Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

Đại Học Máu Thay Lời Tựa + Chương 1 - Hà Thúc Sinh

THAY LỜI TỰA
Tháng 6 năm 1975 - một tháng sau ngày bộ đội cộng sản tràn ngập miền Nam tự do - những quân nhân công chức của Việt Nam Cộng Hòa nghe Đài Phát thanh lần lượt loan báo các lệnh gọi trình diện "học tập cải tạo". Đó là các thông cáo ngày 10-6, ngày 11-6, và ngày 20-6, ký tên Ủy Ban Quân Quản Thành phố Saigon - Gia Định. Ngoài sự chỉ định rõ ràng những địa điểm và ngày giờ trình diện, còn có lời yêu cầu những người đi học tập cải tạo phải "đem theo đầy đủ giấy, bút, quần áo, mùng mền, vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong mười ngày, kể từ ngày tập trung trình diện" (thông cáo ngày 20-6). 
<!>
Riêng đối với các sĩ quan cao cấp trong quân đội và cảnh sát, các Dân biểu và Thượng nghị sĩ, các lãnh tụ đảng phái "phản động" tại miền Nam, thì được lệnh "đem theo đầy đủ giấy, bút, quần áo, mùng mền, vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong một tháng kể từ ngày học tập đầu tiên" (thông cáo ngày 11-6).

Bản tường trình tháng 4 năm 1983 của Ginetta Sagan và Stephen Denney (Aurora Foundation), căn cứ trên những kết quả điều tra và phỏng vấn, đã cho biết: "Rất ít, nếu có, người đi học tập cải tạo được thả về sau thời hạn mười ngày hay một tháng... Trong số hơn một triệu người đã đi vào các trại học tập cải tạo (trên 150 trại rải rác khắp nước Việt Nam) thì có khoảng 500.000 người được trả tự do trong vòng ba tháng; 200.000 người đã ở trong trại từ hai năm đến bốn năm; 240.000 người đã phải chịu đựng ít nhất năm năm trong cảnh tù đày; và cho đến nay (4-1983) vẫn còn ít nhất là 60.000 người đang bị giam giữ...".

Chúng ta thông cảm cho sự ngập ngừng, dè dặt của Sagan và Denney khi đưa ra những con số thống kê về tù cải tạo. Những con số ấy chỉ gợi lên được một ý niệm, chứ không thể có được giá trị dữ kiện. Làm sao đòi hỏi số thống kê chính xác về những nạn nhân của một chế độ mà sự dối trá vốn được coi là nguyên tắc chỉ đạo căn bản?

Phần tường trình về "học tập cải tạo" chiếm 26 trang trong bản tường trình của Aurora Foundation, nhằm minh chứng một trong những hiện tượng vi phạm nhân quyền trầm trọng đang xảy ra tại Việt Nam, trong khoảng thời gian từ 30-4-1975 đến 30-4-1983. Thật ra, trước đó, miền Bắc suốt hai mươi mốt năm sống dưới chế độ Cộng Sản đã không được biết đến nhân quyền là gì. Nếu nói về văn kiện chính thức, thì chế độ "học tập cải tạo" đã được ban hành do Nghị quyết số 49 (ngày 20-6-1961) và Thông cáo số 121 (ngày 8-9-1961). Sự ban hành ấy có nghĩa là: mọi thành phần bị coi như đối nghịch, phản động, đã từng (hoặc đang) ở trong các nhà tù thì nay đều bị Đảng và Nhà nước "gom" lại trong một loại nhà tù mới, tổ chức quy mô hơn, theo đúng khuôn mẫu của các nước Cộng Sản đàn anh. Loại nhà tù này đặc sắc hơn những nhà tù bình thường khác ở chỗ nó có thể thỏa mãn cùng một lúc nhiều mục tiêu. Thí dụ mục tiêu an ninh (giam giữ vô hạn định những thành phần nguy hiểm mà khỏi phải mất công thực hiện các thủ tục pháp lý, đồng thời luôn luôn giữ được sự chủ động kiểm soát khối lượng tù nhân tùy theo tình hình an ninh nội chính); mục tiêu chính trị (có điều kiện thuận lợi để thực hiện chương trình tẩy não và nhồi sọ tư tưởng Cộng Sản, mặt khác tạo không khí thường xuyên khủng bố tinh thần nhân dân bằng hình thức đe dọa gián tiếp, nhờ đó dễ dàng tiến hành các kế hoạch chính trị); mục tiêu kinh tế (sử dụng không công một khối nhân lực đáng kể trong những công tác kiến thiết, sản xuất, và phục vụ bộ máy lãnh đạo; đồng thời tránh được trách nhiệm phối trí khối nhân lực này vào một guồng máy kinh tế vốn đang lâm vào cảnh khiếm dụng) v.v...

Chế độ "học tập cải tạo" được mở rộng ngay sau khi miền Nam bị cưỡng chiếm, dĩ nhiên vẫn với sự áp dụng những phương pháp quản lý cũ, và vẫn nhắm vào những mục tiêu cũ, nhưng đặc biệt có phần khắc nghiệt và tàn nhẫn hơn trong cung cách quản lý. Nguyên nhân có thể là vì lòng căm thù (pha lẫn mặc cảm) đối với thành phần tù nhân mới. Nguyên nhân cũng có thể là vì sự suy đồi trầm trọng trong tình hình chính trị và kinh tế sau khi hoàn thành cuộc cưỡng chiếm đã khiến cho điều kiện ăn ở của tù nhân trong các trại học tập trở thành tồi tệ vượt ngoài sức tưởng tượng, thí dụ khẩu phần thường lệ của tù nhân cùng với những thực phẩm do thân nhân tiếp tế đã bị cắt xén hoặc tước đoạt nhằm cung ứng bù đắp cho chính những cán bộ quản giáo. Tính chất phi nhân của chế độ "học tập cải tạo", thể hiện qua những sự thật khủng khiếp, chỉ từ sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ mới bắt đầu được phanh phui trước dư luận thế giới. Và được phanh phui bởi nguồn tài liệu đắt giá: tiếng nói của những người đã sống sót và đã vượt thoát, sau khi trở về từ các "trại học tập".

ĐẠI HỌC MÁU là một trong những tiếng nói đó. Không phải là tiếng nói đầu tiên, và chắc chắn cũng không phải là tiếng nói sau cùng. 822 trang sách, chia thành 70 chương, chỉ là lời tường trình của một chứng nhân về những điều mắt thấy tai nghe trong 4 "trại học tập": Trảng Lớn, An Dưỡng, Suối Máu và Hàm Tân. Đó là những nơi mà Hà Thúc Sinh, một sĩ quan thuộc binh chủng Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, đã sống từ ngày 26-6-1975 đến ngày 9-2-1980, nghĩa là trong 4 năm 7 tháng 14 ngày.

Tháng 11-1980, Hà Thúc Sinh bắt đầu viết ĐẠI HỌC MÁU tại đảo Pulau Bidong, mảnh đất tự do đầu tiên mà anh đặt chân tới sau khi vượt thoát khỏi Việt Nam. Bản thảo được hoàn tất vào tháng 12-1984 tại San Diego (California), mảnh đất tự do thứ hai của anh. Viết ĐẠI HỌC MÁU, Hà Thúc Sinh chẳng qua chỉ làm tiếp công việc đã từng được làm bởi nhiều người khác (và hẳn còn đang được tiếp tục làm bởi nhiều người khác nữa). Đó là nói lên tiếng nói của sự thật, cái sự thật bi thảm và kinh tởm về chế độ "học tập cải tạo" của Cộng Sản, cái sự thật mà cho đến giờ phút này vẫn còn hoặc chưa được biết tới đầy đủ, hoặc bị cố tình tảng lờ, cố tình phủ nhận, bởi những con người may mắn của một thế giới tự do nhất định không chịu tỉnh ngủ.

Nghĩ cho cùng, tiếng nói của sự thật vốn không phải là thứ tiếng nói êm tai, dễ nghe. Và người ta có lẽ thích nhìn văn chương như cánh cửa mở ra một thế giới bình an, hạnh phúc, hơn là một thế giới đày đọa, khốn cùng. Tiếc thay, trên mặt địa cầu hiện nay có những bức màn sắt được dựng lên để chặn bít tất cả mọi cửa ngõ dẫn đến bình an và hạnh phúc. Ngày nào những bức màn sắt đó chưa sụp đổ, ngày đó văn chương còn phải tiếp tục đóng vai trò của những viên đạn xuyên phá, của những hồi chuông cảnh tỉnh và báo động.

Trong một bản "nhạc tù" viết tại trại Hàm Tân năm 1980, Hà Thúc Sinh đã tự nhủ rằng, nếu còn sống mà trở về, anh sẽ chỉ xin được làm "một đời thằng mõ không công". Anh đã sống sót, đã trở về. Và anh đang làm đúng cái công việc mà khi ở trong tù anh ước nguyện. Làm thay cho những người bạn đã không được may mắn sống sót để trở về cùng anh. Làm thay cho những người bạn mà anh chỉ biết cầu nguyện rằng đến giờ này vẫn còn sống sót để sẽ có ngày trở về. Đồng thời, cũng làm thay luôn cho những người tuy đã may mắn sống sốt trở về, nhưng khi may mắn thêm lần nữa là thoát thân được đến vùng tự do thì lại đổi tính đổi nết, trở thành nhân từ và đãng trí.

Tám trăm trang ĐẠI HỌC MÁU được kết thúc bằng một hoạt cảnh xảy ra bên một con suối trong trại Hàm Tân, khi tác giả cùng mấy anh em bạn tù vừa được "lệnh tạm tha", hí hửng đi tắm rửa, bị một tên an ninh vòng đai trông thấy, quát hỏi:

" - Mấy thằng tù kia, đội nào nhà nào mà giờ này còn tắm ở đây?
" - Báo cáo cán bộ, tụi tôi được thả rồi, được tự do rồi.
"Tên công an thứ hai nghe vậy vội chen vào:
" - Này, ăn nói với cán bộ mà vô phép thế đấy phỏng? Mày tưởng thế là mày tự do đấy phỏng?"

Hà Thúc Sinh kết thúc bản tường trình ở đấy: câu hỏi chót đã không được trả lời. Nhưng đã được ghi lại nguyên văn để gửi đến chúng ta.

Thỉnh thoảng người Cộng Sản lại buột miệng hỏi một câu, mà ít ai chịu để ý nghe. Nếu để ý nghe, thế giới tự do hẳn đã đỡ tốn rất nhiều thời giờ, bút giấy và xương máu

NXB Nhân Văn 3-1985

QUYỂN SÁCH NÀY...
Quyển sách này không thể là một tác phẩm tiểu thuyết văn chương, cũng không thể nằm trong hình thức một hồi ký chính trị hoặc một bút ký lao tù. Quyển sách này, thực tế, chỉ có thể được coi như một đống quặng mỏ, được khai quật và còn giữ nguyên hình thái chân thực của nó. Hoặc có thể nói một cách khác, bảy mươi chương sách này có thể xem như bảy mươi tấm ảnh, được chụp liên tục và được rửa ra bởi một phó nháy may mắn và có tính tiếc của, nháy được bảy mươi hoàn cảnh buồn nhưng có ý nghĩa trong đời tù cải tạo dưới chế độ cộng sản. Hoặc có thể nói một cách khác hơn nữa, quyển sách này là bản phúc trình của một người lính VNCH bị bỏ rơi, bị ở tù cộng sản, rồi thoát được ra ngoài, ngồi viết lại để kính gửi tới những ai còn thương yêu và còn quan tâm đến nước Việt Nam và con người Việt Nam còn ở lại...

Quặng mỏ, những tấm ảnh chụp vội và chụp tham, hay bản phúc trình được thảo bởi một anh lính quèn, bản chất của nó thực khó tránh khỏi hai yếu tố chính thô và thực! Đồng lúc, mục đích của nó cũng không có gì khác hơn là ước ao sẽ được sử dụng như một thứ nguyên liệu cho một công trình biến hóa có ích lợi.

Tác giả có nhiều hoài vọng, phải nói thật như thế, nhưng hoài vọng lớn nhất vẫn là mong sao mớ quặng mỏ này sẽ giúp cho một guồng máy chống cộng nào đó chạy thêm một vòng xích, một sử gia nào đó có thêm một chứng từ về cơn đau ốm quê hương, hoặc một người Việt Nam lưu lạc nào đó tìm được một quyết định: Phải cứu lấy người ở nhà!...

Hà Thúc Sinh
Hoa Kỳ 12-84.
*****

VÀO TRUYỆN

Một trăm hai mươi "học viên" được dồn vào một "lớp học" gỗ mà trước kia người Mỹ dựng lên như một đơn vị phòng ngủ dành cho tám người. Người Việt Nam dù có nhỏ con hơn người Mỹ đi nữa, nhưng với một diện tích 15m x 5m cho một trăm hai mươi con người thì quả là tự điển Việt Nam không thể có một tĩnh từ nào mô tả cho chỉnh tình trạng này.
- Tao lạy mày cho tao nhấc cái chân lên, tao đã tê đến bìu rồi!

Một giọng nói khe khẽ cất lên trong đêm tối. Không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng thì thầm nói chuyện của một vài người. Giọng nói lại bắt đầu vang lên, nửa đau thương nửa hài hước. Tao lạy mày Hóa ơi, tao lạy mày cho tao nhấc cái chân lên một tí. Tiếng van nài hầu như vẫn chưa được đáp ứng. Giọng nói bỗng đổi tông, vừa lớn vừa quạu. Tiên sư nhà mày thế này mà ngủ được à? Ông tê lên đến rốn rồi. Cu dế không còn biết nó nằm ở đâu nữa này trời ơ...i...

Tiếng trời ơi sau cùng đã lôi cả phòng thức dậy. Có tiếng cười rần rần tiếp theo là tiếng xô đẩy, âm thanh giống một đợt sóng từ xa đưa tới: Nhỏ, lớn dần và vỡ òa ra khi va vào chân núi.

Sự lộn xộn khiến cái khối một trăm hai mươi người như nở lớn hơn ra.
- Trời ơi bỏ cái cùi chỏ ra chỗ khác giùm đi ông cố nội!
- Mày chân thật hay chân giả hả thằng quỷ? Sao cái đầu gối mày cứng gớm ghiếc vậy?
- Ối mẹ ơi, nó chọc thủng mắt tôi rồi!
- Chọc cái con củ c... Từ chiều đến giờ bộ vai tao là đùi vợ mày à? Đã tựa, đã ngủ, đã ngáy lại còn đổ nước rãi vào cổ ông nữa!

Cái khối nở lớn ấy hình như teo lại tức khắc khi có tiếng lên đạn và tiếng quát tháo từ ngoài hắt vào.
- Này, chúng mày nàm cái rì thế? Muốn bạo hành chống đối phỏng? Ổn định ngay không ông bắn bỏ mẹ bây giờ!

Giọng nói của thằng bộ đội gác đêm vừa quê mùa vừa hỗn xược nhưng không đủ làm cho bọn tù bực bội. Họ yên lặng vì một ý thức bất chợt nào đó hơn là vì sợ hãi. Phải năm bảy phút sau khi tên bộ đội bỏ đi, không khí mới hoàn toàn im vắng trở lại.

Một giọng thầm thì.
- Mày nghĩ tụi nó dám bắn mình không?

Một giọng khác.
- Thằng bộ đội oắt con ấy à?
- Không... là nói chính sách của chúng nó ấy chứ.
- Bắn thế đếch nào được. Giọng thứ hai ra vẻ ta đây rành chuyện bàn cờ quốc tế. Hắn tiếp. Này nhé, một cái thây ma thằng Mỹ mà còn cò kè thêm một bớt hai năm này năm khác, cái thây sống này không đáng mười ngàn đô la à? Mười mấy thằng trong chính trị bộ chúng giàu thật đấy, nhưng liệu chúng có điên đến độ lâu lâu lại lôi ra một xấp đô la đốt chơi không?

Không có tiếng trả lời. Giọng thứ hai tiếp tục, trầm và có vẻ dạy đời. Thương mại trước tất cả mọi sự, ông bạn ơi!
- Thằng lính Mẽo và thằng lính Mít khác nhau chứ?

Giọng một lên tiếng yếu ớt, tuồng như hắn nêu ý kiến với lòng cầu mong ý kiến mình được sai.
- Đồng ý, nhưng mà...
- Nhưng mà cái đếch! Một giọng thứ ba bỗng nổi lên với vẻ bực dọc. Ông cứ ngồi đó mà đợi thằng Mỹ nó chuộc!
- Chứ sao! Giọng thứ hai chợt sôi nổi. Cờ hai bên đều kẹt thì bắt tay xóa đi làm lại, bộ xóa luôn à?
- Ông như thế nào mà nhận định kiểu đó?
- Đại úy, ba mươi năm quân vụ được không?
- Thảo nào... Thôi tôi thua!

Giọng thứ ba nói một cách cay đắng rồi im. Nhưng dường như tuổi trẻ không cho hắn im lâu. Hắn cựa quậy trong chỗ mình ngồi tựa như để buồng phổi được hít không khí nhiều hơn một chút, rồi chững chạc, hắn cất tiếng nói. Thưa ông đại úy, em chỉ là thiếu úy, em xin góp ý với ông đại úy thế này: Ông và em, ĐM chỉ là những con chốt. Những con chốt đã qua sông cả rồi. Những con chốt không còn xe, còn pháo, còn mã nào yểm trợ nữa cả! Và bọn đánh cờ chắc chắn giờ đây chúng đã mua bộ cờ mới, đánh ván cờ mới ở một chỗ mới mất rồi ông đại úy ơi! Ngừng một chút như để lấy hơi, hắn thở dài. Chỉ còn hai con đường duy nhất nếu muốn sống thoi thóp cho quãng ngày tàn là: Vượt ngục hoặc im mẹ nó cái mồm cho xong!
- Nói khẽ chứ, họ nghe được thì khổ cả đám bây giờ!

Một giọng thứ tư bỗng nổi lên. Giọng nói có vẻ thân mật ôn hòa của một người mà cái tuổi năm mươi của ông ta đã có thể cho phép ông ta thủ thế trong bất cứ vấn đề gì. Ông ta nói tiếp. Thế này nhé, tôi đề nghị các anh nên nghỉ cho khỏe. Mai mốt Cách mạng còn dạy mình học tập lao động cho phù hợp với đời sống mới. Mệt lắm chứ không chơi đâu. Rồi sẽ có lúc mình thèm ngủ mà sự bận rộn học hành sẽ chẳng còn được bao nhiêu thì giờ mà ngủ. Thức khuya nói nhảm chẳng lợi lộc gì. Ngừng một chút ông ta lại tiếp. Dù sao cũng mới có hai ngày.

Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái ưu sầu, độc chưa!
NGT.

Chỉ có rừng sâu núi thẳm,
Chỉ có trời cao đất dày,
Nhật ký tôi viết không biết rõ tháng ngày...
HTS.

MỘT

TRẠI TRẢNG LỚN
6/75 - 7/76


Căn cứ Trảng Lớn nằm về phía Tây Nam thành phố Tây Ninh. Khởi thủy nó là một căn cứ yểm trợ hỏa lực, có phi trường riêng và đầy đủ những đặc tính của một doanh trại quân đội Mỹ. Khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam do một điều khoản được ấn định trong cái hiệp định hài hước Ba Lê, căn cứ Trảng Lớn đổi chủ và do BTL/SĐ 25 trấn đóng và xử dụng.

Với những đức tính chuyên cần góp nhặt về nhà cho mẹ đĩ của một số tướng tá QLVNCH, căn cứ Trảng Lớn dần dần bị lột da là tôn, gỗ...; móc ruột là bàn, ghế, tủ, máy móc... Do vậy, chỉ một thời gian ngắn sau đó, một trong những căn cứ Mỹ lớn nhất miền Nam chỉ còn trơ bộ xương sườn là kèo và cột.

Tuy nhiên, khi căn cứ đổi chủ lần thứ ba, dù chỉ còn trơ kèo và cột, nhưng với "đỉnh cao trí tuệ của loài người", Đảng ta vẫn thừa điều kiện để biến căn cứ này thành một nhà tù vững chắc mà mây cũng ngập ngừng khi muốn bay vào và chim cũng cùng đường không thể bay ra!

Nửa đêm ngày 28 tháng 6 năm 1975, nhiều đoàn Molotova từ các địa điểm tập trung ở Sài Gòn đồng loạt khởi hành và đưa các sỹ quan cấp úy đã liều nhắm mắt đưa chân ra nộp mình cho Cách mạng vào những ngày 24, 25, 26 về căn cứ Trảng Lớn.

Sáng ngày 29, một sáng chủ nhật không bao giờ còn nhà thờ nhà thánh cho những con chiên ngoan đạo; không bao giờ còn những con đường đầy lá me xanh cho những người thi sỹ lính; không bao giờ còn được dịp chửi thề: ĐM nó, tuần nào cũng trăm phần trăm!... Một sáng chủ nhật buồn như thế, thê lương như thế, các đoàn xe như những con sâu róm dài bất tận cùng quy về và đổ các tên tội phạm chiến tranh (!) của chế độ Sài Gòn xuống vòng đầu địa ngục của họ.

Tha hồ xầm xì, tha hồ quan sát, tha hồ lo âu, tha hồ dự đoán; gì gì chăng nữa thì trước mặt mọi người vẫn là căn cứ Trảng Lớn. Dây thép gai mới được thả ra vây quanh từng khu riêng biệt. Mỗi khu có chừng hai mươi dãy nhà 15m x 5m. Trên những dãy nhà ấy, rõ ràng tôn và gỗ mới được đóng thêm lên những kèo cột cũ để bọn tù nhân của tân chế độ có nơi kê đầu.

Với lối điều động có súng dí sau lưng, Việt Cộng đã áp giải một cách thứ tự lớp lang để tù vào ngồi đúng vị trí mới của mình mà không ai bị xây sát chút nào.

Hai ngày đầu bó giò dằn mặt đã qua, ngày thứ ba bọn tù được thả ra khỏi phòng cho giãn gân cốt và để thực sự bắt đầu đi vào nếp sống mới với muôn nghìn thống hận về sau.

Sáu giờ sáng tên quản giáo của mỗi phòng xuống mở cửa. Hắn đứng giữa cửa dõng dạc phán.
- Hôm nay cho ra làm công tác vệ sinh cá nhân. Bảy giờ tập họp trong nhà bầu trưởng khối.

Lời lẽ của Cách mạng chỉ hà tiện thế thôi. Và tên quản giáo lạnh lùng bỏ đi.

Lũ tù từ bên trong ùa ra sân. Kẻ nhốn nháo đi tìm bạn bè. Kẻ chạy ra những vũng nước mưa đọng dọc theo những dãy hàng rào kẽm gai rậm rạp cỏ lau, dùng lon guigoz gạn từng miếng nước trong dùng đánh răng súc miệng.
- ĐM mày, chỗ người ta lấy nước sao lại đứng đái?
- Đồ cà chớn!

Những tiếng la hét thất thanh cùng nổi lên một lượt, khi có một anh chàng đứng phanh quần chơi luôn vào vũng nước mưa một bãi. Mặc những tiếng la hét, anh ta chỉ có một chân lý duy nhất, nói theo kiểu Bác và Đảng, là đái cho thỏa thích sự nín đái hai ngày qua.
- Đồ lì lợm!
- Mất nước cũng vì mấy thằng có máu lì như vậy.

Trước con mắt ngạc nhiên của đám đông về cái đức tính lì của mình, anh bạn tù vừa gài cúc quần vừa chậm rãi quay mình lại. Anh ta nhếch mép cười như một tên hề.
- Thưa các quan đồng viện, anh nói. Đến ngày hôm nay còn chỗ nào trên đất nước này mà không đáng đái lên!?

Chỉ nói khơi khơi như thế rồi anh bỏ đi, kệ những lời bình phẩm văng vẳng theo sau lưng.

Vừa nghe những âm thanh hỗn độn phát ra từ đám đông, Vĩnh vừa thong thả đứng đánh răng dưới một gốc cây. Anh thoáng thấy một người quen mặt đi qua nhưng anh không buồn gọi.

Trời tháng Sáu Trảng Lớn đã bắt đầu có những cơn mưa về đêm. Buổi sáng giá lạnh nhưng buổi trưa sẽ lửa đốt. Nhớ lại hai ngày qua nằm bó giò trong căn phòng bé tí với một trăm mười chín người khác mà Vĩnh rùng mình. Nếu tình trạng này kéo dài, nội bệnh truyền nhiễm cũng đủ rụng như sung, ấy là chưa nói vô phúc gặp những dịch như sốt sưng màng óc, kiết lỵ... Vĩnh nhớ có một năm nào đó quân trường Quang Trung bị dịch sốt sưng màng óc. Với một hệ thống y viện đầy đủ các phương tiện thuốc men như trước đây mà số tân binh quân dịch bị tử vong còn lên đến độ báo động đỏ. Trong tình trạng thế này mà bị sốt sưng màng óc hoành hành có mà thánh chữa.

Vĩnh đánh răng xong, nhét bàn chải vào túi. Anh kéo tấm khăn lông trên cổ xuống, nhúng một góc khăn xuống vũng nước và bắt đầu lau đầu cổ chân tay. Thốt nhiên Vĩnh thấy có người đập nhẹ vào lưng.
- Tao tìm mày suốt lúc đến giờ!

Người vừa nói với Vĩnh là Nguyễn Tất Ứng, trưởng ban báo chí BTL/Hải Quân. Ứng còn là bố đỡ đầu thằng con thứ hai của Vĩnh. Hai người gặp lại nhau nơi địa điểm tập trung trường Lê Quang Định trên đường Lê Văn Duyệt Gia Định. Vĩnh hỏi lại bạn.
- Mày nhốt phòng nào?
- Tao cũng chưa định được vị trí phòng tao nằm đâu trong trại này nữa. Tao chỉ biết đàng sau phòng tao là một núi vỏ đạn 105 ly. Mày cứ đi vòng xuống phía dưới kia, gặp đống vỏ đạn là thấy phòng tao.
- Không hiểu chúng nó còn tiếp tục giam cứng tụi mình trong phòng nữa không?
- Tao nghe nói được thoải mái rồi.
- Thoải mái là sao?
- Là ra vô tự do nhưng trong khoảng khu hàng rào này thôi. Tao muốn nói là cửa phòng từ hôm nay được mở rộng 24/24...
- Mày có được nghe thêm gì không?

Ứng có vẻ đắn đo.
- Cũng toàn tin đồn thôi!
- Đồn sao?
- Thì nghe đồn sớm nhất mười ngày về, muộn nhất là ba tháng.
- Mày tin không?
- Thấy hơi vô lý nhưng cũng mong như vậy.

Một mối lo âu chợt thoáng qua nét mặt Ứng. Ứng hỏi lại. Vậy chớ mày nghĩ sao?
- Tao sợ mọt gông quá Ứng à! Vĩnh vừa nói vừa cố nở một nụ cười. Anh xoay sang vấn đề khác. Có gì ăn không?
- Tao có đem theo ít nếp. Khi nãy vừa ra khỏi phòng tao nấu ngay một lon guigoz. Đi, đi với tao xuống đó.

Khoác cái khăn lông lên vai, Vĩnh lẽo đẽo theo bạn len qua các đám đông cũng đang tụm năm tụm ba bàn tán để tiến về phòng Ứng. Quang cảnh của một hỏa ngục đang thành hình mang đầy vẻ hỗn độn và bê bết của nó. Trên những lối đi lầy lội vì cơn mưa đêm hôm trước, dưới những gốc cây, dưới những hiên nhà, tù từng đám tụ tập bên những cái bếp kê vội bằng dăm ba viên gạch, đang cong đuôi thổi lửa nấu nhanh một miếng nước sôi để pha cà phê hoặc đổ mì gói.

Đi loanh quanh một lúc hai người về đến phòng Ứng. Căn phòng bừa bộn và dơ bẩn như tất cả các phòng khác. Nếu không có mùi cà phê thơm ngát trong không khí chung quanh, người ta không thể tránh khỏi ý nghĩ đây là hang ổ của bọn ăn mày thường tìm thấy trong những tác phẩm của Charles Dickens.

Vĩnh theo Ứng vào phòng, tháo dép cầm tay và bò qua đống chăn chiếu của anh em để về chỗ Ứng. Vĩnh ngồi tựa vào vách đảo mắt nhìn quanh. Anh chợt nhận ra tay vô địch đẩy cây và nhu đạo của VNCH Vương Đắc Vọng. Anh chàng sỹ quan pháo binh kiêm thể thao gia nặng 80Kg cũng vừa nhận ra Vĩnh.
- Chào ông bạn. Hắn lên tiếng trước. Ông bạn đã nói sai rồi.
- Có thể, nhà vô địch ạ.
- Mong rằng câu chuyện sẽ không xảy ra đúng như ông bạn nói.
- Nhưng...

Vĩnh tính nói tiếp nhưng nghĩ sao anh lại thôi. Nhà vô địch coi bộ cũng không muốn tiếp tục mẩu đối thoại nên chỉ mỉm cười và quay trở về với ly cà phê của hắn. Vĩnh cũng cầm lấy miếng cơm nếp của Ứng lên miệng.
- Quen hắn hả? Lúc trên xe tao khổ vì hắn. Người đâu mà lại vô ưu đến thế! Xe vừa lăn bánh, ai cũng lo ngay ngáy không biết nó sẽ đưa mình tới đâu, thì hắn đã ngáy như pháo gầm.
- Thì hắn dân pháo binh mà lại.
- Quen hồi nào?
- Hôm ở Lê Quang Định. Hắn cùng trong tổ ăn 10 người với tao. Tao đùa nắm bắp đùi hắn, nói: Chắc chắn tụi nó sẽ đem mình ra biển. Chúng ta lại sẽ được đi tàu há mồm. Nhưng không phải Việt cộng cho chúng ta đi di cư, mà đem chúng ta đi nuôi cá mập. Cái đùi như ông thì phải biết...
- Mày hay đùa giỡn thái quá. Ứng cự nự. Thời buổi này cũng nên giữ mồm giữ mép. Con ếch nó chết vì cái mồm.
- Đồng ý. Còn mục gì nữa không để tao về?
- Ngồi tí nữa. Thằng nằm cạnh tao sắp đem cà phê vào. Nhấp chút rồi đi.

Chẳng hiểu sao bỗng dưng Vĩnh muốn đứng lên ngay. Anh từ chối.
- Thôi, no bụng là tốt rồi. Mình thua tụi nó chỉ vì mình có quá nhiều nhu cầu!

Vĩnh rời chỗ ngủ của bạn và bước ra khỏi phòng. Anh lần đường tìm về phòng mình. Về tới chỗ nằm, anh xếp lại chăn chiếu và lần đầu tiên trong hai ngày qua, anh quan sát kỹ một trong những góc cạnh của thiên đường Cộng sản mà từ đây, dù muốn dù không, anh cùng các chiến hữu phải chấp nhận; chấp nhận một cách miễn cưỡng nhưng không biết đến bao giờ. Tuy đã lâm vào tình trạng thế phải thế, Vĩnh vẫn nhủ lòng sẽ cố sống trong một tinh thần mai phục; đúng hơn, tinh thần của một phóng viên chiến trường. Anh sẽ cố gắng chụp cho hết những hình ảnh hậu chiến tuyệt vời này. Mai đây nếu chuyện biển máu không xảy ra, biết đâu, một ngày nào...

Lúc này mọi người đã trở về phòng. Tất cả đang lo sắp xếp lại mớ hành trang của mình. Họ xầm xì bàn tán. Họ tranh luận về một tương lai mà hầu như chưa ai biết nó sẽ như thế nào. Họ than thở về những lầm lỡ ngày qua...
- Thật là khôi hài cho cái sợ ấm ớ của mình. Một giọng nói có vẻ lạc quan lên tiếng. Khi đi, tao ngại đến độ không dám đem theo cả áo len. Tất cả cái gì có màu nhà binh tao đều bỏ lại nhà. Vợ tao năm lần bảy lượt lận vào sắc tao một hộp bơ, mấy hộp sữa. Tao nhất định bỏ ra. Anh đem theo ăn uống cho khỏe. Tao nổi cáu. Bộ em tưởng đi Picnic à? Đem mấy thứ này vào mà trêu ngươi chúng hả? Cuối cùng bố tao biết chuyện, nạt ùm lên và kết quả bây giờ tao... cái gì cũng ăn ké tụi mày.

Những câu chuyện như thế chấm dứt khi một tên quản giáo từ ngoài bước vào. Hắn trừng mắt lấy uy và tự động... hô lấy một mình.
- Nghiêm!

Như một phản ứng tự nhiên, tù đứng phắt cả dậy.

Tên quản giáo đảo mắt nhìn chung quanh và bắt đầu "lên lớp". Tôi không ngờ các anh nại vô nễ như thế. Quân trường ngụy có dạy các anh cách chào kính cấp trên không? Nần sau, thấy quản ráo vào, trưởng phòng phải hô nên thật nớn nghiêm! Nghe rõ không?
- Rõ!

Một vài tiếng lác đác trả lời. Tên quản giáo chưa hết bực. Hắn lên lớp tiếp.
- Dù gì các anh cũng từng nà sỹ quan. Sĩ quan mà ba nô ba niếc nuộm thuộm như thế kia à?
- Ba nô ba niếc nuộm thuộm vì nâu nắm thiếu cái n... ồ...n!

Một câu trả lời vu vơ, khe khẽ từ một góc nào đó nổi lên nhưng cũng đủ làm tên quản giáo điên máu.
- Anh nào ăn lói với Cách mạng mà mất rậy thiếu ráo rục như thế?

Hắn vừa hỏi vừa trừng đôi mắt đỏ gay vào một góc phòng. Không ai trả lời. Một lần nữa hắn hỏi như hét. Thằng lào? Thằng lào anh hùng nhận coi?

Chắc chắn là chẳng có ai lại anh hùng trong trường hợp này, và sự thiếu anh hùng tính trong đám tù mở đầu cho một cuộc trù ếm chửi rủa dài dài cho cả phòng từ đó về sau. Tên quản giáo như để bõ tức và củng cố uy tín của mình trong cương vị làm thầy ngay từ những giây phút đầu, hắn tiếp tục mạt sát và giảng đạo. Lói các anh rõ. Kể từ đây, các anh phải ý thức cho đúng vị trí mới của mình. Học tập cải tạo phải nghiêm túc, ăn lói phải khiêm tốn, lễ độ. Nịch sử đã sang trang. Kẻ chống đối như kẻ vừa nói câu khi nãy chắc chắn không sớm thì muộn sẽ bị bánh xe nịch sử nghiền nát. Các anh phải nhớ ngày hôm nay các anh chỉ còn có quyền sống để học tập cải tạo, còn tất cả các quyền khác đã hoàn toàn chấm dứt, kể cả quyền... nói tục. Vả nại, trong chế độ đặt trên cơ sở đạo đức cách mạng của ta không chấp nhận nói tục. Các anh chỉ có hai con đường, một, học tập cải tạo tiến bộ để trở về nàm người công rân nương thiện của xã hội xã hội chủ nghĩa; hai, các anh sẽ tự xử nấy mình nếu thấy rằng xã hội này không thích hợp với các anh. Xã hội này sẽ không có con đường... con c... Có nghĩa nà con đường... nưng chừng, ở giữa.

Câu ví von đầy đạo đức Cách mạng của tên quản giáo làm đám tù buột miệng cười hô hố.
- Cười cái rì?

Cái cười hô hố của bọn tù chạm nọc tên quản giáo một cách nặng nề. Mắt trợn trắng miệng sùi bọt mép, cơn giận của hắn vỡ tung ra như một căn bệnh ung thư tưởng không còn thuốc chữa. Hắn xốc tới một người đứng gần nhất chộp lấy cổ áo. ĐM. cười cái gì? Mày...

Tuy nhiên chưa nói hết câu hắn đã phải buông cổ áo người đối diện ra. Một tên quản giáo khác bất chợt bước vào.
- Chuyện gì thế đồng chí Cư?
- Thưa đồng chí, tôi...

Cái nóng của tên quản giáo có tên Cư chợt nguội tức khắc như một cục than hồng bị ném vào một cái thùng đựng nước tiểu.
- Cho anh em bầu bán gì chưa?
- Dạ... đang tiến hành.
- Các khối khác người ta bắt đầu cả rồi!

Tên quản giáo mới đến mặc dù cũng không mang quân hàm, nhưng căn cứ theo sự khúm núm thủ lễ của tên quản giáo Cư, mọi người đều đoán rằng y phải có một chức vụ gì cao trong tiểu đoàn.

Sau khi lườm người đồng chí của mình một cái thật kín đáo, y quay sang đám tù. Bằng một giọng mật ngọt chết ruồi, y nhập đề ngay. Thế này nhé, thẳng thắn với các đồng chí, à quên, thẳng thắn với các anh, đồng chí Cư làm như ban nãy là có sai đường lối. Nhân danh cán bộ đảng, tôi... dàn hòa.

Y tằng hắng, vén cao tay áo rồi tiến lên một bước và tiếp tục. Khối này hơi đặc biệt, phải không? Vậy thì tôi sẽ đích thân làm việc với các đồng chí, à quên, với các anh, nhé! À mà hôm nay các anh đã thấy thoải mái chưa nào?

Câu hỏi vu vơ lấy lòng của tên cán bộ Đảng không được ai trả lời. Và hình như chính y cũng chẳng cần ai trả lời. Y ào ào nói tiếp. Theo chương trình của ban chỉ huy trại, kể từ ngày hôm nay các anh sẽ được Trên chiếu cố hơn để bắt đầu bước vào học tập. Cái kiến con ong còn biết tổ chức, thượng tầng kiến trúc, hạ tầng cơ sở tạo điều kiện tốt cho sinh hoạt tập thể. Chả nhẽ ta lại không? Thế cho nên Cách mạng yêu cầu các anh phải có ý thức cao về tổ chức hệ thống điều hành và có tinh thần cao chấp hành theo mệnh lệnh của hệ thống tổ chức ấy, mà tới đây, tôi và đồng chí Cư sẽ giúp đỡ các anh phương pháp bầu bán sao cho tốt, đạt được yêu cầu của Cách mạng. Các anh có nghe rõ không? Mấy anh ở góc dưới kia kìa?

Vài tiếng lác đác trả lời. Như chưa vừa ý, tên cán bộ Đảng hỏi lại. Các anh có nghe tôi hỏi không? Các anh ngồi dưới góc nhà kia có nghe tôi rõ không?
- Rõ!
- Thế thì tốt!

Tên cán bộ Đảng nói đoạn xoay qua nói nhỏ với tên quản giáo Cư một điều gì đó. Sau khi tên Cư bỏ đi, y quay trở lại với đám tù. Đề nghị với các anh, y tiếp. Chúng ta cùng ngồi cả xuống làm việc thoải mái hơn.

Mọi người chỉ chờ có thế. Y cũng ngừng nói và bước ra đứng gần phía cửa, thỉnh thoảng ngó lung ra ngoài như chờ đợi ai. Bây giờ Vĩnh mới chú tâm quan sát kỹ tên cán bộ Đảng. Đầu tiên là khuôn mặt của y, một khuôn mặt xương xẩu, lạnh tanh và tái như đã mất ba phần tư máu trong thân thể. Đôi mắt một to một nhỏ nằm láo liên dưới cặp lông mày thưa thớt như gái vô mao. Chiếc mũi khoằm của y lúc nào cũng như đề phòng sự quật khởi của hàm răng vẩu đầy bựa cơm nằm trơ thổ địa bên dưới. Tên quản giáo Cư đã quay trở lại. Hắn chìa cho tên cán bộ Đảng một tờ giấy. Tên cán bộ Đảng cầm lấy và xoay mặt về phía tù. Y cất tiếng.

- Thôi bây giờ thì ta triển khai công tác bầu bán nhá, mình quân sự cả, cơ cấu tổ chức chỉ cần nói sơ qua các anh cũng nắm vững rồi. Bây giờ theo đúng thể thức dân chủ tôi hướng dẫn các anh bầu ra một trưởng khối, hai phó khối một đặc trách hậu cần và một đặc trách điều hành các công tác lao động hàng ngày. Khối ta từ nay sẽ gọi là khối 10. Y chợt ngó vào tờ giấy rồi tiếp. Khối ta có 120 người, phải không? Vậy thì ta sẽ chia làm 12 tổ, mỗi tổ 10 người gồm một tổ trưởng và một tổ phó. Nói tới đây, y lại ngừng lại, đôi mắt nhấp nháy nhìn vào lũ tù. Thế nào, các anh có ý kiến gì không?
-...?

Không nghe ai đáp ứng, tên cán bộ Đảng lại tiếp.
- Nhất trí cả chứ? Thế thì tốt thôi! Nói đoạn y lại ngó vào tờ giấy. Thế thì là thế này, nhé. Để tranh thủ thời gian cho các anh nghỉ ngơi, chúng tôi đề nghị một số các anh học viên cải tạo trong anh em ra tranh cử, nhé. Các anh có nhất trí không nào?

Không ai trả lời. Nhất trí cả phải không? Thế thì tốt thôi! Bây giờ tôi đọc tên ai người ấy đứng lên nhá. Nói xong, theo đúng thể thức dân chủ kiểu Cộng sản, y nâng tờ giấy lên tận mắt và bắt đầu ê a đọc một lô tên tuổi. Những nhân vật được chọn từ trước lục đục đứng lên. Có kẻ hăng hái, có người hơi ngỡ ngàng không hiểu tại sao y lại gọi tên mình.

Kết quả cuộc bầu cử được thành công mỹ mãn, mà nói theo kiểu Việt cộng thì... đây là một thắng lợi lớn trong bước đầu của ta! Trương Thành Trai, trung úy phi công F5, khối trưởng. Nguyễn Ngọc Đỉnh, trung úy y sỹ, khối phó hậu cần. Quách Tứ, trung úy phi công trực thăng, khối phó điều hành kiêm tổ trưởng tổ A.3.

Vân vân và vân vân...

Sau cùng, cũng theo một phương thức cực kỳ dân chủ, một danh sách phân người cho các tổ được đọc lên. Và Vĩnh thuộc tổ A.3. của Quách Tứ, sỹ quan không quân và cũng là cháu gọi tác giả của câu thơ "sóng mài nghiên biển ngòi non chấm, gió trải tờ mây chữ nhạn đề" bằng chú.
(còn tiếp)

Không có nhận xét nào: