xíu Mại Nước Há Cảu Hoành Thánh
- HÁ CẢO là âm Quảng Đông của từ HÀ GIẢO 蝦餃. HÀ là tôm, tép; GIẢO là Bánh xếp; Nên HÀ GIẢO là một lọai bánh Xếp nhỏ được gói bằng nhưn thịt tép và lớp vỏ bột mì tinh (Tapioca) chưng cách thuỷ trong một chiếc dỉa nhỏ.
- HOÀNH THÁNH là âm Quảng Đông của từ VÂN THÔN 雲吞. VÂN là Mây, THÔN là Nuốt. HOÀNH THÁNH như Xíu Mại, nhưng chỉ nhỏ bằng 1 phần tư Xíu Mại khô mà thôi, nêm phần bột mì gói dôi ra được bóp nhầu lại, khi nấu thì lại bung ra như một cục mây nhỏ, nên mới gọi là HOÀNH THÁNH là "Mây để nuốt", và Hoành Thánh không có ăn riêng, mà phải nấu chung với MÌ sợi, được gọi là HOÀNH THÁNH MÌN 雲吞麵. Có người gọi HOÀNH THÁNH là MÌ THÁNH; còn người Miền Bắc thì gọi là VẰN THẮN.
- MÌN là MÌ phát âm Quảng Đông của từ MIẾN 麵. MÌ là thức ăn được làm từ lúa mì, lúa mạch. Bột mì được cán mỏng và xắt thành từng sợi một. Trước mắt được ép bằng máy thành hai loại sợi nhỏ là DÂU MÌN 幼麵 (ẤU MIẾN là Mì Nhỏ); Sợi lớn là SÚ MÌN 粗麵 (THÔ MIẾN là Mì Lớn). MÌ ép xong được vắt thành từng vắt một. Ăn một vắt thì gọi là TÁL MÌM chữ Nho là 單麵 ĐƠN MIẾN; Ăn hai vắt thì gọi là MÁ MÌN chữ Nho là MA MIẾN 孖麵. MA ở đây có nghĩa CẶP, là ĐÔI. Ông gìa bà cả thì thường ăn TÁL MÌN, còn thanh niên sức trai trẻ thì phải ăn MÁ MÌN, có cậu còn phải ăn tới HOÀNH THÁNH MÁ MÌN 雲吞孖麵 mới đủ no. Có nhiều ông có tính khôi hài, vào quán chưa kịp kéo ghế ngồi xuống đã kêu với phổ-ky :"Một cái Hắc-Quẩy với một cái Má... Mầy!" Phổ-ky cười xòa, biết là ông ta kêu một cái cà phê đen và một tô mì 2 vắt...


Mì 2 vắt Mì 1 vắt Mì Hoành Thánh
- SỦI CẢO là âm Quảng Đông của từ THỦY GIẢO 水餃. THỦY là Nước, GIẢO là Bánh xếp, Bánh Quai vạc; nên SỦI CẢO là "Bánh Xếp Nước, Bánh Quai Vạc Nước", như Há Cảo nhưng được nắn dẹp hơn, được luôc chín và nấu trong nước súp của Hủ Tiếu Mì. NÓ được gói bằng lớp bột Tapioca, khác với Hoành Thánh viên nhỏ hơn và được gói bằng vỏ bột mì. SỦI CẢO nấu chung với MÌ được gọi là CẢO MÌN 餃麵. Món ăn SỦI CẢO ngày nay được chế biến rất đa dạng, ngoài việc nấu chung với MÌ ra, SỦI CẢO còn được chiên dòn hay chỉ luộc chín rồi chấm tương ớt mà ăn cũng rất ngon lành. Trước mắt Khu Ẩm Thực trên phố Hà Tôn Quyền ở Chợ Lớn được xem là “Thiên đường” của món SỦI CẢO SÀI GÒN với trên 20 quán SỦI CẢO nổi tiếng mở cửa hoạt đông từ 4,5 giờ sáng cho đến giữa khuya.


Sủi Cảo Chiên Sủi Cảo hấp khô Dủi Cảo Nước
- HỦ TIẾU là âm Tiều Châu của từ QUẢ ĐIỀU 粿條 : QUẢ là Bánh; ĐIỀU là Sợi. Nên QUẢ ĐIỀU là bánh bằng bột gạo được xắt thành từng sợi từng sợi một, nấu với xương súp, bên dưới độn giá hẹ, bên trên thêm vài lát gan và thịt khìa xắt mỏng, có nơi còn thêm một miếng bánh tôm chiên dòn, bỏ thêm mỡ tỏi, hành ngò, rắc tí tiêu lên là sẽ có một tô Hủ Tiếu thơm phứt ngon lành. HỦ TIẾU trong quán nước Quảng Đông được gọi là HÀ PHẤN 河粉, âm Quảng Đông là HÒ PHẢNH, PHẢNH là PHẤN là Bột gạo, nếu ăn một tô bình thường thì gọi là "DÁCH CÔ HÒ PHẢNH 一個河粉", là "Một Tô Hủ Tiếu"; còn nếu ăn ít thì gọi là "DÁCh CÔ TÁL PHẢNH 一個單粉". TÁL PHẢNH là ĐƠN PHẤN là ít Hủ Tiếu. HỦ TIẾU là món điểm tâm duy nhất bằng tiếng Triều Châu hiện diện trong các tiệm nước Quảng Đông, âm Tiêu Châu chính gốc của từ QUẢ ĐIỀU 粿條 là "CỦI TÉO" được bà con ta gọi trại thành HỦ TIẾU, CỦ TIẾU, PHỞ TIẾU... (Không biết là từ PHỞ có phải từ đây mà ra chăng ?!). Nấu HỦ TIẾU chung với MÌ, gọi là HỦ TIẾU MÌ, âm Quảng Đông là PHẢNH MÌN 粉麵, "Dách Cô Phảnh Mìn 一個粉麵" là "Một Tô Hủ Tiếu Mì".


Hủ Tiếu Khô Hủ Tiếu Nước Hủ Tiếu gỏ
So với MÌ thì HỦ TIẾU bình dân hơn, vì rẻ hơn, dễ nấu hơn, nên lại phát sinh thêm món HỦ TIẾU GỎ, bán cả ngày lẫn đêm và len lỏi vào tận các con hẽm nhỏ hẽm cụt với tiếng gỏ nhịp lốc cốc từ các con đường lớn đến các xóm nhà lá nghèo nàn ở tận hang cùng ngõ hẹp, khi đói đều có thể kêu một tô HỦ TIẾU GỎ được nấu và bưng tới nhà mà giá thì chỉ bằng phân nửa ở tiệm mà thôi.

Hẹn bài viết tới :
Các từ Việt có gốc Hoa chỉ các món ăn vặc.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


Không có nhận xét nào: