Bệnh viện Nguyễn Văn Học tục gọi là bệnh viện nhà nước hay nhà thương thí cũng thế. Anh em mình lớn lên bên bệnh viện này, liên hệ mật thiết với nó như bóng với hình. Mình chào đời vào lúc 8 giờ tối ngày 18/5/1935 tức (16/4 năm Ất Hợi) trong khu Bảo sinh, phòng dành cho công chức, do bà sáu Nhiều đứng đỡ...Hầu như mình thuộc nằm lòng vị trí của bệnh viện, nào là phòng khám bệnh, phát thuốc, trại 1, trại 2, trại 3, trại 4, trại 5, trại 7, trại Bùi Văn Lố và trại bảo sanh. Sở dĩ mình nhớ như vậy vì bao lần má sinh các em, nào lúc ba bệnh, những khi mình ốm đau đều nhờ nó cả!
<!>
Mình lớn khôn, đi xa, thấy rộng, mình có cảm tưởng càng ngày bệnh viện càng nhỏ hẹp lại, cằn cỗi, già... theo má mình vậy! Mỗi lần đi xa trở về, đi ngang bệnh viện, mình trìu mến nhìn, có ý thưa: “Con mới về đây”. Ngoài má ra, bệnh viện này là bà mẹ thứ hai có công ơn nuôi dưỡng anh em mình khôn lớn khỏe mạnh đến ngày nay!”
“Ngày... tháng... năm...
Ðến trường
Sáng hôm ấy, vào năm 1940, mình được má đưa đến trường Mac Ferrando - Gia Ðịnh. Ðêm trước, mình thấy nao nao, cảm giác là lạ khi nghe ngày mai mình phải đi học. Mình thấy ba má, chị Hai, chị Ba, anh Tư đều bận rộn việc đi học của mình. Nhứt là anh Tư *, anh vỗ tay dí vào mũi mình, vừa nhảy cà tửng vừa chộ mình. “Ê, mai mày đi học rồi. Ê, ê...”. Mình nghĩ có lẽ vì ảnh đi học mà mình ở nhà đi chơi với anh Xái nên ảnh tị, bây giờ nghe mình đi học ảnh khoái lắm!
Sáng sớm, bị ba đánh thức rất sớm, mình ăn lót lòng cháo trắng với đường, ba cho mình “hai đồng nửa xu” mới tinh, tay ôm cuốn dầu “con thỏ và con rùa”, tay phải nắm tay má rụt rè tới trường... thỉnh thoảng mình buông tay má vạch túi xem hai đồng nửa xu còn không.
Ðến cổng trường, trời... học trò sao mà đông thế. Những đứa lớn đùa giỡn, la lối, rượt bắt nhau như ong vỡ tổ. Mặt mình lúc ấy hình như mếu rồi, mình sợ quá nắm tay má thật chặt, mặt cứ rúc vào tà áo dài bằng hàng trắng thật mới của má, mình ngửi mùi hàng thấy ngọt ngào làm sao! Có những tên lạ cũng mếu, ngơ ngác theo ba má chúng đi xin học như mình!
Trước căn phòng hiệu trưởng, nhiều người dìu con đi học nên có sự chen lấn xảy ra. Có một tên chèn mình vì bị ba nó kéo lên phía trước... Suýt chút bị sút tay khỏi tay má, mình sợ lạc má nên vội thúc vào hông nó thật mạnh khiến hắn khóc ré lên...
Ðến phiên mình vào, trời khiếp, ông Ðốc Mão sao to béo thế. Ông cầm đơn xin học của mình đoạn nhướng mắt nhìn mình qua làn kính trắng, giọng oang oang hỏi má: “Trò Minh chưa đủ tuổi mà học cái gì?”. Má vội đưa tấm danh thiếp giới thiệu của ông Dournot, thanh tra người Pháp, ông này quen với ba sao đó. Bấy giờ ông Ðốc Mão “dịu giọng” ngay: “Thôi được” và ra lệnh người tùy phái dẫn má và mình đến lớp năm A gặp thầy Phước làm mình thất vọng quá. Ðang hi vọng trở về vì chưa đúng tuổi! Mặt méo xẹo, riu ríu theo má đi gặp thầy Phước, tay ông đang cầm cây thước nhịp nhịp vào không khí, mình thấy ông ta nghiêm quá, vội rúc vào lòng má, ôm chân má thật chắc. Thầy Phước khẽ cười, cúi đầu đáp lễ má và nói: “Dạ, bà giao em cho tôi”, tay thì nắm lấy tay mình kéo đi, mình khóc rú lên “má ở đây má ơi!”, má cười gượng, gỡ tay mình đang ôm đùi má và an ủi mình: “Không sao đâu con, má phải về còn đi chợ nữa chớ”. Mình cố gào thét nhưng vô hiệu!
Má đi rồi, thầy Phước vừa dỗ vừa dọa, tay ông cầm cây thước dọa dọa. Không còn má, mình thấy bơ vơ trong thế giới của học đường và sợ hãi trước ông giáo xa lạ, mình hết dám khóc. Thầy Phước dìu mình đến ngồi bàn thứ hai.
Mình lấy tay áo mới, chùi mắt và mũi, khẽ liếc chung quanh, thấy các bộ mặt “mếu” chẳng khác gì mình, chúng đang lấm lét nhìn ông thầy. Mình thấy dường như vừa mất mát cái gì to lớn lắm!
(*) (Anh Tư: Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo)
Ngày... tháng... năm...
Ngày bãi trường đầu tiên
Mình làm quen thế giới học đường được một năm rồi, sau kỳ thi tất cả 52 đứa đều được lên lớp tư. Không biết thông lệ từ hồi nào, ngày bãi trường là học sinh đóng tiền liên hoan đãi Thầy do các tên lớn đề xướng và tổ chức.
Hôm ấy, từ lớp Tư trở lên đều liên hoan rầm rộ. Còn lớp mình im ru buồn hiu vì toàn là bé con. Chẳng có tên nào lãnh đạo, thành lớp mình buồn hơn đám ma!
Có lẽ cảm thấy nỗi buồn ấy, hơn nữa sắp xa đám học trò, các tác phẩm do chính tay mình gầy dựng cả năm trời... bất thần có tiếng leng keng của người Tàu già bán kẹo đục đi qua. Thầy Phước vội kêu vào bảo đục 53 phần kẹo, mỗi phần một xu!
Năm mươi ba phần kẹo được đục xong, thầy Phước móc bóp đếm cẩn thận năm tờ giấy một cắc và ba đồng xu, trả tiền kẹo, tay run run...
Lúc ấy, mình hết nhìn người bán kẹo lại nhìn thầy Phước, xong lại nhìn 53 phần kẹo, miệng nuốt nước bọt. Mình thấy thương thầy Phước quá, bao nhiêu lần bị phạt, bị đòn trong năm đều tiêu tan hết...
Thầy Phước tay chắp sau đít, đi qua đi lại như bao ngày, ông ho gằn mấy tiếng có lẽ vì cảm động, đoạn nói: “Các em, hôm nay ngày bãi trường, thầy trò mình bắt đầu xa nhau... Hôm nay, thầy đãi các em một xu kẹo đục, bắt đầu trò Ẩn đi lên lần lượt lãnh kẹo”. Tụi mình lãnh hết, còn lại một phần, ông cầm lấy và ra lệnh ăn. Ðứa nào đứa nấy mặt hớn hở nhìn Thầy đầy trìu mến!
Trong đời mình, có lẽ không có bữa tiệc nào quý và cảm động bằng một xu kẹo đục của thầy Phước...”
Tâm hồn Lê Hằng Minh giàu cảm tình và nhân hậu là thế, nên khi hồi tưởng lại giây phút tôi gặp chú lúc đi lạc giữa súng ống và binh lính ngổn ngang, sợ hãi đứng khóc một mình trong ngày biến cố đảo chánh ở thành Cộng Hòa. Ðang là vị sĩ quan chỉ huy và cũng chắc rất đang bận rộn với những trách nhiệm của mình, vậy mà chú cũng đến bên tôi, dỗ dành cho nín khóc và đưa về tận nhà. Ðó là hình ảnh tôi không quên qua nghĩa cử của một người có tấm lòng nhân ái đối với trẻ em. Và cũng từ cơ duyên đó, 38 năm sau tôi mới có dịp viết, vẽ lại chân dung người lính Việt Nam Cộng Hòa cao đẹp qua hình ảnh cố Trung Tá Lê Hằng Minh.
Chú Minh ơi, sau khi cánh cổng rào nhà cháu khép lại, là từ đó cháu không bao giờ còn gặp lại chú nữa. Nhưng hôm ấy, cháu còn giữ lại nơi chú một nụ cười trìu mến vỗ về, dù cháu đã hết sợ và nín khóc từ lúc mới gặp chú. Cả ngày hôm đó, con bé tám tuổi vẫn nhớ tới chú vì còn giữ mấy cánh hoa sứ trắng trong túi áo mà chú đã nhặt và hái cho. Cháu đã đem ép vào những cuốn sách mà cháu yêu thích nhất vì nghĩ hương thơm hoa sứ sẽ còn hoài trên những trang sách đó. Thỉnh thoảng qua hồ tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi và đi lượm hoa sứ rụng, cháu vẫn còn nhớ tới chú với lời hẹn hôm nào gặp lại sẽ được chú đàn cho nghe như lời chú hứa. Mà chẳng biết tới bao giờ đây (?).Hơn một năm sau, nhà cháu dọn ra khỏi cư xá đi nơi khác và chút kỷ niệm thân ái bé nhỏ ấy cũng dần nhạt nhòa theo những ngày tháng cháu lớn khôn thêm. Một đôi lần cháu theo mẹ vào Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm ba cháu những lúc ông bị thương, cháu lại nhìn thấy những hàng bông sứ trắng được trồng dọc theo mấy dãy hành lang bệnh viện trắng toát u buồn, làm những cánh hoa rơi khẽ chỉ lặng lẽ tỏa hương để không gian nhẹ bớt phần thê lương của những người thương binh. Cháu lại thoáng nhớ đến chú rồi lại quên trong cái tuổi hồn nhiên vô tư lự. Vài năm sau, có một lần cháu sang nhà hàng xóm chơi, thấy sân nhà bác Thiếu tá Nhàn mới nở mấy cây hoa sứ kiểng rất đẹp. Cháu hỏi xin, bác từ chối, cháu cố năn nỉ: “Cháu chỉ xin bác một bông thôi, bác xem có bông nào xấu nhất, bác cho cháu nhé!”. Bác Nhàn bật cười: “Hoa nào cũng đẹp, chỉ có mỗi bác Nhàn là xấu thôi, không có hoa nào xấu cả, cháu ơi”. Bác Nhàn nói thế để lờ đi đấy mà (Dĩ nhiên là không rồi, vì đó là hoa kiểng của bác mới nở được có mấy bông). Nhưng lúc ấy cháu còn trẻ con, nên nghĩ bụng, bác Nhàn xấu thật, mình xin có mỗi một hoa nào xấu nhất, vậy mà bác cũng không cho. Rồi cháu chợt nhớ tới chú, tới những bông sứ trắng nơi hàng cây bóng mát tuổi thơ của cháu ngày nào mà đã có lần được chú hái cho bỏ đầy hai túi áo ngày xưa.
Năm tháng trôi qua với biết bao đổi thay, biến động của cuộc sống và tình hình đất nước, cháu đâu còn có dịp nào để nhớ lại câu chuyện bé nhỏ ngày xưa ấy. Cho đến một hôm, trước ngày Quân lực 19/6/02 vài ngày, cháu tìm hiểu và liên lạc với một số vị chỉ huy của những trận chiến oai hùng của Quân đội VNCH để phỏng vấn trong chương trình phát thanh “Tiếng Việt mến yêu” nhân dịp kỷ niệm ngày Quân lực VNCH. Tình cờ cháu nhìn thấy hình của chú trên bìa đặc san Sóng Thần - 2002 trong văn phòng làm việc, cháu thấy khuôn mặt và nụ cười của người lính này sao nhìn quen quá, rất quen, rồi... không sao nhớ thêm được tí nào nữa. Cháu vẫn nhớ chú tên Minh nhưng không biết nguyên tên họ chú là Lê Hằng Minh. Ngay lúc đó cháu cũng đang đọc cuốn bút ký “Cuộc chiến dang dở” của chuẩn tướng Trần Văn Nhựt (cũng là bạn học với chú) vừa gửi tặng. Ðến đoạn viết về cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 với sự tham dự TÐ4/ TQLC của chú, cháu mới chợt nhớ ra như dòng suối đã được khơi nguồn. Câu chuyện và những hình ảnh đã lãng quên, nay giật mình nhớ lại thì đã 36 năm trôi qua. Cháu cũng không biết rằng sau lần gặp chú thì chỉ hơn hai năm sau, chú đã anh dũng hi sinh trong cuộc chiến ở miền Trung, và cũng không hề biết chú là em của Th/Tướng Lê Minh Ðảo dù đã trò chuyện với ông vài lần qua một cuộc phỏng vấn trên Ðài Phát Thanh. Thêm một tình cờ ngẫu nhiên khi cháu nhớ ra chú và muốn tìm hiểu thêm về trận đánh ngày 29/6/66, lúc tiếp chuyện với Ðại tá Ngô Văn Ðịnh là người thay thế chức vụ Tiểu đoàn trưởng TÐ2/ TQLC ngay buổi chiều chú vừa hi sinh, cháu nhắc với ông: “Hôm nay là ngày giỗ của chú Lê Hằng Minh, ngày 29 tháng 6”. Ông cũng bùi ngùi nói: “Ðó là người chiến hữu thân của tôi đã mất cách đây đúng 36 năm, không ngờ hôm nay còn có người nhắc nhớ và viết đến. Cám ơn cô Ngọc Thủy!”. Rồi ông liên lạc ngay với người bạn rất thân của ông từ nhiều năm qua và cũng là một người bạn rất thân mến từng sát cánh cùng chú trong nhiều năm binh nghiệp hiện đang định cư ở Iowa là Ðại Tá Tôn Thất Soạn, và bất ngờ trong một cuộc điện đàm, Ð/T Tôn Thất Soạn có cho cháu biết ông đã nghe được câu chuyện này cách đây hơn ba mươi năm về trước: “Trong ngày 1/11/63, TÐ4/ TQLC chia ra làm 2 cánh quân. Lúc đó tôi là Tiểu đoàn phó TÐ4/TQLC giữ cánh B đóng ở Nha Cảnh sát, còn Tiểu đoàn trưởng Lê Hằng Minh thì đưa cánh quân A qua thành Cộng Hòa. Sau ngày đảo chính, có một lần, anh ngồi cười kể cho tôi nghe chuyện gặp một cô bé đi lạc, anh đã đến dỗ dành và đưa cô bé ấy về nhà. Tôi nghe anh Ðịnh kể về nguyên nhân câu chuyện của cô muốn đi tìm chi tiết để viết về anh Minh là tôi nhớ lại ngay cũng câu chuyện này đã từng được nghe Lê Hằng Minh kể, tôi không ngờ cô bé đi lạc hồi đó là cô Ngọc Thủy bây giờ”. Và sau đó ông đã gởi ngay cho cháu một bài viết về một số những trận đánh ông từng tham dự sát cánh với chú, trong đó có đoạn: Trong những ngày diễn tiến của biến cố 1/11/63, Tiểu đoàn 4/ TQLC đã hoàn thành nhiệm vụ giao phó mà không gây thiệt hại gì cho đơn vị đối phương hoặc dân chúng địa phương. Ðiều này đã nói lên được tinh thần kỷ luật của đơn vị rất cao cũng như tình Quân dân như cá nước của các chiến sĩ Kình Ngư (TÐ4/ TQLC) mà điển hình là một câu chuyện kể của người anh cả Kình Ngư (TÐT Lê Hằng Minh) một ngày sau đó (1/11/63): “Với quân phục rằn ri cọp biển, đi đứng hiên ngang hùng dũng, nón sắt chiến trận nặng nề, chụp trên đầu của khuôn mặt sạm nắng, cặp mắt quầng thâm thiếu ngủ, với bộ ria mép rậm rạp như trong phim “cow boy” Mexico, với dây súng gắn dài đạn đồng đeo chéo ngực v.v... khiến ai nhìn mà không khiếp đảm, huống hồ là một em bé gái bé bỏng 8 tuổi của đô thành hoa lệ Sài Gòn, nào có biết chiến tranh là gì; nên khi Ð/U Minh và các binh sĩ từ trên xe GMC nhảy tràn xuống đường gần thành Cộng Hòa để chiếm các vị trí bố phòng dọc theo nhà dân hai bên vệ đường, khiến em bé gái này sợ hãi quá, khóc thét lên... Tuy với vóc dáng bên ngoài “gồ ghề” là thế, vậy mà bên trong chứa ẩn một trái tim nhân hậu và đầy tình cảm. Ð/U Minh người anh cả Kình Ngư, đã quỳ một chân xuống bên cạnh em bé gái đó, để đưa tay vuốt tóc em bé cho đỡ sợ và nói những lời an ủi dịu ngọt để cho em vững tâm mà nín khóc... Sau đó em bé đã hiện nét mặt vui mừng, trò chuyện và anh đã đưa cô bé về nhà gần đó...”. Ðại úy Minh đã kể lại cho tôi nghe câu chuyện này vừa xảy ra hôm qua với nét mặt hân hoan của một người nhân hậu vừa làm được việc tốt lành. Tôi có nghe nhưng rồi cũng bỏ qua, nhưng không ngờ sau 38 năm, lại được em bé gái đó, bây giờ là một nữ văn sĩ hiện định cư ở San Jose, Cali... lúc đọc được ÐSST - 2002, đã bất ngờ nhìn thấy lại hình cố Trung Tá Lê Hằng Minh trên trang bìa sách của đặc san. Một kỷ niệm trong sáng của một thời thơ ấu đã gợi lại hình ảnh một anh hùng mũ xanh của năm nào! Nhưng thật đáng buồn, vì bây giờ người anh hùng đó đã thành người thiên cổ!”
Nghe ông Ð/T Soạn nhắc lại cháu rất cảm động, nên viết thành mấy câu thơ:
Sao người không tặng cho tôi
một bông sứ trắng cho đời thơm hương
Tặng chi tôi một giọt sương
Trên bông hồng đỏ, dễ thường không khô?
Biết đời như một giấc mơ
Thì tôi xin một phút chờ cho vui!
Nhớ bông sứ trắng một thời
Có con bướm trắng bay rồi, đã bay...
(Thơ N.T.)
Chú Minh ạ, cháu thật sự xúc động bởi chú không những là người lính có tình người nhân hậu và trái tim nghệ sĩ năm xưa cháu đã gặp, mà qua chú sống dậy trong lòng cháu những hình ảnh thật kiêu hùng cùng những hi sinh quả cảm của những người trai thời loạn đã dành cho Tổ quốc Việt Nam: sự sống và tuổi trẻ cùng tấm lòng yêu dân tộc quốc gia. Hơn nữa, chú và hàng trăm vạn người lính trẻ khác đã chiến đấu và đã chết cho quê hương. Ðó là những anh hùng không tên tuổi. Nhưng Tổ quốc và lòng người dân Việt không bao giờ quên họ. Trong dòng cảm xúc này cùng sự hỗ trợ từ những người thân của chú, cháu mong được nhắc nhớ lại hình ảnh của một chiến sĩ Lê Hằng Minh, cũng là hình ảnh của muôn ngàn người anh hùng không tên tuổi mà cháu rất kính phục và biết ơn họ đã dâng hiến cuộc đời cho tổ quốc non sông và đã “vị quốc vong thân”, đem lại yên vui êm ấm cho bao người trong đó có cả những tháng ngày thơ ấu, tuổi trẻ của cháu đã hưởng được sự an lành tốt đẹp.
Chú Minh biết không, nhìn những bức hình của chú trước mặt, cháu thấy lại nguyên vẹn hình ảnh của người đại úy trẻ đã nhìn cháu với nụ cười trìu mến vỗ về và cháu vẫn là cô bé tám tuổi đi lạc ngày nào, không có thời gian cách biệt. Nhưng có một điều, cháu sẽ chẳng bao giờ gặp lại để chú đánh đàn cho nghe, và những cánh hoa sứ ép khô cùng hương hoa ngày cũ trên những trang sách đẹp ngày xưa của cháu đã trôi lạc theo dòng đời bể dâu đã từ lâu lắm rồi... không tìm thấy nữa.
Sau ngày chú ra đi, ngủ yên trong lòng đất mẹ, chín năm sau, miền Nam tự do thân yêu của chúng ta đã rơi vào tay cộng sản. Ðã 27 năm qua, quê hương vẫn lầm than tăm tối. Bây giờ cháu đang sống ở xứ người, lòng vẫn nhói đau mỗi khi đọc những mẩu tin tức ở quê nhà, bao nhiêu là thảm cảnh và tệ trạng, bao nhiêu là bất công phi lý, cuộc đời những người dân nghèo Việt Nam vẫn triền miên đọa đày trong đói khổ lầm than. Ðó là những tiếng kêu như rên xiết, xé ruột trong lòng mà cháu không biết mình phải làm sao! Cháu biết chú cũng buồn như cháu và mọi người khi thấy quê hương thân yêu mình qua bao năm vẫn điêu linh khốn khổ, chưa có được ngày đẹp tươi của ánh sáng Tự do - Giàu mạnh cho mọi người được hưởng cuộc đời văn mình, ấm no chung.
Thôi để cháu nói qua chuyện khác cho chú nghe nhé. Bây giờ cũng đang là mùa hạ ở xứ Mỹ này, ở đây không có hàng cây bông sứ trắng như ở quê nhà, nhưng có một loài hoa khác rất đẹp cũng rộ nở vào mùa hè, đó là hoa Magnolia, còn được gọi là hoa Thiết Mộc Lan. Hoa màu trắng, nở to như hoa sen làm mát rượi cả một mùa hè, mát cả con đường cháu vẫn đi qua hàng ngày. Với cánh hoa tươi đẹp này cháu xin gởi tặng chú trong ngày giỗ thứ 36 của chú hôm nay. Và cũng xin kính tặng hai bài thơ nhỏ để tưởng nhớ đến chú cùng dâng lên anh linh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hi sinh cho Tổ quốc Việt Nam:
SAU CUỘC CHIẾN
Người lính đó không về sau cuộc chiến
Phố vẫn đông trong những ngày cuối tuần
Ngôi Giáo đường rung hồi chuông cầu nguyện
Nửa cho chàng, nửa cho khắp Việt Nam!
Ngọc Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét