Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 7 tháng 10, 2025

TỪ TRẦN ÍCH TẮC ĐẾN CỘNG SẢN VIỆT NAM BA LẦN PHẢN DÂN HẠI NƯỚC - Nguyễn Xuân Tùng

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tội nặng nhất không phải là thua giặc, mà là phản dân hại nước – đem lợi riêng mà dâng non sông đất nước cho ngoại bang. Từ thời Trần cho đến nay, sử sách đã ghi rõ những vết nhơ không thể rửa sạch được. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Kẻ thờ giặc, mưu phản nước, nghìn năm vẫn là tội nhân.”Trải qua mười thế kỷ, dân Việt từng chứng kiến ba lần phản bội tiêu biểu: Trần Ích Tắc đời Trần, Lê Chiêu Thống cuối triều Lê, và sau cùng là Đảng Cộng Sản Việt Nam – kẻ nhân danh “giải phóng dân tộc”- Nhưng thực chất lại bán rẻ Tổ Quốc cho ý thức hệ ngoại lai vô Thần Cộng Sản. Hai tên đầu bán nước cầu vinh chỉ vì chỉ phản quốc trong hành động; Còn kẻ sau phản quốc trong tâm não linh hồn dân tộc!
<!>
I. TRẦN ÍCH TẮC – KẺ PHẢN QUỐC VÌ THAM VỌNG

Trần Ích Tắc (1254–1328) là em ruột vua Trần Thái Tông, một hoàng thân quốc thích học rộng, thông minh, văn võ song toàn. Nhưng khi quân Nguyên – Mông xâm lược Đại Việt, ông lại đầu hàng giặc, mong được phong làm vua bù nhìn.
Mục đích của Trần Ích Tắc không vì dân vì nước, mà vì tham vọng quyền lực. Trong khi vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương đem thân ra trận, Tắc chọn con đường phản bội. Sử chép rằng khi nghe tin Trần Ích Tắc hàng giặc, Hưng Đạo Vương than: “Người nhà mà làm phản, ấy là nhục của nước.”
Tuy vậy, tội của Trần Ích Tắc chỉ mang tính cá nhân, không làm sụp đổ quốc gia. Quân Dân ta còn tinh thần kháng chiến chống xâm lược Phương bắc, nên giặc Nguyên đã phải ba lần thua nhục. Tội Trần Ích Tắc tuy nặng, nhưng chỉ là vết đen trên nền vàng của một thời đại anh hung của dân tộc.

II. LÊ CHIÊU THỐNG – KẺ RƯỚC VOI GIÀY MẢ TỔ

Ba thế kỷ sau, cuối triều Lê, đất nước lại chứng kiến một bi kịch khác: Lê Chiêu Thống, vì muốn giành lại ngai vàng, đã chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh, mượn 29 vạn quân Thanh sang “phù Lê diệt Tây Sơn”.
Hành động đó là rước voi về giày mả tổ – một tội phản bội dân tộc. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, Lê Chiêu Thống là vua hèn nhát, yếu đuối, mù quáng, hơn là gian ác. Lê Chiêu Thống không hiểu rằng giặc nhà Thanh phương Bắc chẳng bao giờ “phù ai” mà không đòi chia phần đất nước.
Nhưng khi vua Quang Trung xuất hiện, đánh tan quân Thanh trong trận Ngọc Hồi – Đống Đa (1789), non sông được giải thoát, còn Lê Chiêu Thống phải sống nhục nhã ở Bắc Kinh. Sử chép: “Đến khi chết, quân nhà Thanh cũng chẳng thèm chôn cất tử tế.”
Tội của Lê Chiêu Thống chấm dứt trong một đời, nhưng là bài học muôn kiếp: Kẻ nào vì quyền lợi riêng mà quên đất nước dân tộc, ắt tự chuốc lấy ô nhục ngàn năm.

III. CỘNG SẢN VIỆT NAM – TỘI PHẢN DÂN HẠI NƯỚC LỚN NHẤT

Khi thế giới chia đôi sau Thế chiến II, phong trào cộng sản quốc tế lan rộng. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường theo chủ nghĩa Mác-Lênin, một học thuyết vô thần, xem giai cấp đấu tranh quan trọng hơn dân tộc, và lấy bạo lực làm phương tiện cứu rỗi.
Họ luôn nói “đánh Pháp, đuổi Mỹ, thống nhất đất nước” – nhưng ẩn dưới những khẩu hiệu đó là sự lệ thuộc tuyệt đối vào ngoại bang Liên Xô, Trung Cộng.

-Năm 1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp định sơ bộ Fontaineble ngày 6 tháng 3 năm 1946 cho phép quân Pháp trở lại Việt Nam để loại bỏ quân Tưởng Giới Thạch sang Đông Dương tước khí giới quân phiệt Nhật, để cố ý dùng thực dân Pháp làm trái độn cai trị các tỉnh thành quận huyện, để Việt Minh Cộng Sản có thời cơ tiêu diệt hết các đảng phái, thân hào, nhân sỹ đối lập với Cộng Sản. Sau đó mới độc quyền phát động chiến tranh “tiêu thổ kháng chiến “, “vườn không nhà trống” với thực dân Pháp ngày 19 tháng 12 năm 1946.
-Năm 1950, Việt Minh xin viện trợ Trung Cộng, chấp nhận đặt cố vấn Trung Cộng trong mọi cơ quan nhà nước Cộng Sản, thi hành chính sách giai cấp đấu tranh: “Trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.

Đến 1990, tại Hội nghị Thành Đô, Đản Cộng Sản Việt Nam chính thức quy phục Bắc Kinh, đặt sự tồn tại của đảng cộng sản vô thần lên trên độc lập tự do phú cường dân tộc.
Từ đó, Việt Nam bị trói chặt vào quỹ đạo Trung Cộng – kinh tế, chính trị, văn hóa, và cả biển đảo. Dân tộc mất tự do, đất nước mất chủ quyền, niềm tin vào truyền thống bốn ngàn năm Văn Hiến của dân tộc bị hủy hoại. Đảng Cộng sản đã bán nước không chỉ bằng thân xác con người, mà bằng cả linh hồn dân tộc: lấy tư tưởng Mác-Lê độc tài cộng sản tam vô ngoại lai thay thế truyền thống dân tộc, coi dối trá là quốc sách, lấy bạo lực che lấp công lý.

IV. CHỨNG TỪ TRONG NGỤC TÙ – “GÀ NHÀ BÔI MẶT ĐÁ NHAU”

Tôi từng bị giam trong trại tù cộng sản sau năm 1975. Một lần, khi đoàn cán bộ từ Bộ Nội Vụ Hà Nội về kiểm soát trại, họ nói với tù nhân chúng tôi rằng: “Cuộc chiến vừa qua là cuộc chiến giải phóng dân tộc.”
Tôi lên phản bác:
“Không, đó không phải là cuộc chiến giải phóng dân tộc. Đó là cuộc chiến ý thức hệ. Người Việt bôi mặt đá nhau để phục vụ cho hai khối quốc tế đối nghịch. Đó là “cuộc chiến gà nhà bôi mặt đá nhau.”

Cán bộ im lặng, các bộ nói sang chuyện khác. Ít lâu sau, tôi gặp một cán bộ học tập của Ban Giám Thị Trại Giam – một người có học và hiền lành. Tôi hỏi anh ta:
“Hôm trước tôi nói như vậy có làm phiền Ban Giám Thị và Tập Thể Cán Bộ Trại hay không?”

Cán Bộ ấy đáp:
“Trên nguyên tắc, chúng tôi không được dùng người Công Giáo trong hàng ngũ tự quản. Nhưng thật lòng mà nói, chúng tôi thấy người Công Giáo chấp hành nội quy tốt hơn: không cãi vã, không trộm cắp, giữ vệ sinh chung, sống có tình.”
Câu trả lời ấy, đối với tôi, là một tia sáng lương tri giữa bóng tối của nhà tù cộng sản.

Nhưng đảng viên cán bộ cao cấp cộng sản thì dối trá, mù quáng, tin theo chế độ cộng sản vô thần đến mức khó tưởng tượng –có lẽ vì cái chức tước, ghế ngồi của họ- một sĩ quan đi phép về trại, nói với tù nhân chúng tôi với giọng chân thành:
“Báo cáo cho các anh biết: Bác vẫn còn sống, mạnh khỏe. Hàng tuần vẫn có người đến tỉa râu và cắt móng tay cho Bác.”
Tôi nghe mà rùng mình. “Bác Hồ” đã chết từ lâu, mà họ vẫn tẩy não con người cộng sản bằng lời dối trá trắng trợn. Tôi hiểu rằng chế độ này không chỉ giam tù thân xác con người, mà còn giam cả lương tâm lương tri linh hồn con người trong mù quáng dối trá nữa.

V. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ

So với Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống, tội của Cộng sản Việt Nam nặng hơn gấp bội.
-Trần Ích Tắc phản bội vì tham vọng cá nhân.
-Lê Chiêu Thống phản bội vì yếu đuối, ngu muội, muốn bảo vệ ngai vàng cho dòng họ.
-Còn Cộng sản Việt Nam phản bội vì ý thức hệ vô thần, vì muốn giữ đảng hơn giữ nước.
Họ không chỉ rước giặc một lần vào đất nước dân tộc, mà còn rước cả tư tưởng ngoại bang vào cai trị dân tộc, để người Việt hận người Việt, ông bà cha con nghi kỵ nhau, con cháu, anh em đồng bào chém giết lẫn nhau trong cuộc chiến Quốc-Cộng, trong “đấu tố”, cải cách ruộng đất.
Nếu hai kẻ trước làm hại đất nước bằng gươm đao, thì Cộng sản làm hại đất nước dân tộc bằng sự dối trá, tuyên truyền và phá hủy đạo đức con người.
Đó là tội phản quốc sâu nặng nhất trong bốn ngàn năm lịch sử, vì nó biến dân tộc thành tù nhân của sợ hãi và vô cảm, khiến người dân nước Việt mất khả năng phân biệt thật giả, thiện ác.

VI. ÁNH SÁNG TỪ TIN MỪNG

Chúa Giêsu đã phán:
“Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, nào được ích gì?” (Mt 16:26)
Tội phản dân hại nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam -xét cho cùng- là tội bán linh hồn dân tộc cho quyền lực sự dữ. Kẻ bán nước không chỉ mất non sông đất nước, mà mất luôn cả phẩm giá danh dự và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, Thượng Đế, Trời Phật nữa.
Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống đã bị lịch sử kết án. Còn Cộng sản Việt Nam – nếu không sám hối, nều không cải cách đường lối chủ trương độc tài vô thần cộng sản, không trả lại sự thật cho dân, thì bản án của họ sẽ không chỉ nằm trong sử sách, mà còn trong lương tâm lương tri dân tộc đã có bốn ngàn năm văn hiến. Dân tộc Việt Nam sẽ chỉ thật sự được giải phóng khi chấm dứt dối trá, khi mỗi người dám nói sự thật, sống trong sự thật, và trở về với niềm tin nguyên tuyền của cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Vì sự thật sẽ giải phóng con người – như Lời Chúa dạy: “Sự thật sẽ giải thoát anh chị em.” (Ga 8:32).
Tóm lại, Lịch sử đã ba lần ghi dấu tội phản quốc, nhưng chỉ có lần thứ ba là vẫn chưa kết thúc. Chừng nào bóng ma của dối trá và ý thức hệ ngoại lai còn ngự trị, thì linh hồn dân tộc Việt Nam vẫn chưa được tự do. Và đó là điều khiến người viết và quý độc giả không thể im lặng./-

Nguyễn Xuân Tùng
Diễn Đàn Kitô-hữu
25-10-04

Không có nhận xét nào: