Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Xuân Tùng Diễn Đàn Kitô-hữu



Trong dòng chảy lịch sử của dân tộc Việt Nam, có những tác phẩm như ánh sáng sao soi rọi thời đại — vừa là chứng tích, vừa là lời khẳng định quyền làm chủ của dân tộc. Bình Ngô Đại Cáo của Công Thần Nguyễn Trãi là một trong những tác phẩm như thế: Được soạn vào năm 1428, dưới triều đại Hậu Lê sơ, thay lời Lê Lợi để tuyên bố với thiên hạ về: “Mười Năm Nằm Gai Nếm Mật” của Quân Dân Lê Lợi Việt Nam kháng chiến chống xâm lược quân Trung Hoa nhà Minh. Và đã chiến thắng quân Minh, đồng thời khẳng định chủ quyền, bản sắc và đạo lý dân tộc.
<!>
Tác phẩm không chỉ là bản cáo trạng chính trị mạnh mẽ, mà còn là áng văn chương tuyệt tác uy nghiêm, giàu triết lý nhân sinh nhân nghĩa. Qua từng lời văn, Bình Ngô Đại Cáo hé lộ khát vọng hòa bình, niềm tin vào chính nghĩa và lời răn vàng ngọc của tổ tiên dành cho con cháu Việt Nam muôn đời:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Trong bài viết này, người viết sưu tầm lịch sử để phân tích cấu trúc và nội dung của Bình Ngô đại cáo, đồng thời đi sâu vào vai trò của các nhân vật được nhắc đến trong tác phẩm — nhằm làm rõ cung cách Nguyễn Trãi dùng ngoại truyện lịch sử và biểu tượng nhân vật để củng cố lời cáo Bình Ngô.

Bài viết nhắm đề cao Bốn Ngàn Năm Văn Hiến của Dân Tộc Việt Nam, hầu quý độc giả thưởng lãm, nhất là các bạn trẻ, các bạn đồng tù các khóa Nguyễn Trãi của Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Việt Nam Cộng Hòa.

Bình Ngô Đại Cáo
Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển còng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.

* * *
Bình Ngô Đại Cáo không đơn thuần là một bản báo cáo chúc công — nó là tuyên ngôn chính nghĩa, là minh chứng cho tinh thần tự chủ của một dân tộc đã trải qua ngàn năm biến động. Qua việc tố cáo tội ác của quân Minh, ca ngợi khí tiết của nghĩa quân Lam Sơn, và nhấn mạnh nhân đức của Lê Lợi đối với dân tộc và cả quân thù, tác giả Nguyễn Trãi mở ra khung trí tuệ mới: Chiến thắng không chỉ nhờ binh lực mà nhờ đạo lý, nhân nghĩa và sự đồng thuận của dân.

Các nhân vật — từ những danh tướng xâm lược bị thất bại như Toa Đô, Ô Mã, đến người anh hùng dân tộc Lê Lợi — khi được đặt trong lời cáo đã trở thành biểu tượng. Họ không chỉ là cá nhân của lịch sử, mà là hình ảnh dùng để đối chiếu cái thiện – cái ác, chính nghĩa – bạo tàn.

Trong thời hiện đại, Bình Ngô đại cáo vẫn vang vọng như Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Lần Thứ Hai sau Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Lần Thứ Nhất: “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư” của Lý Thường kiệt về chủ quyền dân tộc và đạo đức cai trị — nhắc nhở rằng, một quốc gia muốn bền vững thì phải dựa trên chính danh và vì dân chứ không chỉ dựa vào quyền lực./-

Nguyễn Xuân Tùng
Diễn Đàn Kitô-hữu
25-09-19

Ghi Chú:

-Nguyễn Trãi (1380 – 1442), nhà chính trị – học giả danh tiếng thời Lê sơ. Tác giả của Bình Ngô Đại Cáo; soạn thảo theo ủy quyền của vua Lê Lợi.
-Lê Lợi (1385 – 1433), Chủ tướng khởi nghĩa Lam Sơn; sau chiến thắng trở thành vua, mở đầu triều Lê Thái Tổ — người “đại cáo” do Nguyễn Trãi được viết thay lời ủy nhiệm của ông.
-Triệu / Đinh / Lý / Trần (các triều đại Việt Nam): Triệu Nam Việt (thế kỷ 3), Đinh (thế kỷ 10), Lý (11-13), Trần (13-14). Được dùng làm chứng liệu lịch sử để khẳng định nền độc lập lâu đời của Đại Việt, rằng tổ tiên Ta đã dựng quốc từ thời các triều đại ấy.
-Hán, Đường, Tống, Nguyên: Trung Hoa (phương Bắc) qua các triều đại: Hán (206 TCN – 220), Đường (618–907), Tống (960–1279), Nguyên (1271–1368).
-Lưu Cung, Thời nhà Hán (có truyền thuyết trong văn học Trung Hoa), người tham công (tham ô, lạm quyền) được lấy làm ví dụ lời răn: tham công tất thất bại.
-Triệu Tiết, (Triệu Tiết = Triệu Tấn / Triệu Hiếu). Người chịu nghĩa lớn (hiếu đại) nhưng bị diệt vong — dùng làm hình mẫu nhân nghĩa nhưng gặp bi kịch khi vượt quyền thế.
-Toa Đô, thời nhà Minh Trung Hoa cai quản đất Việt (khi Minh xâm lược).
-Ô Mã, cũng là tướng Minh (bị tiêu diệt).
-Thổ Nam Sơn, Đông Hải, Lam Sơn: (các địa danh có trận chiến lớn).
-Thiên, Địa, Tổ Tông: Những thế lực thiêng liêng, thần linh, hồn thiêng sông núi được nhắc tới để tăng tính thẩm quyền của bản cáo trạng chứng minh rằng: Sự thắng lợi là “hợp lòng trời, thuận lòng người” và “được tổ tông phù trợ”.
*Những cột mốc lịch sử dáng lưu ý:
-1428: Nguyễn Trãi viết Bình Ngô Đại Cáo và được công bố, đánh dấu việc kháng Minh kết thúc, Lê Lợi lên ngôi vua. Nguyễn Trãi còn là bậc thày của Chiến tranh Chính Trị qua khẩu hiệu: “Lê lợi vi quân, Nguyễn trãi vi thần, Lê lai vi tướng”. Và theo truyền thuyết, Nguyễn Trãi còn cho viết khẩu hiệu này trên các lá cây lớn trong rừng bằng -mỡ, đường- để cho kiến ăn những chỗ có mỡ, đường thành khẩu hiệu như thể Trời đã định như vậy.
-1442: Nguyễn Trãi bị giáng oan và bị xử tử chu di tam tộc nội ngoại trong vụ án: “Vụ Án Lệ Chi Viên”. Nhân đây xin tóm tắt Vụ án Lệ Chi Viên là một trong những án oan ai nổi tiếng và bi thảm nhất trong lịch sử Việt Nam. Bối cảnh như sau:
-Năm 1442, vua Lê Thái Tông (1403–1442) đi tuần tú Miền Đông, khi trở về, xa giá dừng chân nghỉ đêm tại Vườn Lệ Chi Viên Của công thần Nguyễn Trãi đã rũ áo từ quan, vui thú điền viên tại vùng Bắc Ninh quê hương quan họ. Tại đây nhà vua đột ngột băng hà khi mới 20 tuổi. cái chết bất ngờ khiến triều đình hoang mang. Thái hậu và phe phái trong cung đã đổ tội cho Nguyễn Thị Lộ (thê thiếp của Nguyễn Trãi), cho rằng bà đã "hạ độc" hoặc "có tội trong việc hầu hạ khiến vua chết".
-Hậu quả: Nguyễn Trãi (1380–1442), vốn là khai quốc công thần, tác giả Bình Ngô Đại Cáo, bị quy tội mưu sát vua. Ông cùng gia tộc bị xử theo hình phạt tru di tam tộc: Giết cả ba họ: bên nội họ Nguyễn, bên ngoại họ vợ chính thất và cả bên thê thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ.
Tuy nhiên, sử sách đều cho rằng đó là án oan sai. Vì Nguyễn Trãi vốn nổi tiếng thanh liêm, trung thành, từng được Lê Lợi Thái tổ tin cậy. Về sau, vua Lê Thánh Tông (1442–1497), con của Lê Thái Tông, khi lên ngôi vua đã minh oan cho Nguyễn Trãi vào năm 1464, khôi phục danh dự và công trạng cho Nguyễn Trãi.
-Tóm lại: Nguyễn Trãi bị kết tội và chịu hình phạt tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Nhưng đó là một vụ án oan sai nhất lịch sử, và Nguyễn Trãi đã được giải oan hơn 20 năm sau.

Không có nhận xét nào: