TRĂNG THU
THU CÔ ĐƠN
"Tôi viết vì đam mê viết, viết để làm đẹp cuộc đời và cũng cho tôi.
Viết phải vô tư, độc lập, trong suy nghĩ.Tôi thích cô đơn. Sự cô đơn làm tôi thấy tâm hồn mình thư thái hơn, khỏe mạnh hơn, nhiềusáng tạo hơn vì không vướng bận và lệ thuộc vào bất cứ một thứ gì.Thả những câu văn, ý thơ bay theo gió, trong một ngàn người đọc chỉ cần một người đồng cảm là sung sướng lắm như là tìm được người tri kỷ"Đêm thu, gió se sẻ lạnh. Khói trắng bay lên không đủ ấm, trăng mênh mang trên bầu trời xanh. Cái cảm giác buồn, cô độc lẻ loi như trăng.
<!>
Tỉnh tâm ....
đường Thu hoang vắng những bước chân miên man trên cái thảm vàng quanh co không biết về đâu? hãy quên đi những tất bật của cuộc đời, những hệ lụy của cuộc nhân sinh.thả hồn vào hương thu chất ngất, buông tâm trí vào trong cái vũng vàng úa của rừng thu.nghe như có tiếng hát của Thu ca ngợi tình yêu nắng thu xiên ngang trên vàng cây lá đỏ một chút nắng thu gầy lại những dạt dào đã chìm lắng trong tận cùng của đáy tim mặt hồ thu bềnh bồng sóng chôn vùi những mối tình thu tuyệt vọng gió thu lên cao xoáy mạnh vào những vết đau kỷ niệm của một cuộc tình tưởng đã phôi pha hương thu trên tóc, gió thu nhè nhẹ lướt qua trên từng phân vuông da thịt mơn man đưa ta về vùng ký ức của những lần bên nhau…
Thu phong, vàng bay trong nắng tiếng thu, những búp măng lướt nhanh trên phiếm làm rung động những nỗi niềm yêu có tiếng chim lạc đàn ngân thánh thót trong hoàng hôn tắt nắng
Thu đã về….
Đêm thu mây trắng treo trăng.
Ngắm trăng bỗng thấy lăn tăn giọt buồn.
Đi tìm nguyên thủy cội nguồn,
Mới hay cô độc trăng buồn trăng treo!
Trăng buồn, trăng trốn đáy hồ.
Giả làm Lý Bạch xuống hồ vớt trăng.
Hồ sâu sóng nước lăn tăn,
Tìm hoài chỉ thấy nếp nhăn đá buồn.!
Ôm trăng ru giấc mộng vàng.
Đưa tâm về cõi thiên đàng miên xuân.
Bỏ buông buông bỏ muộn phiền.
Tỉnh tâm ta đón nàng Thu mới về.
Vào Thu , đất trời năm nay sao mà buồn!. Không gian lan man nỗi niềm u uất.
Tỉnh lặng!
Nhớ mùa Thu năm nào lang thang trong rừng thu phong vàng lá.
Bạn thân,
có bao giờ bạn đứng một mình giữa rừng thu và để cảm giác cô đơn bất tận theo lá vàng về cõi thu vương?trong cái không gian tràn ngập một màu vàng của lá thu : kỷ niệm, tình yêu và những tiếc nuối về những mối tình thu đã qua trong cuộc đời sẽ làm bạn ngây ngất....tình thu cứ theo năm tháng mà bay đi, nỗi xót xa ở lại như những chiếc lá vàng về đất nằm yên trong ký ức rồi vào giây phút đó chợt bùng lên làm sống lại một quảng đời....với Thu
NGÕ VẮNG THU VỀ
Tháng mười thu đến lá vàng bay.
Sắc mỏng, sắc xanh, sắc da trời.
Mây trắng lang thang từ dạo ấy.
Vẫn còn mang nặng mối tình thu?
Mặt hồ xanh biếc một màu trăng.
Lăn tăn sóng nhỏ nhấp nhô buồn.
Rặng liểu buông lơi tình lơi lã.
Quyến rủ Hằng Nga buông ánh trăng.
Đường về ngõ vắng bước chân hoang.
Xóm nhỏ thu vang vọng tiếng tiếng đàn.
Tiếng thu gầy lại mùa thu chết.
Người cũ năm xưa nay về đâu?
Cây nghiêng lá đổ bóng hoàng hôn.
Ráng hồng ngây ngất chiều cô thôn
Từng bước chân di qua ngày cũ...
Nghe tiếng chim kêu..xót xa buồn!
Mùa Thu Và Mối Tình Già
( Viết tặng em và những người đàn bà đã từ lâu qua tuổi 20)
Chồng già hưu trí, vợ trẻ đi làm. Mỗi sáng cuối tuần em không bận đến sở, anh lại có dịp pha ly cà phê sữa cho em rồi chúng mình cùng ngồi thưởng thức...
Mặt đối mặt, hít thở hương thơm tràn ngập gian nhà bếp giúp đôi ta tỉnh giấc. Nhìn em, làm dáng qua lớp phấn hồng vừa thoa lên má, mái tóc chải vội còn ướt long lanh buông xuống cạnh bờ môi có nụ cười muôn thuở... Anh thấy xuân về giữa mùa thu.
Phải nói ngay, anh thích cử chỉ làm dáng ấy vì ý tứ không suồng sã làm tăng phần tươi mát ở người đàn bà dày dạn ân tình mà tuổi hai mươi đã qua từ mấy thập niên! Người cũ nhưng vẫn mới khi đứng bên anh như cảnh đầu ngày trước ánh bình minh... Anh âu yếm chiêm ngưỡng mùa xuân mang lớp vỏ mùa thu bọc ngoài.
Câu chuyện cuối tuần về tin tức các con được trao đổi tự nhiên giữa vợ chồng. Hôm vui thì lạc quan như nắng ban mai nhảy múa trên những đóa hoa vừa nở nhưng cũng có lúc u sầu giống cơn mưa đêm nặng hạt chưa dứt vào lúc hừng đông.
Trách chi những con chim non rời tổ ấm, cất cánh bay xa tìm sự nghiệp và hạnh phúc phía chân trời... Chúng đang bươn trải sống đời tự lập nên đành tạm xa bố mẹ già với bao kỷ niệm êm đềm năm xưa. Ở thời đại đảo điên hôm nay, khó đoán trước nền hòa bình vững chãi cho xã hội và thế giới. Làm cha mẹ, hai đứa mình chỉ còn biết chắp tay cầu nguyện mong thế hệ chúng sẽ may mắn có một ngày mai tươi sáng.
Còn lại đây trong căn nhà nhỏ, mối tình già của đôi ta đang đi vào thu. Thu tháng mười trên vạn vật là nghĩa đen, bên cạnh còn hình ảnh mùa thu âm thầm lướt qua hình hài chúng ta là nghĩa bóng. Chân dung hai mùa thu chẳng hẹn mà cùng đến theo chu kỳ, định luật của một kiếp người.
Anh biết mình đã già! Chiếc lá vàng bắt đầu cằn cỗi và người tình trăm năm ngồi trước mặt cũng chẳng còn thuở lá đơm xanh nhưng sáng nay lòng anh bỗng se lại... Chẳng phải tại hơi thu lành lạnh thổi vào từ khu vườn nhỏ mà vì chợt thấy những nét tàn phai bắt đầu đậm rõ trên khóe mắt, làn môi em: Dấu chân chim mỗi ngày một dài cộng với bờ môi đã lạt màu theo năm tháng...
Ba mươi năm trước, cũng đôi mắt to ấy đã in toàn cảnh ngày hạnh phúc của cuộc đời cô thiếu nữ sửa soạn về nhà chồng... Đến bây giờ, sức quyến rũ vẫn đầy nhưng nét tinh anh ẩn hiện bóng dáng một mùa thu ảm đạm. Đôi môi khêu gợi này đã bao lần hôn say đắm, yêu đương bỏng cháy để rồi hôm nay in dấu những nếp nhăn tình ái.
Em đã qua mùa xuân con gái, kế tiếp sẽ là mùa thu cuộc đời. Mùa thu của em từ nay mất hẳn hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà chỉ có lá vàng khô la đà rụng từng cành! Vẻ đẹp mỗi mùa khác nhau... Nếu xuân rộn ràng thì thu hiu quạnh nhưng mùa nào chúng ta cũng có thể mang vào nhịp sống buồn vui lãng mạn của riêng mình.
Em vẫn đẹp nhưng cái đẹp của mùa thu như những bài thơ tình mùa thu bất hủ. Anh nguyện sẽ làm phu quét đường, đêm đêm gom lá vàng dưới chân cho con đường tình cuối ta đi gọn gàng thông suốt rồi nếu có thể, lẳng lặng đếm từng chiếc lá để làm bằng chứng yêu em... Bao nhiêu lá bấy nhiêu tình! Hãy giữ mùa thu bên mình, đừng đi mỹ viện bởi kiếp hoa có bao giờ nở hai lần...
Còn lại những mùa thu tha hương cuối cùng bên nhau. Trời sắp sang thu ở Cali nhưng nơi đây, thiếu cảnh mưa phùn gió bấc, gói heo may bên nhà. Anh nhìn thấy em cũng vừa vào thu. Anh yêu mùa thu... cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Cố giữ dáng thon gọn, vẻ đẹp đơn thuần giản dị giống khuôn mặt trong sáng trước ly cà phê buổi sáng hôm nay em nhé! Nó đã tạo niềm vui và hứng khởi cho anh viết những dòng cảm xúc chân tình này...
Mai đây, khi đông về, có một mùa thu sẽ vĩnh viễn ra đi, mùa thu ấy không bao giờ trở lại để rồi người đi kẻ ở chỉ còn nỗi niềm thương tiếc khôn nguôi. Hiểu chân lý đó, chúng ta nên lãng mạn và lạc quan chấp nhận mùa thu cuộc đời rồi điều chỉnh hạnh phúc mối tình già với những gì đang có hôm nay…..
MÙA THU TÓC NGẮN
Em thu tóc ngắn dịu dàng...
Mơ màng thả mộng ngắm thu sang.
Thả vào thu tím ngàn nỗi nhớ
Giữ lại trong tim chỉ tình thu.
Em đến rừng thu lá đổ vàng.
Ngàn muôn lá rụng đón thu sang.
Tiếng thu vang vọng chừng vô tận.
Khiến trái tim em đập vô thường!
Anh gởi tình thu vào mắt em.
Để cho mắt biếc đẩm hương vàng.
Để cho xao xuyến hồng tim đỏ.
Mãi mãi tình thu trong tim em.
Ta gởi tình thu qua khung cửa.
Gõ phiếm thu vang từ đáy tim.
Bên kia vô tận em có biết?
Ta vẫn đợi chờ Thu, Thu ơi!
PHỐ THU TORONTO.
Lang thang phố vắng chiều Thu mà nảo nề cho cuộc nhân sinh. Tạt ngang Tim Hortons order ly cà phê nóng. Cái chất đen như đánh thức cái rạo rực của mùa Thu đang đến….
Nhặt lá vàng dọc theo mấy rảnh đất vườn sau, cái hàng rào gổ dầy đặc lá Ivy xanh mướt vào mùa hè giờ đã vàng úa một màu điểm dăm ba lá đỏ.Tôi đem cái chậu bông giấy vừa mới nở dăm nụ vào nhà treo dưới skylight, nhiệt độ ngày thu xuống thấp có thể làm chết cái chậu bông giấy đã bỏ công nuôi dưởng hai năm qua. Quà của con gái tặng vào ngày Fatherday.Tiếc một mùa hè nắng ấm có tiếng chim ca, có màu hồng của hoa giấy nổi bật trên cái hàng rào xanh lá….....tôi trở lại SàiGòn vào những ngày thu. Không như Hà Nội trời thu se sắt lạnh, SàiGòn vẫn nóng nhưng nhẹ nhàng, ngắm những giàn hoa giấy đỏ trên những góc khuất trong những con hẻm nhỏ cảm giác bình yên chợt đến rồi tự hỏi có nên chọn hoa giấy là biểu tượng của Thu SàiGòn?
Thu đã đến rồi ai biết không?
Chất ngất hương thu lá trải vàng.
Vàng thu, đỏ lá tình vương vấn.
Có tiếng thu buồn nhẹ lá rơi!
THU VÀ THI NHÂN
Lưu Trọng Lưu Với Bài Thơ Tiếng Thu.
Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới.
Quả đúng vậy, và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài thơ ra, nó không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây là bài hay nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca Việt Nam hiện đại:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô...
Tương truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà một người bạn. Rồi nhân cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi non. Lưu Trọng Lư bèn vịnh ngay bài thơ này. Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng Lư thức dậy và toả hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là tiếng ca phàm tục của người đời...
Lưu Trọng Lư (1912-1991) là người làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại nho học. Nhắc đến Lưu Trọng Lư, thi sĩ tiền chiến, chúng ta liên tưởng đến những "xung đột" tư tưởng Đông Tây qua những trận bút chiến và khẩu chiến giữa thơ mới và thơ cũ ở những năm của thập niên 1930 Việt Nam. Lưu Trọng Lư là một trong những người tiên phong khởi xướng, khai phá, cổ vũ cho phong trào thơ mới và sau đó, khi thơ mới được ủng hộ, cũng chính ông đã ra công hàn gắn những vết thương của cuộc "xung đột" tư tưởng mới và cũ này. Ông cho rằng nền văn học cổ điển Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng tam giáo Lão-Phật-Khổng, là một lâu đài cổ, một ngôi cổ mộ và, người trẻ nhìn lại với con mắt kính yêu nhưng chẳng bao giờ họ muốn trở về.
Ông là người thiết tha đến tinh thần dân tộc trong văn chương hơn ai hết, ông từng viết: "Xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, chưa bao giờ chúng ta là những người Việt Nam cả. Ta chỉ muốn sống không, hưởng thụ những của sẵn và làm con ve thơ của ngụ ngôn. Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ điệu thơ nhỏ nhặt, đến đạo lý cao xa".
Có lẽ nhờ tình tha thiết dân tộc mà cuộc bút chiến thơ cũ và mới đã kết thúc bằng tình thương của những người thuộc hai thế hệ, bằng những cảm thông giữa những đứa con cùng chung một giòng máu Việt. Giòng máu Việt thúc đẩy từng thế hệ sẵn sàng đứng lên chịu trách nhiệm trước lịch sử, sẵn sàng chấp nhận cho thế hệ mới chung lưng và sẵn sàng an tâm lùi bước bàn giao sự nghiệp.
Lịch sử xã hội thay đổi, con người không thể đứng im. Tâm hồn con người chuyển đổi thì chế độ xã hội cũng phải đổi thay. Hãy mở tay cho thế hệ mới trở mình.
THU VÀ THI NHÂN
Huy Cận và Thu.
Mùa thu trong thơ Huy Cận được nhận xét là sự thể hiện cảm xúc da diết và tính triết lý sâu sắc về kiếp người (Nhạc sầu…). Dung hòa hơn, lồng trong tâm trạng u buồn đau đáu của một chiếc linh hồn nhỏ/ mang mang thiên cổ sầu… (Ê chề) là sự rung động và cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước không gian mùa thu thật buồn, đẹp, sâu lắng. Thu rừng là bài thơ tiêu biểu với hình ảnh, ý, tình, âm điệu, nhạc điệu cấu trúc thơ lạ, tạo được sự lan tỏa êm ái trong tâm tình con người và cả cảm xúc rung động mạnh mẽ, chất chứa nỗi u buồn man mác:
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp, giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng
Sầu thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
10 câu thơ lục bát gói gọn toàn cảnh không gian chớm thu thật mới mẻ. Sự mới mẻ này bao gồm cả nội dung lẫn hình thức. Dự cảm cái mới đầu tiên là dấu hiệu đổi thay của thời tiết. Nhưng, để cắt nghĩa cho cảm xúc và cảm hứng vì sao nỗi buồn bất chợt đến là điều khó giải bày. Thời gian đang trôi, mây bay lũng thấp lãng đãng, nhịp thơ chầm chậm; còn không gian, dường như có lúc đứt nối khi thiên nhiên chuyển đổi sắc màu từ khung cảnh bình thường bỗng chuyển sang u trầm:
Bỗng dưng buồn bã không gian,
Mây bay lũng thấp, giăng màn âm u.
Đi giữa rừng phong của mùa thu nơi đây tôi đã nhớ
về thu xưa và cố nhân nghìn trùng xa cách....
Không gian trong Thu rừng đang dịch chuyển theo góc nhìn từ xa đến gần của nhà thơ. Huy Cận thể hiện khá đa dạng qua từ, âm điệu, nhịp điệu, ngữ pháp câu…
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây với buồn chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
Khi ngoại cảnh tác động đến nội tâm, hồn thơ của Huy Cận càng bộc lộ thấm thía nỗi buồn bã, cô đơn của con người. Cảnh và người như hòa quyện qua cụm từ đối xứng, láy đi láy lại, hết sức dạt dào và da diết:
Sầu thu lên vút song song,
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Sự tăng cấp của nỗi buồn lan tỏa theo không gian và dằng dặc theo thời gian. Trong mắt nhà thơ dãy núi xanh xa xa cũng đắm say trước phong cảnh buồn và đẹp của chiều thu. Đặc biệt, từ “ngây” trong hai câu thơ cuối của bài thơ như có một hấp lực tạo nên một khung cảnh với cảm xúc thật tuyệt vời:
Non xanh ngây cả buồn chiều.
Cố nhiên, cảm xúc “ngây” ở đây không giống với cái “ngây” của Hồ Tôn Hiến lúc nghe Kiều đánh đàn Lạ thay mặt sắt cũng ngây vì tình. Nếu câu thơ trên, Nguyễn Du phân tích tài tình cái “mặt sắt” đang được “tháo dở” để hiện ra bản chất háo sắc của Hồ Tôn Hiến qua từ “ngây”- say đắm thì câu thơ của Huy Cận mô tả cảm xúc ngất ngây thật dạt dào, như sự cộng hưởng của tạo vật trước cảnh sắc, trước cái đẹp hoang sơ, thuần khiết của trời và đất, của một đêm thu …
THU VÀ THI NHÂN
Cung trầm Tưởng và Thu.
MÙA THU PARIS
...Paris vẫn là điểm đến của những chuyến đi đã hoạch định bao nhiêu lần mà vẫn chưa thực hiện được. Paris với những kiến trúc cổ điển như một sức hấp dẩn cho giấc mộng hải hồ.
Tôi thích đường nét nhẹ nhàng thanh cảnh của kiến trúc tân kỳ Paris. Những hình ảnh trong Architecture Francais trong những ngày nơi trường xưa nào có quên. Và bây giờ ngồi đây trước monitor tôi lại trầm tư về Paris của Cung trầm Tưởng....
Hãy nghe người Paris kể về thu Paris.....
Thập niên 50, thơ Cung Trầm Tưởng đã có sắc thái rất mới và lạ, từ hình ảnh, ngôn từ và nhạc điệu luôn luôn được tác giả diễn tả bằng một tâm trạng kỳ thú với tất cả sự rung cảm chân thành. Bài thơ nói trên là bài ngũ ngôn Chưa Bao Giờ Buồn Thế, Phạm Duy phổ nhạc đổi thành Tiễn Em. Thông thường lúc tiễn nhau người ta thường nói những lời tiễn biệt, thì thầm những câu hứa hẹn, người ta bịn rịn nắm tay nhau mà dặn dò, an ủi, khích lệ, khuyên răn… Riêng Cung Trầm Tưởng, ngôn ngữ từ biệt người tình của ông rất “tịch lặng, vô ngôn”, nghĩa là ông không thèm nói một lời nào hết, ngoài cử chỉ và hành động rất Tây, rất Cung Trầm Tưởng:
hôn.
Năm 1954, Cung Trầm Tưởng mới ngoài 20 đi Tây du học. Đối với giới trẻ Việt Nam, nước Pháp lúc đó là thiên đàng mộng mơ, là ước vọng của một thời. Khi đặt chân tới Kinh Đô Ánh Sáng Paris, thi sĩ đã phơi phới một mối tình với cô gái mắt nâu, tóc vàng sợi nhỏ. Từ đó bài thơ Mùa Thu Paris ra đời trong bối cảnh lãng mạn, trữ tình, giàu chất thơ, thấm đẫm một vẻ đẹp của tình người dị chủng:
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục-Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm
Mùa thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu.
(Mùa Thu Paris)
Người Việt Paris: Chị Việt đã kể Paris như trên, còn tôi thì vọng tưởng Paris khi mùa thu trở về trên những quán cà phê vĩa hè, những ly rượu vang đỏ trên tay mà nhớ đến má em hồng, môi em mềm khi nuốt vội nụ hôn.....
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng…
(Chưa Bao Giờ Buồn Thế)
Thời gian không chờ ai, vẫn lặng lẽ trôi về phía trước. Ngày nay mỗi khi nghe lại những bài nhạc Phạm Duy/Cung Trầm Tưởng, tôi vẫn nghĩ rằng thi sĩ Cung Trầm Tưởng luôn luôn lắng nghe hồn mình trải rộng trên những toa tàu và thầm ước tìm lại chút hơi thở của một thời vọng lại. Ở đó, trên nền tảng của không gian và thời gian đã dựng nên một thời Paris, có phố cổ Mouffetard với quán xá vỉa hè và những cửa hàng truyền thống, có dòng sông Sein mặc áo sương mù, có tranh trường phái Ấn tượng Monet, Renoir và tranh chủ nghĩa Lập thể Braque, Picasso chưng trong những viện bảo tàng, có huyền thoại và văn hoá Honoré de Balzac, Victor Hugo, Alexandra Dumas, Marcel Proust, André Gide, Albert Camus, J.P.Sartre, Saint Exupéry…, có một chút âm nhạc mang hơi hướm thu về từ vườn Luxembourg v.v… Cho tới bây giờ, Cung Trầm Tưởng vẫn coi Paris như là người tình muôn thuở trong tâm hồn nghệ sĩ của ông.
Mùa Thu ở Thousand Islands USA - CANADA
Câu chuyện tình của một nhà triệu phú Mỹ vào đầu thế kỷ 20 còn ghi dấu lại trên một hòn đảo của Thousand Islands mà ngày nay người ta đặt tên cho nó là hòn đảo tình yêu (Heart Island).
George Boldt là một cậu bé người Đức, di dân sang Mỹ với hai bàn tay trắng và khởi đầu làm việc trong một nhà bếp khách sạn. Nhờ vào sự cần cù và thông minh, ông
nhanh chóng trở thành chủ nhân nổi tiếng của các khách sạn tại New York và Philadelphia.
Tháng Bảy, 1893, George Boldt đã có dịp đến Thousand Island và ông đã yêu ngay không gian ở nơi đây, Thousand Islands lôi cuốn ông khiến ông đã quay trở lại đây
nhiều lần. Năm 1895, ông quyết định mua hòn đảo Heart Island và cho xây một lâu đài theo phong thái kiến trúc bên Đức nơi quê hương của ông thuở ấu thơ (Rhineland Castle) để tặng cho người vợ Louis yêu quý của ông. Ngôi lâu đài này được mệnh danh là lâu đài tình yêu “Heart Castle.”
Công viên trên Heart Island.
Ngôi lâu đài được thiết kế với 120 phòng và ông đã chi ra hơn $2.5 triệu (thời đó) để xây cất, nhưng tất cả đã phải ngưng lại chỉ vì một bức điện tín, hơn 300 nhà thiết kế và xây dựng phải bỏ dở các công trình làm việc. Họ thu xếp rời khỏi đảo Heart Island và không bao giờ quay trở lại nơi đây để hoàn tất công trình của họ.
Nội dung của bức điện tín là báo tin bà Louis đã qua đời một cách đột ngột. Uyên ương đã gãy cánh nên tình yêu đành dang dở và lâu đài tình yêu cũng không bao giờ hoàn tất. George Boldt đã không màng đến Boldt Castle nữa từ khi vợ ông chia tay ông đi trước.
Ngôi lâu đài này đã không bao giờ hoàn thành và để trống như thế suốt 73 năm. Ngôi lâu đài làm tôi chợt nhớ ngôi lâu đài thần tiên Neuschwanstein Castle của nhà vua Ludwig II bên Đức, ngôi lâu đài thần tiên cũng bị bỏ dở sau khi nhà vua mất. Nhưng hai lâu đài mang hai ý nghĩa khác nhau. Tôi ngưỡng mộ tình yêu của George Boldt tỷ phú hơn tình yêu của một vị vua.
Mùa Thu nơi đây không phải chỉ đẹp với lâu đài tình yêu của George Boldt ở Thousand Islands mà còn đẹp với toàn không gian vùng Bắc Mỹ như Niagara Falls, Montreal, Quebec, New England. Nhưng riêng không gian Thousand Islands chắc hẳn sẽ là một nơi chốn làm lưu luyến bước chân của người du khách. Mùa Thu Thousand Islands làm tôi chợt nhớ đến đôi lời cuối bài hát “Thu Vàng” của Cung Tiến: “Chiều hôm nay trời nhiều mây vương/Có mùa thu vàng bao nhiêu là hương.”
Nếu bạn hỏi tôi, tháng nào đẹp nhất để du ngọan Thousand Island? Xin trả lời từ Tháng Năm đến Tháng Mười Một. Còn nếu bạn hỏi mùa nào đẹp nhất ở Thousand Islands thì tôi sẽ không ngần ngại trả lời ngay, mùa Thu.
ÂM NHẠC VÀ THU
MÙA THU QUA NHỮNG RUN… ĐỌNG TỪ NỐT NHẠC…
CUNG TIẾN và Thu vàng, Hương xưa, Hoài cảm.
Với ba sáng tác trác tuyệt là Hoài Cảm, Thu Vàng và Hương Xưa lần lượt ra đời vào năm ông 14, 15 và 16 tuổi, Cung Tiến được xem như một hiện tượng âm nhạc Việt Nam.
Có thể gọi Cung Tiến là nhạc sĩ của mùa thu vì nhạc ông phảng phất hương tiền chiến, một chút lãng mạn của Xuân Diệu, một chút trữ tình đượm nét thiên nhiên của Huy Cận. Tôi đã nghe qua hầu hết những bản nhạc do ông sáng tác và chọn ra những bản nhạc say đắm lòng người như Hương xưa, Hoài cảm, Thu vàng...
Chúng ta hãy cùng nghe nhạc Cung Tiến và đọc những bài thơ viết từ những rung cảm khi thưởng ngoạn nhạc của ông....
Thu vàng
Sáng tác: Cung Tiến
Hương xưa
Sáng tác: Cung Tiến
HOÀI CẢM
Sáng tác: Cung Tiến
Mùa thu Canada bắt đầu vào khoảng cuối tháng 9, đó cũng là thời gian của Thanh Tịnh với tản văn nổi tiếng cho ngày tựu trường : "Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường."
Tháng 9, tháng mười với những nao nức của học trò năm xưa, kỷ niệm trải dài từ quá khứ....Cái tuổi học trò mộng mơ và những mối tình say đắm.
Đêm sách vở gục đầu trôi theo mộng...
Động hoa vàng ta lại đến tìm em.
THÁNG 9 MÙA THU
Tôi yêu màu trời thu trong vắt, hiền hòa; những dải mây trắng bàng bạc bay ngang trời. Yêu những sợi nắng vàng như mật ngọt, những cơn gió heo may lả lướt trên lá cành. Và yêu hơn những loài cỏ hoa, màu vàng của lá. Tôi đứng ngẩn ngơ giữa tiết trời se sẽ mà bâng khuâng, nhung nhớ.
Mùa thu bắt đầu gọi về những cơn mưa tầm tã, dai dẳng ngày qua ngày. Nước thu trở nên xanh, nên trong hơn. Lao xao trên từng cây lá, sắc thu đang khoác lên mình màu áo mơ phai đẹp mắt.
Thu về trong niềm vui của lớp lớp đàn em tung tăng đến trường với niềm hân hoan ngời sáng. Những tà áo trinh nguyên, những nụ cười tỏa nắng, những bài học ý nghĩa. Tuổi học trò hồn nhiên, thơ mộng. Còn gì đẹp hơn thế.
……………….
"Mùa thu mặc áo da trời." (1)
Lá vàng cài tóc tóc huyền hương bay.....
(1)thơ Phạm thiên Thư
MÙA THU QUA NHỮNG RUNG… ĐỌNG TỪ NỐT NHẠC…
Mùa thu cho em.
Sáng tác: Ngô thụy Miên
Khi nhắc tới mùa thu, người ta thường liên tưởng tới bầu trời với những đám mây màu xám lũ lượt kéo nhau về vây kín cả không gian. Cây cối như đứng im buồn bã, những chiếc lá như chẳng lưu luyến cành.Lá vàng ngập trời, gió thu hiu hiu khẽ thổi cũng đủ làm lá rụng rơi. Mùa thu thường mang sắc màu của sự ảm đạm, của những nỗi buồn.Ấy thế mà với nhạc sĩ Ngô Thụy Miên mùa thu trải ra lại đẹp đẽ dịu dàng. Ông như đang lắng nghe tiếng gọi của mùa thu. Âm thanh của chiếc lá rụng, của con nai vàng ngơ ngác đạp xào xạc trên lá vàng khô cũng được ông lắng nghe một cách tinh tế.
Mưa mùa thu nhẹ nhàng tí tách, làn gió nhẹ hiu hiu thổi nhưng lại làm cho tâm hồn của nhạc sĩ ngây ngất mà chẳng thấy vẻ của cô liêu.
Vạn vật đang thay cho mình chiếc áo mới và con người cũng chậm bước lại để cảm nhận điều tuyệt diệu của cuộc sống. Cảm xúc ấy được nhạc sĩ ví von như ‘‘trái tim vương màu xanh mới’’. Đó như lời nhắc nhở rằng, thu sang rồi tâm hồn ta cũng cần phải khoác lên nó một chiếc áo mới, một sức sống mới, tình yêu và niềm hi vọng.
Em có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ
em có nghe nai vàng hát khúc yêu đương
Và em có nghe khi mùa thu tới
mang ái ân mang tình yêu tới
em có nghe nghe hồn thu nói mình yêu nhau nhé
Em có hay mùa thu mưa bay gió nhẹ
em có hay thu về hết dấu cô liêu
Và em có hay khi mùa thu tới
bao trái tim vương màu xanh mới
em có hay hay mùa thu tới hồn anh ngất ngây
Có thể thấy rằng, tình cảm dành cho mùa thu được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên thể hiện vừa lãng mạn, vừa kín đáo nhưng vẫn có sự nồng nàn say đắm theo nhịp của yêu thương vốn sẵn có trong con tim yêu được thể hiện qua từng bản tình ca của ông.
Cái đặc biệt của ca khúc Mùa thu cho em có lẽ chính là con mắt nhìn đầy lạc quan về cuộc sống của nhạc sĩ. Người ta có thể dệt lên những ca từ mang sắc vẻ buồn bã, của sự ảm đạm, hay vẻ cô liêu, nhưng với Ngô Thụy Miên, ngay cả trong cái buồn cũng vẫn đẹp. Nắng úa nhưng lại đẹp như hàng mi của em, nắng thu nhè nhẹ lại đủ làm cho đôi má em hồng, đôi môi nhạt nhưng lại thơm nồng. Dẫu mùa thu có làm người ta bồi hồi như người đang đợi chờ thì nó cũng đẹp thơ mộng như thể anh đang chờ em, chờ người yêu thương.
Mùa thu cho em
Sáng tác: Ngô Thụy Miên
MÙA THU QUA NHỮNG RUNG… ĐỌNG LẠI NỐT NHẠC…
VĂN CAO và Buồn tàn thu
Nhạc sĩ Văn Cao viết Buồn Tàn Thu khi ông mới 16 tuổi. Trước đó không biết là có bài hát nào khác hay không, nhưng sau này người ta thường nói Buồn Tàn Thu là sáng tác đầu tay của Văn Cao.
Bài hát đầu tay của một thư sinh 16 tuổi, nhưng đã trở thành bất tử, nổi tiếng suốt hơn 70 năm qua. Ở cái tuổi mà hiện nay người ta vẫn ăn chưa no, lo chưa tới, thì ở thời điểm giữa thập niên 1940, vào cuộc giao thời của lịch sử đất nước đang diễn ra với đầy những mảng tối, có một chàng thư sinh 16 tuổi đã viết được một ca khúc như Buồn Tàn Thu. Đó chính là sự khác biệt của một thiên tài.
Buồn Tàn Thu – bài hát đánh dấu một thiên hướng sáng tác riêng biệt của ông trong buổi đầu tân nhạc – Những ca khúc vương nét cổ phong mang một nỗi sầu miên man, nhưng lạ thay lại có thể mang đến cảm giác rất dễ chịu và thăng hoa cho cả người hát lẫn người nghe. Ai có thể hiểu được vì sao một chàng thiếu niên 16 tuổi đã có thể cảm nhận thế nào là “kề má say xưa” và “tình xưa còn đó xa xôi lòng”, hay có thể nghe được “tiếng thu đang tàn” xa dần vời vợi ngoài sương gió, như nỗi lòng của một người con gái bẽ bàng vấn vương… Chàng Văn Cao nghe được, hiểu được, và chép lại được bằng nhạc, để hơn 70 năm sau, hậu sinh vẫn có thể nghe được tiếng mùa thu đang chết rơi theo lá vàng. Ở thời điểm mà Văn Cao vẫn còn đang say sưa viết loại nhạc bay bổng lãng mạn, chưa bị nhuốm màu chinh chiến, người ta có thể thấy được cái chất “thần tiên” trong nhạc của ông. Sử dung chất liệu của văn thơ cổ, giống như bài Trương Chi và Thiên Thai sau này, ca khúc Buồn Tàn Thu mang dấu tích của câu chuyện Chinh Phụ Khúc. Nét cổ phong được thể hiện rõ ở câu hát: Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên Chim với gió bay về: chàng quên hết lời thề… Người chinh phụ đêm đêm chờ chồng, nghe những tiếng bước độc hành trong sương gió ngoài kia. Biết bao lần nàng mong đó là bước chân của người yêu trở về. Nhưng hỡi ôi, những ái ân ngày cũ, những lời hẹn thề xưa nay đã trở thành xa xôi, rồi cũng đã cuốn theo những chiếc là mùa thu cuối cùng đang dần tàn rơi.
Từ bản thu đầu tay này, Văn Cao còn bị “ám ảnh” bởi những mùa thu buồn khác sau này, với Thu Cô Liêu, Suối Mơ. Ông đã chia sẻ cảm nhận của mình về mùa thu như sau: “Có lẽ cuộc đời sinh ra tôi ở mùa thu. Đấy là những ngày sinh nhật của tôi lại vào mùa thu. Và không hiểu tại sao thơ mà tôi chịu ảnh hưởng thì đều là những bài thơ vào mùa thu. Và với bản thân tôi thì mùa thu nó có cái ấm, có cái se lạnh vào cuối mùa, cũng là những ngày có nhiều tưởng tượng nhất”.
Như một định mệnh, nhạc sĩ Văn Cao đã trút hơi thở cuối cùng vào một ngày đầu Thu năm 1995
Hãy nghe Văn Cao viết về thu... qua lời trần tình của Thái Thanh.
BUỒN TÀN THU
MÙA THU QUA NHỮNG RUN… ĐỌNG TỪ NỐT NHẠC…
ĐẶNG THẾ PHONG và Giọt mưa thu.
Giọt mưa thu là nhạc phẩm cuối cùng của cố nhạc sĩ Đặng Thế Phong được ông viết vào những ngày cuối đời trên giường bệnh năm 1942. Ban đầu bản nhạc mang tên Vạn cổ sầu, nhưng theo ý một vài người bạn, ông đặt lại là Giọt mưa thu cho bớt sầu thảm hơn.
Giọt mưa thu được xếp vào những ca khúc hay nhất của tân nhạc Việt Nam. Phạm Duy cho rằng Giọt mưa thu cùng hai nhạc phẩm khác của Đặng Thế Phong khởi đầu cho dòng "nhạc thu" Việt Nam đã được Văn Cao và Đoàn Chuẩn tiếp nối. Nhiều ý kiến cho rằng Trịnh Công Sơn đã ảnh hưởng bởi Giọt mưa thu khi viết bản nhạc đầu tay Ướt mi.
"Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn cổ sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt mưa thu. Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là dòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong - Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng? Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về."
Những nốt nhạc cuối cùng của Đặng thế Phong …..
Giọt Mưa Thu.
Sáng tác: Đặng Thế Phong
MÙA THU QUA NHỮNG RUN… ĐỌNG TỪ NỐT NHẠC…
HOÀNG TRỌNG và Ngàn thu áo tím.
by Mẫn Nhi
“Áo tím viền tơ, áo tím mơ
Mặc chi áo tím, áo ngàn thơ
Để tên lãng tử thêm vương vấn
Miên man ảo vọng… hút thu chờ”
Đó là những câu thơ về tình cảm của chàng lãng тử dành cho người con gái mang màu áo tím của nhà thơ Nguyên Thạch trong Áo tím ngàn thơ. Nếu thơ có Áo tím ngàn thơ kể về một chiều thu với mối tình vấn nương, ảo vọng thì trong nhạc có Ngàn thu áo tím của Hoàng Trọng và Vĩnh Phúc lại là một chiều thu bên màu áo tím trong cảnh buồn xa cách của hai người yêu nhau. “Ngàn thu áo tím” là một ca khúc иổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Trọng, nhưng ít ai biết đến lời bài hát này là của Vĩnh Phúc.
Không có nhiều thông tin về Vĩnh Phúc , chỉ biết rằng Vĩnh Phúc thuở ấy là một cô gái với tên đầy đủ là Lưu Thị Vĩnh Phúc, sinh năm 1937 và là con của Mục sư Lưu Văи Mão. Mục sư Lưu Văи Mão là một nhà thơ иổi tiếng với tập thơ “Nam sơn thi phẩm” (1971). Sinh thời, nhạc sĩ Hoàng Trọng và Mục sư Lưu Văи Mão như đôi bạn tri kỷ, thường đàm đạo chuyện đời. Có lẽ đây cũng là cơ ᴅuyên cho những sáng tác sau này mang tên Hoàng Trọng –Vĩnh Phúc.
Nhạc sĩ Hoàng Trọng
Nhạc sĩ Hoàng Trọng (1922-1998) là một nhạc sĩ nổi tiếng, được mệnh danh “Vua Tango” của nền âm nhạc Việt Nam. Trong khoảng 200 nhạc phẩm của Hoàng Trọng, ông chỉ đặt lời khoảng 40 bài. Số còn lại là do sự kết hợp giữa ông và các nhạc sĩ khác như: Hồ Đình Phương, Hoàng Dương, Nguyễn Túc,…. Và trong đó có sự kết hợp giữa lời của nhà thơ Vĩnh Phúc và nhạc sĩ Hoàng trọng. Những ca khúc иổi tiếng mang tên hai người như: Cánh hoa yêu, Người tình không chân ᴅung, Nhạc sầu tương tư và Ngàn thu áo tím.
“Ngàn thu áo tím” là một nhạc khúc với điệu Valse nhịp nhàng, kể về một một bức tranh lãng mạn bao trùm bởi một màu tím.
Ngày xưa xa xôi em rất yêu màu tím
Ngày xưa vô tư em sống trong trìu mến
Chiều xuống áo tím thường thướt tha
Bước trên đường gấm hoa
Ngắm mây chiều lướt xa
Ngày xưa xa xôi khi em biết anh, em là cô gái rất yêu màu tím, “em sống trong trìu mến”. Đó là những ngày tháng em khoác mình áo dài sắc tím, đi trên con đường gấm hoa trong những tháng ngày êm đềm “ngắm mây chiều lướt xa”. Đó là một cuộc sống nên thơ và rất dịu dàng với sắc tím. Nhưng khi biết anh rồi, anh không thích màu tím của chia ly, nên “anh bắt xa màu tím”.
Từ khi yêu anh anh bắt xa màu tím
Sầu thương cho em mơ ước chưa kịp đến
Trời đã rét mướt cùng gió mưa
Khóc anh chiều tiễn đưa
Thế thôi tàn giấc mơ
Nhưng màu tím không mang chia ly cho em, nhưng lại phải “khóc anh chiều tiễn đưa”. Anh bảo màu tím là màu buồn, màu chia xa, anh không muốn chuyện mình như màu tím. Em đã chia xa màu tím rồi, nhưng sao anh vẫn ra đi? Chiều hôm ấy, trong “rét mướt cùng gió mưa” em đành tiễn anh đi xa trong sầu thương, chuyện tình ta cũng khép lại từ đó, giấc mơ nay cũng tàn.
Anh xa xôi bóng mưa giăng mờ lối
Anh xa xôi áo bay trong chiều rơi
Anh xa xôi áo ôm tim lẻ loi
Tím lên khung trời nhớ nhung đầy vơi
Bóng mưa mờ lối anh đi rồi, chiều rơi áo bay, áo ôm trái tim lẻ loi. Anh ra đi trong khung trời tím bao trùm những nhớ nhung đầy vơi. Đoạn điệp từ “anh xa xôi” như khắc sâu nỗi đαυ của cô gái ấy trong một chiều mưa giăиg ngập lối. Nỗi đαυ ấy như được nhân lên gấp bội trong cảnh mưa, trong sắc tím u buồn nhớ nhung.
Mưa rơi rơi bóng anh như làn khói
Mưa rơi rơi bóng anh xa ngàn khơi
Mưa rơi rơi có hay chăиg lòng tôi
Có hay bao giờ bóng người yêu tới
Mưa rơi rơi làm bóng anh mờ như làn khói, đưa bóng anh xa ngàn khơi. Hạt mưa rơi vào đất che khuất bóng anh, hạt mưa rơi vào lòng, gây nhớ thương lòng em. “Mưa rơi rơi có hay chăng lòng tôi. Có hay bao giờ bóng người yêu tới”. Chiều tiễn đưa, khung trời tím, mưa rơi rơi, tất cả như khắc họa rõ hơn về cảnh buồn chia xa, về nỗi đαυ của người ở lại nhìn bóng người yêu xa dần khuất trong màn mưa.
Từ khi xa anh em vẫn yêu và nhớ
Mà sao anh đi đi mãi không về nữa
Một bóng áo tím buồn ngẩn ngơ
Khóc trong chiều gió mưa
Khóc thương hình bóng xưa
Dù chia xa nha, nhưng lòng em vẫn yêu và nhớ. Chỉ là anh không về nữa, màu áo tím ngày nào bây giờ “buồn ngẩn ngơ”. Để rời những chiều ngắm mưa rơi, nước mắt em lại rơi như mưa kia. Nhớ lại những mộng ước ban đầu chưa thành đôi đã tan vỡ, nhớ lại chiều mưa ấy đưa tiễn anh, em chỉ biết “khóc thương hình bóng xưa”.
Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím
Ngàn thu đαυ thương vương áo em màu tím
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau
Tháng năm càng lướt mau
Biết bao giờ thấy nhau.
“Ngàn thu mưa rơi trên áo, ngàn thu đαυ thương vương áo”, câu hát êm đềm nhưng xoáy vào tận sâu thẳm lòng người bởi hai từ “ngàn thu”, hàng ngàn năm sau, mãi mãi về sau em vẫn yêu và nhớ. Màu áo tím nay mang trong mình nỗi sầu thương ngàn thu, nỗi vấn vương ngàn năm. Ngày xa anh, là “nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau”, những ngày xa nhau là những ngày em sống trong màu tím buồn, màu tím của chia ly. Xa nhau rồi biết bao giờ gặp lại, nhưng hình bóng xưa xιɴ cho em cất giữ vào tim. Em yêu màu tím, như yêu anh, một tình yêu ngàn thu…
MÙA THU QUA NHỮNG RUN… ĐỌNG TỪ NỐT NHẠC…
TRỊNH CÔNG SƠN và Chiếc lá thu phai
“Chiếc lá thu phai” là một trong những sáng tác Trịnh Công Sơn viết vào giai đoạn nửa sau của cuộc đời, khi dâu bể, thăng trầm đã đi qua để lại trải nghiệm sâu sắc về con người, tình yêu và số phận… Nửa trước với niềm đam mê, tột cùng cháy bỏng cùng khổ đau về số phận đời mình đã lưu lại trên tác phẩm, còn nửa của những chiêm nghiệm, từng trải để lại phía sau trên tư tưởng thẩm mỹ, xét con người với tư cách của một hiện hữu tại thế. Và ở giai đoạn “trăm năm ruộng dâu hóa biển xanh” này, hương vị cuộc đời đều chất chứa, ẩn tàng bên trong nội dung ca từ, cũng như âm nhạc vốn đa nghĩa của ông.
“Chiếc lá thu phai”, chủ nghĩa lãng mạn với niềm đam mê cháy bỏng một thời không còn phát tác trong bối cảnh của một tâm cảnh đã khác. Bóng tà của tuổi đời và bóng người của tuổi trời đã hằn vết, in bóng xuống đời tác phẩm. “Chiếc lá thu phai” bỗng từ sự rục rã tự thân trở về cội nguồn, lay động những cảm thức trần thế, nhi nhiên trong cuộc đời mỗi người vốn thế.
Về đây đứng ngồi
Đường xa quá ngại
Để lòng theo chút nắng bên ngoài
Mùa xuân quá vội
Mười năm tắm gội
Giật mình ôi chiếc lá thu phai
……
“Chiếc lá” ấy chẳng khác nào “Công án” Thiền làm tác giả “hoát nhiên đại ngộ”, buông trôi một cách tuyệt vời cho khoảnh khắc đất trời và tạo vật hòa quyện vào nhau. Đó là xét trên phương diện ngữ nghĩa trong lời ca, còn về tính chất âm nhạc, “Chiếc lá thu phai” đã phôi pha tất cả những tính chất âm nhạc “định tính”, diệu vợi từ trước đến nay trong đặc điểm, phong cách âm nhạc Trịnh Công Sơn. Nó không còn vẻ đượm buồn hay tính chất đối tỷ (về điệu tính) thường thấy, cũng không còn đam mê cháy bóng của tuổi trẻ hư hao, cay đắng… mà trở về với tâm thái nhẹ nhàng, thanh thoát, hồn nhiên như mây trời, nhẹ trôi bồng bềnh sau những mệt mỏi của một kiếp lưu đày còn tiếp diễn trong sự thảnh thơi, tiêu dao...
Tôi đã nghe không biết bao lần “Chiếc lá thu phai”, bất kể ở giữa mênh mang đất trời hay trong quán xá đông người, dẫu người hát có là ai, người phối khí theo phong cách nào, tính chất âm nhạc vẫn mang một hơi hướng không đổi, buông trôi tuyệt vời! “Chiếc lá thu phai” hoàn toàn đã thoát khỏi bối cảnh âm nhạc của salon, vũ trường, phòng trà, thính phòng điển hình trong âm nhạc Trịnh Công Sơn. Không thấy tính chất đối tỉ về điệu, tạo cao trào ở phần điệp khúc, thường gặp nơi nhiều ca khúc lãng mạn, mà nó trở về tận gốc của sự mộc mạt, hồn nhiên, trung tính và hàm súc...
Những nốt nhạc vàng phai của Trịnh công Sơn …..
Chiếc lá thu phai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét