Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2025

Người Hai Lần Chết Phần II - Ngũ Lang


Sau đây là diễn tiến bốn giai đoạn hành quân.
THANH TUYỀN 1: Mục đích cuộc hành quân nầy nhằm đưa đến tay tướng CS Chu Huy Mân cuốn mật mã mà các toán biệt kích Dù sử dụng để liên lạc với bộ chỉ huy của Đại tá Hai. Hẳn nhiên là cuốn mật mã giả nhưng làm sao cho nó như thật. Đây là màn kịch: Một Trung úy của Liên đoàn Biệt Kích Dù của Đại tá Hai và 3 hạ sĩ quan trong toán nhảy xuống một khu rừng núi do quân BV kiểm soát. Người sĩ quan bất hạnh nầy, vì dù không mở, chết liền khi chạm đất. 
<!>
Các nhân viên trong toán thấy chỉ huy đã chết và hình như địch sắp đi tới nên lo chạy thoát thân, không kịp cuốn dù lại và chôn như qui định an ninh. Họ cũng không lục được túi áo của chỉ huy vì dù của họ rớt hơi xa dù của chỉ huy, mò đến chỗ chỉ huy rớt là một chuyện quá khó khăn trong rừng già. Họ chỉ nhìn thấy chỉ huy là một chấm đen từ lúc rời phi cơ và mất hút trong rừng vì dù không mở nên không rớt lại gần các dù khác của toán.

Trong túi áo trên của viên trung úy được đặt tên là Tự (gần chữ Tử) có một cuốn lịch mật mã, tên gọi là hệ thống mật mã của các toán tình báo, biệt kích xài, tiếng Mỹ gọi là “One Time Path”. Mật mã nầy giống như cuốn lịch có 365 tờ, mỗi tờ xài 1 ngày. Ví dụ ngày n, trong tờ lịch ngày đó chữ a được thay thế bằng số 03, chữ b thế bằng số 07 v.v.... Qua ngày hôm sau, bản mật mã ngày trước được đốt bỏ. Trong ngày có chữ a được thế bằng số 15, chữ b bằng số 03 v.v... Làm như thế nếu địch thám mã được ngày n, mà đây là chuyện hết sức khó khăn và lâu dài, địch chỉ có thể đọc được các điện này ngày n. Ngày n + 1 hay n - 1 địch không đọc được.

Hành quân nầy đòi hỏi một trung úy Biệt kích chết. Trong thực tế không có người nào hy sinh hết. Người hy sinh là một xác chết của một anh hùng vô danh trong quân đội. Sở dĩ Đại tá Nghĩa sử dụng một xác chết trong công tác nầy vì ông ta nhớ trước đó độ 10 năm, có xem tại rạp Rex một phim nói tiếng Pháp tựa: “L'homme qui n'a jamais existé” (Người không bao giờ có thật). Cuốn phim dàn cảnh lại một cuộc hành quân lừa địch có thật của tình báo Anh. Năm 1943, quân Mỹ và Anh sau khi thắng trận Bắc Phi, đạo quân Africa Corp của tướng Rommel bị tiêu diệt, chuẩn bị đổ bộ lên đảo Sicile để giải phóng nước Ý. Cơ quan C&D của Anh dàn cảnh để cho quân Đức lầm tưởng điểm đổ bộ là Hy Lạp và tập trung đại quân về đó. Một người chết vô danh được sử dụng đóng vai một Thiếu tá trong bộ tham mưu Hoàng gia Anh. Viên Thiếu tá giả này mang trong túi, ngoài giấy tờ thường lệ, một thơ tay của Lord Gort Tổng Tham mưu trưởng gởi cho tướng Eisenhower tư lệnh lực lượng đổ bộ. Lời lẽ trong thơ làm cho người đọc tin chắc không thể lầm được điểm nầy. Xác chết được đặt trong một cái hộp chứa chất tuyết các bon (neige carbonique) để xác còn tươi. Ngoài quân phục, trong túi nạn nhân còn một vài món cần dùng xác nhận là y đã từng sống ở Luân Đôn. Trong những món đó có 2 vé xem chớp bóng tại một rạp hát ở Luân Đôn chứng tỏ mới gần đây y đã đi xem chớp bóng với cô bạn gái. Xác chết được một tiềm thủy đĩnh mang đến Địa Trung Hải ngoài khơi Tây Ban Nha. Tình báo Anh biết rằng, Tây Ban Nha dưới quyền tướng Franco lúc đó, tuy giữ trung lập nhưng nhắm mắt làm ngơ cho một số lớn tình báo viên Đức Quốc Xã hoạt động trên lãnh thổ Tây Ban Nha để thu thập tin tức về Đồng Minh. Đặc biệt trên bờ biển mà xác chết sẽ tấp vào, lúc nào cũng có người Tây Ban Nha làm tình báo viên cho Đức. Xác chết được bố trí cho đúng với một người đi phi cơ bị tai nạn rớt xuống biển, chui ra được phi cơ rồi chết sau đó.

Đúng như kế hoạch C&D dự liệu, xác tấp vào bờ biển đã bị người nào đó lục soát giấy tờ trước và lấy đi bức thơ. Sau đó, nhà chức trách Tây Ban Nha báo cho tổng lãnh sự Anh ở một thành phố gần đó đến lãnh xác để mang về chôn bên Anh với tất cả giấy tờ còn lại.

Hành quân lừa địch nầy đã thành công hoàn toàn.
Chuyện phim đó đã gợi hứng cho Đại tá Nghĩa dàn cảnh hành quân Thanh Tuyền 1. Chuyện đầu tiên là phải tìm cho ra một xác chết còn nguyên không có thương tích, tuổi khoảng từ 25 đến 30. Nghe thì dễ nhưng lại khó kiếm vô cùng vì đâu có phải là món hàng bán ngoài chợ. Đại tá Nghĩa nhớ lại có một người cháu rể tên Phát là Thiếu tá Quân Y (sau lên Trung tá) phục vụ ở quân y viện Nguyễn Tri Phương tại Huế, chỉ huy trưởng quân y viện nầy là Trung tá Cơ.

Đại tá Nghĩa đến gặp Thiếu tá Phát, nói sơ qua nhu cầu hành quân cần một xác chết còn mới và nhờ dẫn đến giới thiệu với Trung tá Cơ.
Đây là văn phòng Trung tá Cơ.

Sau khi được Thiếu tá Phát giới thiệu, Đại tá Nghĩa đi ngay vào đề:
- Thưa Trung tá, bộ tư lệnh hành quân cần một xác chết còn trẻ, mới chết, cơ thể còn nguyên. Chúng tôi biết nhu cầu nầy rất khó thỏa mãn nhưng sau khi được Thiếu tá Phát giới thiệu, tôi tin Trung tá là người duy nhất tại Quân Khu 1 có thể thỏa mãn yêu cầu nầy của bộ tư lệnh. Tôi xin thêm đây là một công tác tối mật chỉ có Trung tá và Thiếu tá Phát biết mà thôi.

Trung tá Cơ nhìn người khách lạ với đôi mắt hơi ngỡ ngàng mà chưa vội trả lời. Có lẽ ông ta bị méo mó nghề nghiệp nên nhìn viên Đại tá nầy coi có phải là một bệnh nhân tâm thần, mà Thiếu tá Phát gặp ở đâu đó nên lôi về đây nhờ chữa giùm.

Một lúc sau Trung tá Cơ mới trả lời:
- Các điều kiện về xác chết của Đại tá thật là khó. Trẻ thì hầu hết những quân nhân chết tại đây đều trẻ. Có điều họ chết vì thương tích không có người nào còn cơ thể lành lặn. May ra hay bất hạnh cho người đó là chết bệnh. Trường hợp này rất ít. Đại tá thấy điều kiện đưa ra quá khó với chúng tôi mặc dù tôi không do dự chút nào khi phải thi hành lệnh của Trung tướng Trưởng.

Đại tá Nghĩa cũng nhận thấy lời Trung tá Cơ là hữu lý, nhưng ông ta vẫn cố xin cho được:
- Nếu có một quân nhân chết bịnh đúng nhu cầu xin Trung tá gọi điện thoại lập tức cho tôi hay tốt hơn bảo Thiếu tá Phát gặp tôi.

Trung tá Cơ lại nêu lên một khó khăn khác:
- Còn một chuyện khó khác mà tôi không thể nào giải quyết được. Trong quân đội ta, người chết bất kỳ cấp bực nào cũng phải được quân y viện thông báo cho gia đình đến lãnh xác về chôn. Nếu gia đình ở xa thì đơn vị quân đội, đại đội chung sự, lãnh việc ma chay. Sau đó còn lập thủ tục giấy tờ để cho thân nhân lãnh tiền tử tuất. Nếu tôi giao xác đó cho Đại tá thì làm sao giải quyết vấn đề thủ tục?

Đại tá Nghĩa thấy đây là phút quyết liệt phải đẩy Trung tá Cơ vào thái độ dứt khoát. Ông ta nghiêm giọng:
- Thưa Trung tá, tôi biết thủ tục dành cho anh em quân nhân chết, những anh hùng của quân đội ta. Tôi thành kính nghiêng mình trước mọi chiến sĩ hy sinh. Tuy nhiên khi sống đã hy sinh cho đất nước, nay chết rồi mà có cơ hội hy sinh, tôi nghĩ rằng lý do đó cao quý hơn lý do nào khác kể cả thủ tục giấy tờ. Đây là lệnh của Trung tướng Trưởng. Trung tá phải xoay xở thế nào để thanh thỏa vấn đề thủ tục bởi vì đây là một công tác quan trọng góp phần vào thắng lợi tương lai của quân ta.
Trung tá Cơ đành đồng ý, chắc chắn là miễn cưỡng, để cho người khách không mời mà đến mau đi khuất mặt ông ta.
Đại tá Nghĩa bắt tay từ biệt Trung tá Cơ với lời nhắn chót: “Xin Trung tá nhớ đây là công tác tối mật!”

Bước khó khăn nhất trong hành quân Thanh Tuyền 1 được tạm giải quyết vì đã tìm được diễn viên chính. Bây giờ đi tìm người phụ tá cho Đại tá Nghĩa để thi hành kế hoạch.
Đại tá Nghĩa đến gặp Đại tá Hai, cho ông nầy biết nội dung kế hoạch, mục tiêu, diễn biến hành quân mà khung cảnh chánh là những cuộc hành quân biệt kích của Đại tá Hai. Ông Hai rất thông cảm và biệt phái cho Đại tá Nghĩa một sĩ quan xuất sắc trong đơn vị ông ta để điều khiển hành quân hay là làm nhiệm vụ phụ tá hành quân cho Đại tá Nghĩa.

Thật là may mắn cho ông Đại tá nầy. Ông ta có hai sĩ quan tận tụy lo giải quyết vấn đề tham mưu là Đại úy Vệ và Thiếu úy Trúc. Nay ông vớ được một phụ tá quý giá là Trung tá Sinh. Tất cả những sĩ quan nầy đều là những cộng tác viên tuyệt vời. Ở ngoài không ai hay biết nhưng chính họ là những người biến tư tưởng của Đại tá Nghĩa thành hành động, những người có công rất lớn trong cuộc chiến bí mật nầy.
Suốt mấy ngày sau, Đại tá Nghĩa và Trung tá Sinh chúi mũi vào địa đồ xem khu vực nào thuận lợi nhất cho cuộc hành quân, nghiên cứu không ảnh để tìm khu vực định thả dù gọi tắt là DZ (dropping zone). Đây là một khu vực rừng già có đường mòn Hồ Chí Minh chạy ngang phía Tây bắc Huế. Sau khi lựa chọn kỹ, cả hai đã lựa điểm DZ, gần một căn cứ hậu cần của BV. Có những đường mòn cho thấy đó là dấu vết của các toán quân tuần thám xuất phát từ căn cứ đó. Điểm DZ được lựa để chậm lắm trong vòng 48 tiếng thế nào cũng có lính BV tuần thám đi ngang.

Đồng thời với sự lựa chọn địa điểm, Đại tá Nghĩa và Trung tá Sinh chuẩn bị những món cần thiết khác để khi có xác chết có thể tung cuộc hành quân trong vòng 24 tiếng. Trong những món đó có 2 phi cơ C119 của riêng Nha Nghiên Cứu dùng để thả dù những công tác đặc biệt.

Một ngày đẹp trời, Thiếu tá Phát đến báo cho Đại tá Nghĩa biết có hàng rồi hiện đang trong hộp lạnh. Đại tá Nghĩa liền đến gặp Trung tá Sinh để xem lại đồ chuẩn bị: quần áo dù cho Trung úy Tự. Trong các túi của bộ đồ dù có đủ đồ cần dùng mà một chiến binh biệt kích mang theo. Ở túi trên ngực trái, có quyển lịch mật mạ được chế biến riêng. Các trang trước ngày N của Thanh Tuyền 1 (ngày Trung úy Tự xuống đất) bị lột bỏ. Quyển nầy hình dáng cũng giống như quyển mà các toán biệt kích đang xài trong rừng nhưng những con số hoàn toàn khác biệt. Đó là mật mã giả, chỉ có Trung úy Tự và bộ chỉ huy liên lạc với nhau. Một công điện từ bộ chỉ huy cho lịnh các toán trong rừng ngưng liên lạc, giữ im lặng truyền tin một tuần lễ kể từ ngày N. Biện pháp này phòng ngừa trường hợp tình báo kỹ thuật địch bắt được mật điện trao đổi giữa các toán và bộ chỉ huy mà không giải mã được với cuốn lịch trong túi Trung úy Tự nên nghi mật mã họ nắm được là giả.

Trong túi Trung úy Tự còn có một bức thơ mới nhận của cô bạn gái do Đại tá Nghĩa nhờ một sĩ quan khác, không biết gì về chuyện nầy, mượn một cô gái quen viết. Đại khái thơ kể lại những buổi đi chơi thơ mộng ở lăng Tự Đức trước khi BV tấn công và hi vọng hết giặc hai đứa mình sẽ như đôi chim liền cánh, lá liền cành.

Ngoài ra đồng xuống dù với Trung úy Tự có 3 cây nước đá thế cho 3 toán viên, dù chở lương thực, vũ khí, đạn dược, thuốc men và địa đồ đúng như thực.

Ngày N của Thanh Tuyền 1 diễn ra 2 ngày sau khi Thiếu tá Phát báo tin có hàng. Ngày đó diễn ra gần một tháng trước ngày N của hành quân Lam Sơn 72.

Một buổi chiều, hai phi cơ C119 cất cánh ở phi trường Phú Bài. Trước khi cất cánh các phi công được cung cấp các yếu tố tốc độ gió, độ thấy, mây để khi phi công ra lệnh Drop (thả) dù rớt đúng địa điểm ấn định. Giờ cất cánh được tính toán sao cho khi phi cơ đến trên không phận DZ trời vừa sụp tối, để tránh quân dưới đất thấy dù chạy lại phát giác những cây nước đá, nhưng cũng đủ sáng cho phi công thấy được DZ.

Đại tá Nghĩa, Đại tá Hai đi trên phi cơ thứ nhất dùng làm bộ chỉ huy hành quân. Phi cơ thứ nhì chở Trung tá Sinh, 2 phụ tá và các kiện hàng lỉnh kỉnh của ông ta. Chính tay ông Sinh với sự trợ giúp của phụ tá thi hành thả hàng.

Khi phi cơ cất cánh Đại tá Nghĩa thở phào nhẹ nhõm. Thế là màn đầu của hành quân kể như diễn tiến tốt đẹp. Ông ta khoái trá nhớ đến trong từ ngữ tình báo Pháp có chữ intoxication tương đương với từ ngữ dương đông kích tây của Đông Phương. Intoxication nghĩa đen là đánh thuốc độc. Đại tá Nghĩa nghĩ lan man:
- Xét ra nhiệm vụ của mình trong hành quân Lam Sơn 72 đúng là đưa chén thuốc độc cho địch nhấm. Hành quân Thanh Tuyền 1 nầy chỉ đưa cho chúng nhấm sơ độ 1/4 chén thuốc độc thôi.

Đang lúc thích thú suy nghĩ thì phi cơ đã vào khu vực địch lúc nào không hay. Ở dưới đất lóe lên một chấm đỏ giữa đám lá rừng, một khẩu phòng không nhả đạn. Rồi các chấm đỏ lóe lên càng lúc càng nhiều. Đại tá Nghĩa nhìn đồng hồ, chỉ khoảng 10 phút nữa là đến không phận điểm DZ. Bỗng nhiên Đại úy phi công trưởng, vẻ mặt căng thẳng, báo cáo làm đứt ngang giây phút khoan khoái của ông ta. Phi cơ bị hư một máy không biết do trục trặc máy móc hay phòng không địch. Đại úy phi công xin phép trở lại Phú Bài. Tình trạng phi cơ có hai máy mà hư hết một thật nguy hiểm, có thể rớt bất cứ lúc nào nhất là ở dưới phòng không bắn lên. Đại tá Nghĩa hỏi phi công coi phi cơ còn đủ sức lết về Phú Bài không. Phi công trả lời: “May ra”. đại tá Nghĩa lấy quyết định liền: “Cho phi cơ quay trở lại Phú Bài” và liên lạc với phi cơ Trung tá Sinh ra lịnh tiếp tục thi hành nhiệm vụ.

Trên đường về, Đại tá Nghĩa ân hận lúc đi, tính toán dự trù đủ mọi chuyện chỉ không dự trù trường hợp xấu nhất, bản thân bị địch bắt. Lúc trước lên phi cơ, mỗi người đều mang dù vì công tác trong vùng địch hậu. Nếu nguy cấp lắm thì nhảy nhưng trong khu vực rừng núi do địch kiểm soát, có nhiều khả năng bị địch bắt nếu nhảy xuống mà không đem theo một viên cyanure de potassium để nhậu khi sắp sửa bị địch bắt phải khỏe thân không. Mà nếu không bị địch bắt thì dễ gì về tuyến của mình khi không còn trang bị dụng cụ, lương thực để mưu sinh thoát hiểm. Còn một chuyện nữa, mình chết hay bị bắt thì toàn bộ hành quân Thanh Tuyền 1, 2, 3, 4 đều kể như vất đi. Một công trình sáng tạo với bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của mình và bao nhiêu người khác mà vứt vào sọt rác, rồi hình ảnh các chiến sĩ Dù và TQLC hàng hàng lớp lớp ngã gục trước hỏa lực dày đặc của địch, những tư tưởng hắc ám đó cứ dày vò Đại tá Nghĩa đến khi phi cơ chạm đất tại Phú Bài. Ở đây phải giở nón bái phục tài lái phi cơ của 2 viên phi công.

Không lâu sau, Trung tá Sinh báo về bằng mật ngữ: “Tất cả diễn tiến tốt đẹp”. Thật hú vía. Đúng như thầy bói nói: trước dữ sau lành!
Hai ngày sau từ bộ chỉ huy của Đại tá Hai một công điện di chuyển một toán giả gọi là toán Metro đến gần quốc lộ 9 để quan sát và báo cáo số lượng quân địch di chuyển từ Khe Sanh về Đông Hà. Ngày kế tiếp 2 công điện khác di chuyển 2 toán giả khác Tango và Nina về quan sát di chuyển của địch trên quốc lộ 1 từ Vĩnh Linh về Đông Hà. Ngày sau nữa, 2 toán giả Coca và Tétra được điều động về một cao điểm có rừng rậm gần Đông Hà ở đó đợi lệnh. Tất cả lịnh nầy sử dụng mật mã của Trung úy Tự. Hai ngày sau một công điện chót sử dụng mật mã của Trung úy Tự cho tất cá các toán biết Trung úy Tự toán Lola đã mất liên lạc với bộ chỉ huy từ khi nhảy toán. Có thể ông ta bị địch bắt với cuốn mật mã. Kể từ hôm nay, vì lý do an ninh, các toán xài cuốn mật mã Bêta là cuốn dự trữ mỗi toán khi nhảy mang theo 2 cuốn.

Sự thật Alpha và Bêta là chuyện phịa. Mỗi toán khi nhảy chỉ mang theo 1 cuốn mật mã. Họ đã giữ gìn im lặng truyền tin suốt 7 ngày. Đến ngày thứ 8 thì liên lạc bình thường trở lại.
Với hành quân Thanh Tuyền 1, Đại tá Nghĩa hy vọng dưng cho tướng Chu Huy Mân 1/4 chén thuốc độc với địa danh Đông Hà. Cái gì sẽ xảy ra tại Đông Hà nằm trong hành quân Thanh Tuyền 2.

THANH TUYỀN 2
Đại tá Tiếp đúng như lời yêu cầu đã giới thiệu cho Đại tá Nghĩa một sĩ quan ngành an ninh tên là Đại úy Trung. Đây là một anh chàng bảnh trai, có vẻ hào hõa phong nhã, một tay sành sỏi các hộp đêm. Anh ta mang bộ râu Clark Gable trông thật là ngộ. Thật là một con chim lạ ít có. Đại úy Trung có một tửu lượng phi thường. Bắt ông ta đóng vai người say nói bậy trước mặt nguồi đẹp chắc không ai hơn.
Đại tá Nghĩa đã bố trí cho Đại úy Trung tiếp xúc với người đẹp hai lần, lần đầu để biết nhau, lần thứ hai để họ trở thành đôi bạn tâm tình.

Lần thứ ba, là màn chánh của kịch bản. Trước ngày gặp đó Đại tá Nghĩa đã hội thảo (briefing) với Đại úy Trung thật kỹ từ câu nói, từ cử chỉ khi gặp người đẹp. Hội thảo là danh từ tình báo chỉ giai đoạn hướng dẫn tình báo viên lần chót trước khi tung người đó đi công tác.

Một đêm đẹp trời trên sông Hương trước ngày N của hành quân Lam Sơn 72 độ nửa tháng. Vầng trăng sáng vằng vặc trải dài trên sông Hương như giải lựa bạc. Gió thổi nhẹ mơn trớn tà áo các cô gái chèo đò. Trời đẹp quá, một cái đẹp huyền diệu trong câu chuyện liêu trai. Cảnh như thế nầy mà không xuống đò sánh vai người đẹp uống cho đến khi đất quay trời quay như thi sĩ Tản Đà thì phí đi cuộc đời.

Đã có hẹn trước, hôm nay Đại úy Trung, bộ ria mép tỉa rất kỹ, bộ đồ rằn ri thẳng nếp, đã đến đúng giờ hẹn, 8 giờ tối. Người đẹp đã chờ sẵn dưới đò. Người đẹp dưới ánh trăng đêm nay lại đẹp hơn, quyến rũ hơn những lần trước. Thật là đôi trai tài gái sắc. Chỉ tiếc là ông Tạo trớ trêu bắt họ ở hai bên chiến tuyến và lãnh những nhiệm vụ quỷ quái trong đó con tim không có đất đứng. Nếu không có những khắc nghiệt của chiến tranh cặp này làm vợ chồng ở ngoài đời hay đóng một phim tình cảm thì đẹp biết mấy, thơ mộng biết mấy!

Một bữa tiệc tuy không thịnh soạn nhưng cũng đủ các món nhậu nổi tiếng của đất Thần Kinh như món gỏi cầu kỳ có tên Giấm ruốt. Một chai Johnny Walker, từ một câu lạc bộ Mỹ nào đó, chễm chệ trên bàn ăn.
Người đẹp gắp thức ăn vào chén cho Đại úy Trung đầy tình tứ không thua một người vợ yêu đương nào khác. Thức ăn ngon, rượu ngon, người đẹp chiều chuộng, chẳng mấy chốc chai rượu vơi đi gần nửa trong lúc đó người lái đò cho thuyền chậm chậm trôi về thượng nguồn hướng chùa Thiên Mụ.
- Ngọc, người đẹp của lòng anh, bữa rượu nầy làm anh nhớ hoài. Anh ước gì trong cuộc đời cô đơn của anh sẽ có em chen vào để mang lại chút ấm áp gia đình, ước mơ lớn nhất của anh.

Giọng Đại úy Trung hỏi lè nhè rượu.
- Thôi đi, Ngọc nũng nịu trả lời, ông tướng Sàigòn đừng hứa nhăng hứa cuội nữa. Ông nào cũng có một lô bà ở Sàigòn. Ra đây ông nào cũng nói với chúng em là mồ côi vợ. Khổ một nỗi chúng em lại dễ tin mới chết chứ!
- Họ khác, anh khác, không lẽ anh phải thề với em. Mà thôi dẹp chuyện đó đi. Ngày nào em thành bà Đại úy Trung, anh sẽ cắn em về lời buộc tội tối nay, chịu không cưng?

Đại úy Trung nốc gần hết ly rượu, lấy khăn tay quẹt môi, rồi bỗng nhiên tặc lưỡi có vẻ hơi buồn.

Người đẹp hỏi:
- Sao đang vui, anh lại tỏ vẻ buồn như thế, em hổng chịu đâu.
- Anh không giấu em, từ ngày biết nhau đến nay, xa em một ngày anh thấy thời gian dài quá, dài bằng năm lận. Sau bữa nay, anh phải xa em về Sàigòn công tác độ nửa tháng. Buồn quá, thời gian dài xa em như vậy anh chịu hết nổi. Em là con quỉ yêu đương của anh. Ngày xưa, chưa biết em, anh như con bướm trong tình trường, khi vui nó đậu khi buồn nó bay. Bây giờ xa em một ngày chịu không nỗi, có lẽ quả báo đấy.

Người đẹp rót thêm một ly rượu mới, châm soda, bỏ vào vài cụm nước đá, lắc lắc rồi âu yếm đưa cho Đại úy Trung.
- Uống đi anh. Chuyện gì phải về Sàigòn lâu vậy. Lần nầy anh đừng hòng gạt được em nữa. Em không tin đâu. Đây là mặt trận, lính Dù mấy anh đánh ở đây chớ công tác gì mà về Sàigòn cả nửa tháng. Anh về với người đẹp Sàigòn nào đó bộ em không biết sao!

Đại úy Trung hớp một hớp rượu sau khi nhai một đũa giấm ruốt.
Khổ quá! Chưa gì đã giở trò ghen tuông. Đáng lẽ anh không được quyền nói gì đến công tác với người khác. Quy luật an ninh cấm. Nhưng em có phải người khác đâu, em với anh là một chớ gì nữa.

Đại úy Trung vừa nói vừa ra bộ làm cho người đẹp đỏ mặt, ông ta tiếp:
- Thôi tôi phải nói sự thật cho người đẹp hay ghen biết. Anh về Sàigòn để thúc đẩy các quan bàn giấy ở bộ tư lệnh Tiếp vận cung cấp số dù đầy đủ cho toàn thể sư đoàn trong thời gian ngắn nhất. Anh sợ nửa tháng còn không kịp.
Người đẹp hình như sáng mắt lên. Nàng mở miệng muốn hỏi nhưng nghĩ sao lại thôi. Nàng tiếp tục châm rượu cho Đại úy Trung. Chai rượu đã gần cạn. Đại úy Trung lè nhè 2 câu thơ Đường trong bài Lương Châu Từ:

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi

Thêm một ly nữa, Đại úy Trung gục đầu bên vai người đẹp. Ông ta hình như quá say. Bỗng nhiên ông ta ụa ra một tiếng lớn rồi phun vọt đồ trong bụng ra, cũng may là không trúng người đẹp. Đây là giai đoạn dân nhậu gọi là “phun kiếm” hay là “chó ăn chè”.
Ngọc dìu Đại úy Trung, bây giờ hết biết gì nữa, xuống chiếu hoa, lấy khăn lau miệng ông ta và kê lên đầu gối như người vợ hiền.

Đêm đó trong cơn bão tố ái tình nếu có đệ tam nhân rình, sẽ nghe ngoài những câu không đầu, không đuôi, một câu có vẻ có đầu có đuôi thôi: “Tụi anh, nguyên cả sư đoàn sẽ nhảy xuống Đông Hà. Tụi anh sẽ bắt tay với mấy thằng thủy quân làm biếng từ Cửa Việt đi lên. Tụi anh sẽ dần thằng Cộng nát như tương tàu. Em tin đi, sắp hết chiến tranh rồi. Anh yêu em, anh cưới em, anh sẽ......”

Đến đây chỉ còn nghe tiếng hổn hển của đôi tình nhân yêu nhau.
Ngày hôm sau, khi nghe Đại úy Trung báo cáo công tác hoàn tất, Đại tá Nghĩa bỗng dưng thấy lòng mình se lại, thấy mình đã tàn nhẫn quá với người sĩ quan nầy. Ông ta có quyền hưởng lạc thú ở đời. Thế mà mình lợi dụng ông ta trong trò yêu đương! Xét cho cùng ai cũng có tội nhưng người tội lỗi nhất là kẽ đã mang chiến tranh vào lãnh thổ miền Nam, kẻ đã đẩy người Việt giết người Việt không gớm tay!

Sau khi Đại úy Trung báo cáo, Đại tá Nghĩa đã điện thoại cho chỉ huy trưởng của ông ta, yêu cầu cấp cho ông ta một sự vụ lệnh đi Sàigòn công tác nửa tháng cho đúng như thực. Đây là đề phòng đồng bọn của người đẹp phối kiểm lời ông ta nói lúc say.
Hai địa danh Đông Hà, Cửa Việt đã được gởi đi cho các cấp chỉ huy BV ở bên kia kèm theo một vài chi tiết để cho họ không lầm lẫn được ý định tương lai của vị tư lệnh chiến trường miền Nam.
Sau đó Đại tá Nghĩa bắt tay vào hai màn hát Thanh Tuyền 3 và 4.

THANH TUYỀN 3
Thanh Tuyền 3 là một cuộc hành quân nhảy dù giả xuống Đông Hà.
Một loạt công điện giả trao đổi giữa Bộ tư lệnh Tiếp Vận Vùng và Bộ tư lệnh Tiếp vận Trung ương về chuyện di chuyển số dù và quân trang, quân dụng khác cần thiết cho một cuộc hành quân nhảy dù đại qui mô. Đại tá Nghĩa hy vọng tai mắt của địch ở nhiều cơ quan trong quân lực VNCH sẽ đánh hơi được chuyện này. Ngoài ra, còn quân trang quân dụng cần thiết cho một hành quân đổ bộ cho 1 sư đoàn TQLC.

Về phía Mỹ, Đại tá Nghĩa đã được Hạm đội 7 gởi cho 1 đại tá liên lạc để tiếp nhận nhu cầu của Đại tá Nghĩa về Hải quân và Không quân mà bên Việt Nam không đủ sức đảm nhận. Sư yểm trợ của Mỹ cho Đại tá Nghĩa trong Thanh Tuyền 3 và 4 hết sức quý giá. Thông thường muốn mở một cuộc hành quân nhảy dù hay đổ bộ từ biển, không quân và hải quân đã oanh kích trước nhiều ngày các đường di chuyển vào mục tiêu, các công sự phòng thủ trong khu vực mục tiêu là tạo sự an toàn tối đa cho quân nhảy dù khi hạ xuống đấy hay cho TQLC khi đổ bộ lên bãi biển. Trong thế chiến 2, những cuộc oanh kích và hải pháo khu vực Normandie để cho quân từ dưới biển đổ bộ lên và không phân oanh kích khu vực Bastogne ở Bĩ dọn đường cho một cuộc hành quân nhảy dù lớn nhất của Mỹ khi trận chiến sắp kết thúc là mẫu yểm trợ của không quân và hải quân vào loại hành quân đặc biệt đó. Đối với một chuyên viên quân báo, khi nghiên cứu kỹ các khu vực bị oanh kích hay pháo kích, người ta có thể ước tính được phần nào khu vực mục tiêu.

Tại chiến trường Quảng Trị, tuy không được quy mô yểm trợ như trong đệ II thế chiến, không quân và hải quân Mỹ và VNCH đã cho phe bên kia thấy có một cái gì đó tại Đông Hà và Cửa Việt trong tương lai.
Mặt khác sự chuẩn bị ráo riết của Sư Đoàn Dù và TQLC để tham dự trận tấn công tương lai đã giúp cho chuyện riêng của Đại tá Nghĩa phần lớn. Sự chuẩn bị nầy không thể nào qua mắt quan sát của tình báo viên cộng sản trong các hàng quán xung quanh đơn vị đóng quân cũng như trong nội bộ đơn vị. Người ta đừng quên đây là nội chiến, người của hai phe có mặt khắp nơi.

Lần này Đại tá Nghĩa lại giở miếng đòn cũ là tuyên truyền xám, ông ta được các cơ quan tình báo và an ninh bạn tổ chức một số “cò mồi” trong 2 đơn vị Dù và TQLC. Những tay cò mồi nầy làm ra vẻ thông thạo tin tức, rỉ tai với bạn đồng đội sự chuẩn bị trong sư đoàn Dù là chuẩn bị nhảy lớn, mặc dầu không biết ở đâu. Trong sư đoàn TQLC cũng trò rỉ tai nói về một cuộc đổ bộ của toàn sư đoàn, cũng không biết ở đâu. Thông thường một người biết chuyện bí mật không dằn được ý muốn cho một người khác biết để tỏ ra ta đây là người biết nhiều chuyện. Dĩ nhiên khi rỉ tai, y không quên thêm vào câu: “Đây là tối mật, chỉ có anh là người tôi tin cậy nên mới nói cho biết thôi”. Loại bí mật này, tiếng Pháp gọi là secret de polichinelle lan rộng một cách tự nhiên. Đại tá Nghĩa lấy làm hứng thú mà cho địch nếm mùi hư hư thực thực, một tình trạng mà họ không hề lâm vào nhờ gài tình báo ở mọi cấp. Ví dụ trong hành quân Lam Sơn 719 năm 1971, kế hoạch hành quân của ta đã lọt vào tay bộ chỉ huy địch khi quân ta chưa đến trận địa! Biết bao nhiêu xương máu của các chiến sĩ anh hùng đã được tiết kiệm nếu lúc đó người ta biết áp dụng nguyên tắc sơ đẳng trong hành quân tấn công là hư thực hay lừa địch.

Để thực hiện Thanh Tuyền 3, một ngày nào đó trong tháng 7, trước ngày N của Lam Sơn 72 độ hơn 1 tuần. Đại tá Nghĩa đến gặp Đại tá Bảo, tham mưu trưởng Sư đoàn Dù. Nhờ có nhiều bạn quen trong giới mũ đỏ Đại tá Nghĩa gặp được nhiều dễ dàng trong công tác “mượn đầu heo nấu cháo” trong sư đoàn nầy.

Sau khi thuyết trình sơ lược về Thành Tuyền 3, Đại tá Nghĩa xin Đại tá Bảo cho mượn 1 tiểu đoàn Dù trong vòng 1 ngày và trước ngày N của Lam Sơn 72 bốn hôm. Đại tá Bảo rất cảm tình với Đại tá Nghĩa nhưng ông ta cho biết, kế hoạch hành quân tấn công là một bộ máy đồng hồ nhịp nhàng. Nay rứt ra 1 bánh xe, mặc dầu trong thời gian ngắn 24 tiếng là một chuyện rắc rối cho công tác tham mưu. Sau cùng ông ta cho mượn 1 Đại đội Dù trang bị đồ nhảy dù đầy đủ trong vòng 24 tiếng. Đại đội này sẽ trình diện Đại tá Nghĩa chiều ngày N- 4 tại sân bay Phú Bài. Đại tá Nghĩa đã xin Sư Đoàn I Không quân của Đại tá Khánh 4 phi vận cơ vận tải đủ chở một đại đội nhảy dù đầy đủ quân trang, quân dụng. Phi cơ có mặt tại Phú Bài sáng sớm ngày N-3.

Y hẹn, đại đội Dù đã đến sân bay Phú Bài buổi chiều ngày N- 4. Toàn thể quân nhân đại đội đều bị cấm trại. Tuy nhiên, sự di chuyển 1 đại đội Dù với y phục tác chiến, đeo dù ở lưng từ căn cứ đại đội đến Phú Bài chắc chắn khó thoát khỏi con mắt tình báo địch.

Đêm đó Đại úy đại đội trưởng và Thiếu tá chỉ huy phi đội đã được Đại tá Ngã thuyết trình cho biết đây là một nhiệm vụ đặc biệt tối mật của Tư lệnh Quân đoàn, chỉ có 2 người biết trong đơn vị. Mọi sự sơ suất để lộ mật thì 2 người sẽ chịu trách nhiệm với Trung tướng Trưởng.

Phần đại đội trưởng thuyết trình cho trung đội trưởng biết đại đội có nhiệm vụ tiền phong nhảy xuống 1 khu vực gần Đông Hà. Đại đội sẽ thiết lập một bãi đáp an toàn để cho đại bộ phận Sư đoàn nhảy xuống sau khi an toàn bãi đáp có rồi. Mỗi trung đội được phát địa đồ bãi đáp và nhận nhiệm vụ riêng cho từng trung đội. Sau buổi thuyết trình nầy đại đội trưởng sẽ thuyết trình lại với các trung đội trưởng. Phần trung đội trưởng trước khi lên phi cơ sẽ nói lại sơ nhiệm vụ của trung đội với đội viên.

Đường bay của phi cơ được ấn định cho Thiếu tá trưởng phi đội như sau:
- Phi cơ cất cánh 7 giờ sáng hướng mũi về Bắc. Bay đến gần chạm tuyến phi cơ đổi hướng về Đông ra biển, sau đó bay trong khu vực bạn kiểm soát để có an toàn. Thời gian ở trên không bằng thời gian bay Phú Bài - Đông Hà đi và về. Khi bay được phân nửa thời gian, nếu bay thực thì ở trên không phận Đông Hà, đại đội trưởng nhờ phi đội trưởng đánh về căn cứ một công điện do Đại tá Nghĩa soạn sẵn trao cho đại đội trưởng. “Đã đến không phận mục tiêu # gió quá lớn không nhảy được # xin cho trở về tạm nghỉ đợi thời tiết tốt#. Căn cứ sẽ trả lời chấp thuận và phi cơ quay về.

Sau khi đáp xuống Phú Bài, đại đội trưởng tập họp trung đội trưởng cho biết hôm nay trời xấu không nhảy được. Tạm về căn cứ. Ra lịnh cho binh sĩ trong mỗi đơn vị tuyệt đối giữ kín nhiệm vụ được trung đội trưởng phổ biến trước khi bay.
Lần này lạy trời cho họ ít kín miệng hơn.

THANH TUYỀN 4.
Trước ngày đại đội Dù lên phi cơ 5 hôm, Đại tá Nghĩa đến gặp Đại tá Chung tham mưu trưởng Sư đoàn TQLC để mượn một tiểu đoàn trong 2 ngày và trả lại 48 giờ trước ngày N. Đại tá Nghĩa đã trình bày như đã trình bày với Đại tá Bảo bên sư đoàn Dù. Có lẽ hôm nay ông ta thuyết trình dở nên đưa lý do gì ra cũng bị Đại tá Chung bác cùng một lý do như Đại tá Bảo đã nói. Hết thuyết trình rồi năn nỉ nhưng chẳng ăn thua gì. Cuối cùng Đại tá Nghĩa đành đứng dậy từ giã chủ nhà với bộ mặt thiểu não của kẻ đi mượn tiền bị ông chủ từ chối mặc dù đã nói đến khô cổ. Dọc đường Đại tá Nghĩa lầm bầm thật khổ cho thân bầu gánh là mình, muốn hát không có một anh kép một cô đào, toàn là đi mượn, phiền toái làm sao! Ông ta trách Đại tá Chung ích kỷ, nhưng sau cùng ông ta thấy Đại tá Chung có lý, mình ở địa vị ông ta chắc mình cũng làm như vậy.

Đang than thở một mình trên xe, đột nhiên Đại tá Nghĩa vỗ đùi cái bép làm chú tài xế giựt mình. Một ý nghĩ hay hay vừa thoáng qua trong óc. Ông ta tự nói với mình: “Sao mình ngu thế để mất thì giờ năn nỉ Đại tá Chung TQLC cũng rằn ri, BĐQ cũng rằn ri, cả hai đều đội mũ sắt ra trận. Đây là đóng kịch cần gì TQLC thật, mình cứ mượn một tiểu đoàn BĐQ rồi phao ra tiểu đoàn nầy là TQLC bận đồ BĐQ để đánh lạc hướng địch, hư hư thực thực mà!”

Sở dĩ Đại tá Nghĩa nghĩ đến mượn BĐQ vì chỉ huy trưởng BĐQ/Quân đoàn 1 Đại tá Khoái là bạn cùng khóa Thủ Đức với ông ta . Trong loại chiến tranh ngoại lệ nầy, trong tay không có một tấc sắt trừ khẩu súng lục bên hông, ông ta phải đánh giặc bằng bộ óc và cái mồm. Phương tiện gì cũng mượn của người thành ra ông ta lại kiêm luôn nghề ngoại giao. Nơi nào cần nói cứng thì nói cứng, nơi nào sử dụng sự quen biết thì sử dụng. Ông ta tự nhủ mình lo chuyện chung chớ đâu phải lo chuyện nhà mình đâu mà ngại.

Đại tá Nghĩa chạy thẳng đến BCH của Đại tá Khoái. May quá ông Khoái ở nhà.
- Cơn gió nào đưa cậu đến đây, mọi người làm việc hộc máu mồm để chuẩn bị cho màn hát tới. Chỉ có cậu là có vẻ nhàn nhã. Một thằng đệ tử của tớ đã nói thấy cậu sáng nào cũng ngồi nhẩm cà phê ở nhà thủy tạ, có khi cậu hẹn đào ở đó. Sung sướng nhỉ! Đại tá Khoái thân mật hỏi.

Đại tá Nghĩa làm nghiêm mặt trả lời:
- Đào kép ở đâu mà hẹn! Này cho biết, moi được ông tướng gởi đến gặp toi có chút chuyện đấy.

Ở Quân đoàn 1, tất cả sĩ quan đều ngán sự nghiêm khắc, kỷ luật của Trung tướng Trưởng. Khi nghe ông ta hỏi thăm, ai cũng ngán. Đại tá Khoái đã đau khổ với ông ta vì một số BĐQ từ Quảng Trị chạy về Huế cướp bóc phá phách. Lần này, ông ta nghi lại một vụ kỷ luật nữa trong BĐQ. Vẻ mặt hơi bối rối, Đại tá Khoái hỏi có vẻ dồn dập:
- Chuyện lành hay dữ?

Đại tá Nghĩa nghe giọng hỏi đã biết tâm trạng ông bạn đồng khóa. Với giọng nghiêm nghị từ đầu.
- Trung tướng Trường bảo toi cho moi mượn một tiểu đoàn để thi hành một công tác đặc biệt của ông ta. Sau 48 tiếng moi sẽ hoàn trả lại toi cam kết không một thằng mũ nâu nào mất một sợi lông chân. Chuyện chỉ giản dị vậy thôi. Toi nên nhớ ổng chiếu cố đến toi nên bảo moi đến vay mượn toi. Ở quân đoàn nầy khối thằng muốn cho moi mượn mà moi đâu thèm mượn!...

Đại tá Nghĩa nhủ thầm, mới có vài tháng chiến tranh ngoại lệ mà bây giờ mình nói láo trơn tru như Vẹm.
Đại tá Khoái cũng ở trong tình trạng như Đại tá Bảo, Đại tá Chung nên ngồi thừ ra có vẻ khó nghĩ. Thừa thế xông lên, Đại tá Nghĩa cầm mũ đứng lên nói:
- Thôi để moi về báo cáo với ông tướng là toi very sorry, không thể chiều ý ông ta được.

Đại tá Khoái bước đến đè vai Đại tá Nghĩa ngồi xuống:
- Thôi thằng ông mãnh, tớ thừa biết không có ông tướng nào mượn hết chỉ có cậu vẽ chuyện nhưng không cho cậu mượn thì sau nầy biết chuyện anh em khóa 2 Thủ Đức sẽ chửi tớ. Cho biết mượn ngày nào, đi đâu, ai lo chuyên chở, ai lo ăn và ngày trở lại.
Đại tá Nghĩa thuyết cho Đại tá Khoái biết sơ về mục tiêu và diễn biến của Thanh Tuyền 4. Sau đó ông thêm:
- Toi bảo tiểu đoàn trưởng đến gặp moi gấp tại BTL/TP. Moi sẽ thuyết trình nhiệm vụ chi tiết cho hắn. Chuyên chở, ăn uống moi lo hết. Ngày N - 4 đại đội quân vận của Quân đoàn đến trại bốc mấy đứa con của toi. Nhớ đến giờ bốc tụi nó sẵn sàng ở trong tư thế tác chiến từ quần áo, đến súng đạn. Trước khi chia tay, cho phép moi cám ơn lòng hào hiệp của toi với anh em. Moi căn dặn toi đây là công tác tối mật, toi và đàn em phải triệt để thi hành. Thằng nào bép xép bị cắt lưỡi ráng chịu.

Một hành quân đổ bộ, thực hay giả, đòi hỏi nhiều phương tiện và một công tác thiết kế tỉ mỉ. Đó là tàu chuyên chở, tàu đổ bộ, yểm trợ hải pháo và không quân. Những thứ nầy hải quân Vùng I của Đại tá Thoại không có khả năng cung cấp, nhứt là trong thời gian ngắn. Cũng may cho Đại tá Nghĩa là hải quân Mỹ, có lẽ là do lịnh từ Hoa Thịnh Đốn, sẵn sàng cung cấp những gì ông ta đòi hỏi.

Sau một buổi hội với đại tá đại diện Đệ Thất Hạm Đội, Đại tá Nghĩa và phía Mỹ thỏa thuận như sau:
Cuộc hành quân sẽ do Mỹ điều khiển từ A đến Z với phương tiện của Hạm đội Mỹ. Tiểu đoàn đổ bộ sẽ lên tàu Mỹ ở bến tàu Mỹ Thủy phía đông Huế độ 10 cây số vào buổi chiều này N - 4. Trước khi lên tàu, tiểu đoàn sẽ dàn binh tại cầu tàu cho Đại tá Nghĩa và một ông tướng Mỹ duyệt binh.

Cuộc duyệt binh nầy sẽ được nhiều phóng viên truyền hình Mỹ và Tây Phương quay phim. Tiểu hạm đội gồm có các tàu chuyên chở và một số khu trục hạm di chuyển đến ngoài khơi Cửa Việt và dừng lại cách bờ độ 5 cây số, ở đấy đợi trời sáng tức là sáng ngày N - 3. Sáng hôm nay cũng là ngày đại đội Dù cất cánh ở Phú Bài. Thời gian 3 ngày trước tấn công là thời gian được tính toán đủ cho tình báo viên BV trà trộn bên khu vực ta thông báo tin tức về đến tướng Chu Huy Mân và đủ cho viên tướng này rút bớt quân ở tiền tuyến Quảng Trị nếu ông ta chịu nhấp chén thuốc độc mà bao nhiêu người ở MN góp công dâng cho ông ta. Tiểu đoàn sẽ xuống các xuồng đổ bộ từng trung đội từ trong bụng các thuyền mẹ chạy ra ngoài phía lái chớ không leo lên thang dây xuống xuồng đổ bộ như xưa. Trước đó trên 10 khu trục hạm sẽ pháo lên các đường tiền sát dẫn đến bãi đổ bộ và các công sự phòng thủ trên bờ. Khi hải pháo ngưng thì phi cơ khu trục oanh tạc tiếp theo. Các xuồng đổ bộ chạy vào bờ dưới sự yểm trợ của trực thăng võ trang. Còn cách bờ 200 mét các xuồng sẽ quay mũi trở về tàu mẹ. Tiểu đoàn trưởng khi lên tàu sẽ được thuyết trình chi tiết về những phần vụ tiểu đoàn trưởng phải làm. Phía Mỹ sẽ cung cấp bữa ăn chiều khi tiểu đoàn lên tàu ở Mỹ Thủy và các bữa ăn kế tiếp cho đến khi tàu trở về lại Mỹ Thủy.

Đại tá Nghĩa hẹn gặp Thiếu tá tiểu đoàn trưởng BĐQ, ông ta nói liền:
- Đây là một cuộc thực tập rút kinh nghiệm để vài hôm sau sẽ có một cuộc đổ bộ lớn. Thiếu tá đã biết từ ngữ plastron khi đi tập tác chiến ở quân trường. Đơn vị của Thiếu tá làm plastron trong trận diễn tập nầy.

Sau đó ông ta thuyết về diễn tiến cuộc hành quân. Chót hết ông ta lưu ý Thiếu tá Khoa về những điểm sau:
- Thứ nhất, không bao giờ nói cho thuộc cấp trong tiểu đoàn biết đây là diễn tập. Nếu nói trước binh sĩ sẽ lơ là đóng vai plastron không đúng. Chỉ nói ý nghĩa cuộc thực tập sau khi tiểu đoàn trở lại tàu mẹ.
- Thứ nhì, tuyệt đối giữ kỷ luật và vệ sinh trên tàu Mỹ. Nhớ cho, tư cách binh sĩ nói lên giá trị của quân đội ta trước mặt ngoại quốc.
- Thứ ba, phải thi hành đúng đắn lệnh của chỉ huy trưởng hành quân là một sĩ quan Mỹ.

Sau hết ông ta hỏi thiếu tá Khoa có gì thắc mắc không.
Thiếu tá Khoa nói liền:
- Thưa Đại tá, tuy là thực tập, nhưng đây là một cuộc hành quân đổ bộ. Đơn vị tôi chưa bao giờ được huấn luyện đổ bộ, tôi sợ sẽ có sai sót ở điểm nầy.

Đại tá Nghĩa trả lời:
- Khi xưa trong một cuộc hành quân đổ bộ, nội chuyện từ tàu mẹ xuống xuồng đổ bộ là một vấn đề lớn, nhất là khi biển không êm. Phải xuống bằng thang dây trong cái rập rình giữa thuyền mẹ và thuyền con. Lực lượng đổ bộ, dầu đã được huấn luyện kỹ thế nào cũng bị thiệt hại một số người gãy tay gẫy chân. Ở đây không có vấn đề đó vì các anh lên xuồng đổ bộ theo thứ tự từng trung đội trong lòng tàu mẹ. Sau đó, nó hả đít ra cho thuyền con chạy ra. Ngoài chuyện đó ra không đòi hỏi gì khác ở các anh. Mấy anh chỉ là khán giả ở hàng ghế đầu xem một màn chớp bóng thú vị thế thôi.

Chiều ngày N - 4, tại bến tàu Mỹ Thủy màn đầu duyệt binh diễn ra hoàn hảo. Các phóng viên báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình thi nhau chụp hình và quay phim. Viên Đại tá Mỹ bày ra trò diễn binh nầy thật là tinh quái. Là sĩ quan trong quân đội một nước dân chủ như Mỹ, ông ta nhiều lúc khốn khổ với đám phóng viên chiến trường. Hôm nay ông ta mượn đám nầy truyền tin miễn phí đến tướng Chu Huy Mân tư lệnh lực lượng phía bên kia.

Đại tá Nghĩa lên 1 chiếc dương vận hạm của hải quân Việt Nam trên đó có đại tá Thoại, tư lệnh Hải quân Vùng I, Đại tá Xuân tham mưu trưởng của ông ta.
Sau gần một tháng mất ăn mất ngủ, thần kinh căng thẳng, chuyến đi nầy thực là một chuyến du ngoạn trên biển vô cùng thú vị. Đại tá Nghĩa bây giờ là một khán giả thư nhàn, nhìn đào kép diễn màn chót vở tuồng mà ông ta khổ công viết ra và làm đạo diễn. Đây là 1/4 chót của chén thuốc độc mà ông hy vọng thân tặng tướng Chu Huy Mân.

Sáng hôm nay, ở ngoài khơi Cửa Việt, trời đẹp quá. Trời trong, gió nhẹ, sóng nhẹ thật là lý tưởng cho một cuộc đổ bộ. Ông ta đang thưởng thức tách cà phê của Hải quân trong phòng sĩ quan bỗng nghe tiếng đại bác nổ, bay vèo trên đầu. Ông ta lật đật chảy lên phòng chỉ huy nơi đây đã có mặt hạm trưởng, Đại tá Thoại, Đại tá Xuân. Đại tá Thoại đưa cho ông ta một ống dòm và chỉ vào bờ. Trên 10 chiếc khu trục hạm đã đồng loạt nhả đạn vào các điểm đã ấn định trước. Phải nhìn nhận về mặt hành quân đổ bộ người Mỹ là bậc thầy. Các quân binh chủng phối hợp hết sức nhịp nhàng như một dàn nhạc hòa tấu dưới chiếc đũa điêu luyện của một nhạc trưởng. Khi hải pháo vừa im tiếng thì các chiến đấu cơ không biết từ đâu ra rít lên âm thanh ghê rợn của bộ máy mang sự chết chóc, chúi mũi xuống đất rồi cất đầu vọt lên kéo theo một tiếng ầm vang đội với một cột khói. Không biết tất cả là mấy chục chiếc . Ở phía xa hơn mình như có thêm B52 tham dự vào trò chơi chết người này với tiếng nổ kéo thành một dây dài. Cuộc nhào lộn hết sức ngoạn mục và thú vị gấp mười coi truyền hình hay chớp bóng vì đây là máy bay thật, đánh bom thật. Chỉ oái oăm là những cái thật đó để phục vụ cho một câu chuyện giả tưởng!

Lạy trời cho không có người thường dân vô tội nào dưới cơn lửa đạn kinh khủng này. Các phi cơ trút hết bom bay vụt ra biển.
Lúc đó mấy chiếc tàu mẹ mở đít ra, từ đó các xuồng đổ bộ đầy nhóc các TQLC giả chạy ra. Chắc các bạn mũ nâu lúc nầy căng thẳng thần kinh ghê gớm. Có quân nhân nào không căng thần kinh trong giờ phút một chiếc xuồng đổ bộ sắp cặp vào bờ địch trên đó đủ thứ chết đang chờ đợi. Lần nầy, thật kỳ diệu, lại xuất hiện đúng lúc một lô trực thăng võ trang từ ngoài khơi bay vào. Một phần trực thăng bay quần trên đầu lực lượng đổ bộ trong khi phần khác bay vào bờ bắn hỏa tiễn vào các mục tiêu sát bờ biển. Ngoài hỏa tiễn, lại có tiếng đại liên phụ vào dàn hòa tấu.

Đúng theo kế hoạch, còn 200 mét cách bờ, các xuồng đổ bộ quay về. Trong màn kịch chót tuy ngắn ngủi nhưng đầy trò chơi chết chóc nầy, không một tai nạn, không một người chết. Phải chấm một điểm son cho Hải quân và Không quân Mỹ!

Trên đường về bến Mỹ Thủy, đầu óc Đại tá Nghĩa không còn thanh thản như lúc đi. Một câu hỏi lúc nào cũng lởn vởn trong đầu ông ta:
- Mình đã phí bao nhiêu tâm lực, bao nhiêu con người tài giỏi, bao nhiêu phương tiện tham gia hành quân lừa địch mà chúng có bị lừa không?

Tàu cập bến Mỹ Thủy buổi chiều. Ông ta đến ngay bộ tư lệnh báo cáo diễn tiến 2 cuộc hành quân Thanh Tuyền 3 và 4 với Trung tướng Trưởng.

Sáng hôm sau, tức là ngày N – 2, trong buổi thuyết trình tình hình địch trong 24 giờ qua của phòng 2 BTL/TP, Đại tá Nghĩa hình như nghe mang máng một câu:
“Không ảnh và không thám cho thấy địch rút bớt lực lượng ở tiền tuyến Quảng Trị, lực lượng rút đi ước lượng 1 sư đoàn.”

Ngày N mở màn
Chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam, suốt 50 năm chiến tranh, trên một chiến trường nhỏ hẹp mà có một trận chiến dữ dội như thế. Với số lượng hỏa lực của đại bác dưới đất, dưới tàu bắn lên, số bom từ phi cơ rót vào một khu vực nhỏ hẹp như tỉnh lỵ Quảng Trị, tánh chất ác liệt của trận đánh không thua một trận ác liệt nào trong Thế Chiến II, chỉ có quy mô nhỏ hơn.

Nhiều đêm trong giấc mơ, Đại tá Nghĩa không biết chuyện mình làm có làm giảm bớt sự thiệt hại cho bạn không? Tội nghiệp cho thắc mắc của một người lương thiện. Tuy nhiên một bản điện báo của một thông tín viên chiến trường Tây phương, không nhớ tên và quốc tịch, đánh đi sau khi quân ta tái chiếm Quảng Trị có một câu làm cho Đại tá Nghĩa bớt thắt mắc:
“Đây là lần đầu tiên một viên tướng Việt Nam (chỉ Trung tướng Trưởng) biết sử dụng đòn C&D trong cuộc chiến tại Việt Nam và đòn đó tỏ ra có hiệu quả.”

Sau khi quân ta tái chiếm Quảng Trị, một ngày của tháng 9, một buổi lễ nhỏ gắn huy chương cho một người sắp rời BTL/TP diễn ra tại phòng hành quân của BTL. Khách tham dự rất ít, chỉ có tư lệnh, phó tư lệnh, tham mưu trưởng, các trưởng phòng bộ tham mưu.
Có buổi lễ này vì Đại tá Nghĩa sẽ rời BTL/TP để lãnh một nhiệm vụ khác trong Quân Khu 1. Chiến tranh ngoại lệ với lối đánh nghệ sĩ của viên Đại tá này không còn cần thiết, sau khi mặt trận đã ổn định tại tuyến Thạch Hãn.

Một sĩ quan Phòng Tổng Quản Trị đọc bản tuyên dương công trạng trước Quân đoàn số 201 do Trung tướng Ngô Quang Trưởng thừa lệnh đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QL/VNCH ký ngày 15/9/1972. Trong bản tuyên dương có câu:
“Sĩ quan cấp tá ưu hạng, giàu kinh nghiệm chuyên môn và chiến trường. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 72 tại Quảng Trị, với chức vụ phụ tá đặc biệt tại BTLQĐ 1/TP, Đại tá Nghĩa luôn luôn biểu dương tinh thần phục vụ được giao phó một cách tốt đẹp” * (1)

Sau đó Trung tướng Trưởng gắn vào ngực Đại tá Nghĩa Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao vàng, bắt tay ông ta và ngỏ lời cám ơn sự đóng góp của ông ta vào hành quân Lam Sơn 72.

Trước khi rời BTL/TP, một viên tướng Mỹ, hình như mãn nhiệm kỳ cố vấn cho Tư lệnh Quân đoàn 1, sắp về Mỹ, đến gặp Đại tá Nghĩa lúc ông này giữ một nhiệm vụ mới tại Đà Nẵng. Viên tướng bắt tay Đại tá Nghĩa với lời chúc tụng nồng nhiệt về hành quân Thanh Tuyền. Ông ta xin Đại tá Nghĩa vui lòng cho một bản sao phụ bản G của hành quân Lam Sơn 72 tức là bản sao hành quân Thanh Tuyền để đem về Mỹ cho các quân trường nghiên cứu.

Trên đây là câu chuyện của một người say kể cho người say khác nghe trong một căn phòng nhỏ cấm cúng vào một đêm mùa Đông ngoài trời tuyết phủ trắng xóa vạn vật tại một tiểu bang Đông Bắc nước Mỹ. Tôi là bạn thâm giao của Đại tá Nghĩa từ lúc biết nhau ở quân trường. Chúng tôi không gặp nhau từ lúc Đại tá Nghĩa đổi ra vùng I chiến thuật năm 1972. Đến nay, gần 1/ 4 thế kỷ, chúng tôi tình cờ gặp lại nhau ở hải ngoại. Một bữa cơm thân mật là một truyền thống của đôi bạn xa xưa. Trong bữa cơm tay đôi này, tôi đã chứng kiến lần đầu tiên Đại tá Nghĩa phá lệ xưa:
- Phá lệ thứ nhất là ông ta chịu uống rượu mạnh mà lại uống nhiều, nói rằng để chiều tôi. Ngày xưa ông không hề uống rượu mạnh bao giờ. Ông ta không biết chữ Nho nhiều nhưng lại có cái tật thích ngâm nga thơ Đường. Lần nầy thấy tôi đem chai cognac Hennessy để trên bàn, với giọng châm biếm quen thuộc, ông ta cất lên: “tửu phùng tri kỷ tam bôi thiểu”.
- Phá lệ thứ nhì là ông ta nói nhiều suốt buổi cơm, ngày xưa ông ta là một người ít nói.

Cũng con người nầy, nét mặt, vóc dáng gần như cũ chỉ già hơn đôi chút với nếp nhăn trên trán và mái tóc bạc. Tuy nhiên trong ánh mắt của con người yêu đời ngày xưa, ẩn chứa một nỗi buồn khó tả. Cũng giọng nói pha trò vui nhộn khi có tiệc giữa bạn thân, những câu pha trò ngày nay nhuốm một hơi hướng cay đắng thế nào!

Trước mắt tôi là một con người mà đời binh nghiệp đã trải qua nhiều sóng gió và chắc là cũng đã nếm quá nhiều mùi đau khổ vật chất và tinh thần trong 20 năm nay.

Khi nghe Đại tá Nghĩa dứt câu chuyện, tôi không dằn được câu hỏi có lẽ làm phật lòng ông ta:
- Câu chuyện anh kể nghe thú vị lắm, ly kỳ lắm. Nhưng này ông bạn già của tôi ơi, tôi có cảm giác nghe một câu chuyện trong tiểu thuyết loại Z-28 tại Sàigòn trước 1975. Giữa chúng mình, anh cứ nói thực, đây là câu chuyện phịa cho bữa nhậu có ý nhị hơn hay là chuyện có thực?

Đại tá Nghĩa trầm ngâm một chút, như có vẻ tìm ý hay tìm chữ, sau đó mới trả lời:
- Trước kia trả lời trực tiếp câu hỏi của anh, tôi xin nói một vấn đề riêng của tôi. Tôi là người biết suy nghĩ nhưng không có khả năng viết lách. Sẵn bữa nay gặp anh, tôi nhờ ngòi bút của anh, một nhà văn, nói lên sự tri ân của tôi với tất cả chiến sĩ VNCH, quân hay dân đã cộng tác với tôi để hoàn thành tốt đẹp kịch bản này. Đây chỉ là một màn kịch không hơn không kém.
- Tôi cũng nhờ anh tri ân tất cả bạn Mỹ trong Hải quân và Không quân đã triệt để giúp tôi. Dù hậu ý của chánh phủ họ có thế nào chăng nữa, đây là sự sát cánh chiến đấu lần chót của những chiến hữu Mỹ – Việt trong trận chiến bất hạnh này.
- Tôi cũng muốn nhờ anh nói lên sự ăn năn và cầu xin tha thứ của tôi đối với gia đình của người anh hùng vô danh trong QL/VNCH. Gia đình đau khổ này đã không có được nấm mồ của người thân để ra thắp nén hương tưởng niệm.

Tôi hỏi lại:
- Thế còn trả lời câu hỏi của tôi:
- Có thực hay không chỉ có người trong cuộc biết vì đây là cuộc chiến tranh bí mật. Ngay như Đại tá Dương phụ trách viết quân sử của QL/VNCH tại B/TTM, ông ta cũng chưa bao giờ nghe nói một cuộc hành quân nào mang tên Thanh Tuyền trong chiến dịch tái chiếm Quảng Trị năm 1972.

Tôi là người viết kịch bản nên tôi biết toàn bộ, những người khác chỉ biết một phần. Anh đã nghe rồi, kịch bản này gồm có 4 màn riêng biệt với các diễn viên riêng biệt nhưng nhắm vào một mục tiêu chung.

Theo chỗ tôi biết, trong màn 1, người bác sĩ tôi xin xác chết tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, y sĩ Trung tá Phát hiện đang định cư ở Connecticut. Người phụ tá quý báu của tôi, người đã tự tay đẩy xác chết xuống khu vực địch, Trung tá Phan Trọng Sinh không biết trôi dạt vào đâu. Ông này là em ruột Trung tướng Phan Trọng Chinh.

Trong màn 2, thật là đau lòng mà tôi được biết 2 vai chánh đều chết cả Đại tá Dương Quang Tiếp chết trong 1 trại cải tạo ở BV. Đại úy Trung bị bắn chết trong một trận vượt ngục.

Trong màn 3, Đại tá Bảo đã chết vì trực thăng rớt tại mặt trận Quảng Trị. Vị sĩ quan đại đội trưởng Dù không biết sống chết.

Trong màn 4, nhân chứng rất nhiều. Đại tá Khoái và Thiếu tá tiểu đoàn trưởng BĐQ không biết thất lạc nơi đâu. Hai vị sĩ quan Hải quân đứng cạnh bên tôi nhìn lại diễn biến cuộc đổ bộ giả hiện đang còn sống. Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại hiện đang định cư ở một tiểu bang miền Đông nước Mỹ, Đại tá Xuân định cư tại Nam Cali.

Ngoài ra trong văn khố của Đệ Thất Hạm Đội thế nào cũng có lệnh hành quân vào Cửa Việt ngày hôm đó. Nhiều sĩ quan thuộc Hải quân và Không quân tham gia hành quân, cũng như viên tướng xin tôi lệnh hành quân Thanh Tuyền chắc còn sống và đang sống cuộc đời êm đềm của quân nhân hưu trí ở đâu đó trong các tiểu bang Mỹ.

Ngoài những nhân vật kể trên, 2 sĩ quan cộng tác viên trong bộ tham mưu nhỏ của tôi, những người có công rất lớn trong hành quân Thanh Tuyền là Đại úy Vệ và Trung úy Trúc hiện đang định cư ở Nam Cali. Trung úy Trúc là người tự tay đánh lệnh hành quân Thanh Tuyền, đã tuyệt đối tôn trọng lệnh bảo mật cho đến ngày hôm nay.

Anh cứ tìm những nhân chứng tôi vừa kể tên thì biết câu chuyện trong bữa rượu ngày hôm nay có thực hay giả.

Tôi liên tưởng đến các bí mật trong Đệ Nhị Thế Chiến được phanh phui khi chiến tranh chấm dứt lâu, các hồ sơ mật được giải tỏa, nên hỏi thêm:
- Có khi nào anh nghe phía BV để cập đến vụ nầy?

Nở nụ cười châm biếm, Đại tá Nghĩa trả lời:
- Nếu hỏi như thế có khác nào anh hỏi một tay thảy bài ba lá ở đường Hàm Nghi Sàigòn một câu như sau: “Này, người anh em, hình như ngày hôm qua, người anh em đã thua tức tối trong canh phé bịp ở Cầu Ông Lãnh phải không?”

Người CS nếu bị cú nầy, thế nào họ cũng giữ kín đời nào xì ra sự thực. Chắc chắn, những tài liệu về vụ nầy, nếu có, đã bị thủ tiêu từ khuya, đỉnh cao trí tuệ của loài nguòi mà lị!

Câu hỏi của anh làm tôi liên tưởng đến một câu hỏi tương tự mới xảy ra gần đây làm hao tốn giấy mực của báo chí trên thế giới.
Một vị tai to mặt lớn trong nội các của Tổng Thống Johnson, người đã lãnh đạo và điều khiển luôn cuộc chiến tranh Việt Nam trong một thời gian khá dài đã khổ công tìm gặp cho được đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hà Nội để chỉ hỏi một câu: “Này trong đêm oan nghiệt tháng 8 năm 1964 đó, tàu chiến các hạ có bắn vào tàu của tại hạ không? Phe tại hạ cứ quả quyết các hạ cho lệnh bắn nên vị chưởng môn của tại hạ đã nổi trận lôi đình cho phi cơ oanh tạc lia chia gây thành chiến tranh Việt Mỹ. Bây giờ trước khi về theo ông bà, tại hạ còn ấm ức nếu không nghe được câu trả lời đích xác từ cửa miệng các hạ.”

Sẵn đây, trong hơi men tối nay, tôi bàn thêm vài câu theo thông lệ của Mao Tôn Cương.

Hình chụp Mac Namara tươi cười bắt tay Võ Nguyên Giáp, lon lá đầy ngực, cũng tươi cười không kém tại Hà Nội ngày 9/11/1995. Nhìn tấm hình tôi tự hỏi tại sao ông tướng nhà mình đã trên 80 tuổi rồi, đáng lẽ phải có dáng dấp phúc hậu mới phải vì người già nào cũng có vẻ phúc hậu nhiều ít, dáng nầy ngài đại tướng vẫn còn nguyên đôi mắt xảo trá, gian ác của ông Tổng trưởng nội vụ của Hồ Chí Minh năm 1946,đã lạnh lùng cho lệnh đàn em trói nhà văn Khái Hưng liệng xuống sông và làm cỏ sạch bách bọn quốc gia phản động. Đi hỏi sự thực với một người như thế có vẻ giống như một nhà báo Mỹ, nhờ một phép lạ nào đó, tìm gặp Hitler đang vui thú cảnh già tại một nông trại hẻo lánh ở Á Căn Đình. Nhà báo Mỹ, mừng húm chỉ hỏi một câu cho đáng đồng tiền bát gạo: “Nầy ông bạn vàng Hitler ơi, trong cái đêm mùa thu năm 1939, trên biên giới Đức – Ba Lan, lính Ba Lan thực hay là bọn mật vụ của ông bạn giả làm lính Ba Lan kéo qua biên giới tấn công một đài phát thanh Đức ở sát biên giới vài cây số. Cuộc tấn công đó đã làm cho ông bạn nổi trận lôi đình cho rằng đám Ba Lan hỗn láo dám vuốt râu hùm nên xua quân đánh Ba Lan gây thành thế chiến hai?” * (2)

Thông thường các nhà khoa bảng hay chánh khứa hay ngây thơ nhưng khi người ta đẩy sự ngây thơ đến mức lố bịch thì thối đếch chịu nổi, giống như một tuồng diễu vô duyên đến nỗi khán giả phải bịt mũi kêu lên: “Thối quá!” thay vì cười thoải mái.

Ở trên cõi đời ô trọc này, tôi thấy con người chỉ có 2 giai cấp. Ở đây xin cụ Marx thứ lỗi cho tôi chen vào bảo vật giai cấp của cụ. Phải, chỉ 2 giai cấp thôi. Giai cấp thứ nhất gồm có những người phi thường trong tư cách sống. Những hạng người nầy rất ít nhưng họ đã giúp cho loài người tiến bộ. Giai cấp thứ nhì gồm tất cả phần còn lại của nhân loại. Những người nầy có tư cách tầm thường, ích kỷ, tham lam và nịnh bợ. Ông Tàu ngày xưa đã phê cho 2 giai cấp đó những nhãn hiệu hơi nặng. Người phi thường Tàu gọi là trượng phu. Những người tầm thường gọi là thất phu.

Trên đời nầy anh thất phu nào cũng phù thịnh chớ không phù suy. Khi chúng ta thua trận, đám tầm thường nói trên, khoa bảng, danh nhân có khi học giả nữa không tiếc lời sỉ vả chế độ, chánh phủ, nhân dân và quân đội Miền Nam. Đối với quân đội họ không ngần ngại tặng cho những danh từ đẹp đẽ như: nhát như thỏ, không đánh đã chạy, không dám đánh giặc chỉ lo đớp hít v.v.... Đã đành quân đội nào trên thế giới cũng có một vài phần tử xấu, đào binh, nhát gan, bán nước. Nhưng từ những trường hợp lẻ tẻ của một thiểu số xấu để đại thế hóa gán cho một quân đội đã hy sinh trên dưới 30 vạn người, hơn nửa triệu bị thương thì đúng là thối đếch chịu được.

Nếu Mỹ và VNCH đã thắng trận, tôi đoan chắc với anh, thì câu chuyện tôi kể anh nghe đây, nguòi ta cũng cho là thực nếu tôi phịa ra. Người ta sẽ năn nỉ tác giả viết thành sách, chắc chắn là sẽ được biến thành bestseller, làm phim cho màn ảnh lớn, màn ảnh nhỏ hốt bạc. Quân lực VNCH rủi ro ở trong cảnh thua trận, tôi xin nhấn mạnh tạm thua, thì những gì xuất phát từ một tên quân nhân của đạo quân thua trận đó đều được đánh giá là bá láp. Đây là quy luật sống của thế giới văn minh anh nhớ cho.

Tôi bật mí chuyện nầy không là để thanh minh thanh nga với đám người tầm thường nói trên. Chúng mình thua trận, mất tất cả, nhưng có một cái chưa hề mất từ ngày dân ta lập quốc là hãnh diện dân tộc. Sự hãnh diện đó không cho phép tôi đi tranh cãi với đám người phù thịnh không phù suy.

Tôi chỉ muốn cho thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ngoài nước, những người sẽ nắm vận mạng Việt Nam trong tương lai biết rằng thế hệ cha anh của họ đã chiến đấu thế nào cho tự do của dân tộc. Họ chiến đấu không phải vì những danh từ trừu tượng dao to búa lớn như tổ quốc, yêu nước, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ đa nguyên v.v... Họ chiến đấu cho những gì thiết thực hơn, thấy được trước mắt. Đó là làm sao cho con người Việt Nam được sống xứng đáng với thân phận con người chớ không phải kiếp sống con thú nhốt trong chuồng, dầu chuồng bằng vàng ròng, mất hết tự do. Đó là làm sao trên đất nước Việt Nam thân yêu không còn cảnh thằng mạnh hiếp thằng yếu, thằng giàu hiếp thằng nghèo, thằng làm học máu mồm mà không đủ cơm ăn no, làm sao không còn cảnh một con người quảy đôi gióng gánh trên vai với đôi mắt tuyệt vọng đi thất thểu không biết về đâu dẫn theo những đứa trẻ, đôi mắt nai vàng ngơ ngác, không hiểu tại sao người lớn lại hung dữ quá, ác quá thế nầy.

Tôi muốn cho loài người gọi là văn minh biết rằng, dân tộc Việt Nam là dân tộc yêu chuộng hòa bình nhất thế giới vì chưa có dân tộc nào chịu đau khổ vì chiến tranh bằng dân tộc nầy. Tuy nhiên đừng đem thảm họa chiến tranh tròng lên đầu họ. Khi bị bắt buộc chiến đấu, dân Việt Nam dám chiến đấu và biết chiến đấu. Mong các ông thích phù thịnh chớ không phù suy nhớ cho câu nầy.
Tiệc rượu chấm dứt ở đây.

Ngũ Lang
Share Hoài Niệm T.TT

Không có nhận xét nào: