Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

Góc Việt Thi : THU CHÍ của Nguyễn Du - Đỗ Chiêu Đức





Bài thơ nầy là một trong 39 bài trong Nam Trung Tạp Ngâm, thời kỳ Nguyễn Du làm quan ở Quảng Bình và Huế (1804-1814 ). Năm 1804, ông cáo bệnh từ quan xin về hưu, nhưng chỉ được có hơn một tháng thì có chỉ vua triệu vào cung giữ chức Đông Các Điện Học Sĩ, nên đành phải lên đường phó nhiệm. Bài thơ được làm trong khoảng thời gian nầy.

1. NGUYÊN BẢN CHỮ HÁN CỦA BÀI THƠ :
<!>

秋至 THU CHÍ
香江一片月, Hương Giang nhất phiến nguyệt,
今古許多愁。 Kim cổ hứa đa sầu.
往事悲青塚, Vãng sự bi thanh trủng,
新秋到白頭。 Tân thu đáo bạch đầu.
有形徒役役, Hữu hình đồ dịch dịch,
無病故拘拘。 Vô bệnh cố câu câu.
回首藍江浦, Hồi thủ Lam Giang phố,
閒心謝白鷗。 Nhàn tâm tạ bạch âu !
阮攸 Nguyễn Du


2. CHÚ THÍCH :
THU CHÍ 秋至 : Mùa thu đến.
HƯƠNG GIANG 香江 : Con sông chảy giữa kinh thành Huế, một thắng cảnh của tỉnh Thừa Thiên. Năm Ất Sửu (1805), Nguyễn Du được thăng hàm Đông Các Điện Học Sĩ, tước Du Đức Hầu và làm việc tại Kinh đô Huế. Nhưng lòng vẫn đeo nặng mối sầu thiên cổ.
HỨA ĐA 許多 : là Biết bao nhiêu, chỉ Rất nhiều.
THANH TRỦNG 青塚 : Trủng là gò đất cao. Thanh Trủng là gò đất xanh vì cỏ mọc, thường dùng để ví với các nấm mồ.
DỊCH DỊCH 役役 : Chỉ sự làm việc vất vả như ở trong quân ngũ.
CỐ 故 : là Vì thế, là Cho Nên (Chỉ lý do).
CÂU CÂU 拘拘 : Chỉ lom khom như gù lưng. Làm quan luôn luôn phải giữ vẻ khúm núm như là kẻ mắc bệnh gù lưng. Vẻ khúm núm của giới quan trường (đối với cấp trên).
PHỐ 浦 : Có 3 chấm thuỷ bên trái, nên Phố là Bến nước, Bến sông.
BẠCH ÂU 白鷗 : là Những con hải âu màu trắng.

3. NGHĨA BÀI THƠ :
MÙA THU TỚI
Một mảnh trăng trên dòng Hương Giang đã khơi dậy biết bao là nỗi sầu kim cổ. Chuyện đã qua thì bi thảm như những nấm mộ xanh rì, thu mới đến thì lại làm cho bạc trắng cả mái đầu. Vì mang thân xác của con người nên luôn luôn phải làm việc cật lực vất vả. Và vì không có bệnh nên lại phải tiếp tục khúm núm trong quan trường. (Nếu ngọa bệnh thì khỏi làm việc và khỏi phải khúm núm trước quan trên). Quay đầu nhìn lại bến Lam Giang, ta muốn cám ơn những con chim hải âu trắng xóa đang bay lượn trên bến sông đã giúp cho lòng ta cảm thấy thanh nhàn hơn !

4. DIỄN NÔM :

THU CHÍ


Hương Giang trăng một mảnh,
Khơi dậy cổ kim sầu.
Chuyện qua mồ xanh cỏ,
Thu tới khiến bạc đầu.
Vì thân nên vất vả,
Không bệnh lại câu mâu.
Lam Giang trông bến nước,
Lòng nhàn với hải âu !
Lục bát :
Hương Giang một mảnh trăng thâu,
Cổ kim khơi động lòng sầu bao thu.
Chuyện qua buồn tựa cổ khâu,
Bâng khuâng thu đến bạc đầu không hay.
Mang thân nên vất vả hoài,
Quan trường khúm núm vì ai ngỡ ngàng.
Quay đầu nhìn bến Lam Giang,
Cám ơn âu trắng gợi nhàn bên sông !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm


Hẹn bài dịch tới !
杜紹德

Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào: