Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2025

XE MÁY SÀI GÒN TRƯỚC 1975 – MỘT THUỞ SÀI GÒN - Trang Nguyên

26/07/2024 by Võ Mỹ Nhân
Trước năm 1975, miền Nam Việt Nam đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều loại xe gắn máy độc đáo. Những chiếc xe máy Sài Gòn trước 1975 không chỉ là phương tiện di chuyển mà còn mang đậm dấu ấn văn hóa thời kỳ. Xe gắn máy trở thành phương tiện chủ yếu, phục vụ cho nhu cầu di chuyển của người dân, hãy cùng Đỡ Buồn khám phá ngay bài viết dưới đây nhé!
MOBYLETTE – XE MÁY SÀI GÒN TRƯỚC 1975 ĐẬM NÉT PHÁP
<!>
Nhắc đến xe máy Sài Gòn trước 1975, người dân miền Nam trước đây hẳn không ai xa lạ với cái tên Mobylette. Do Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp, những chiếc xe này xuất hiện khá phổ biến trên đường phố. Dù được sản xuất bởi hãng Motobécane, cái tên Mobylette vẫn được người dân biết đến nhiều hơn.Xe Mobylette tại Việt Nam

“Mobylette là một kiểu xe đạp gắn máy do công ty Motobécane của Pháp sản xuất.

Xe Mobylette xuất hiện trên thị trường bắt đàu từ năm 1949 và được sản xuất tới tận năm 1997 với số lượng vượt quá 14 triệu đơn vị. Thập niên 1970 là thời kỳ đạt số lượng xe cao nhất, tính bình quân là khoảng 750,000 chiếc/năm.” _ Nguồn: Wikipedia – Mobylette.

Ở Việt Nam, Mobylette có hai loại chính là Mobylette vàng và Mobylette xanh. Cả hai đều được trang bị động cơ 49,99cc, nằm trong phân loại vélomoteur, không yêu cầu bằng lái. Mobylette vàng nhỏ gọn, chỉ có giảm xóc phía trước, còn Mobylette xanh lớn hơn, nặng hơn, được trang bị giảm xóc ở cả bánh trước và sau, mang lại cảm giác lái êm ái hơn và có giá thành cao hơn.Mobylette AV85


Xe Mobylette dường như ít thay đổi qua nhiều năm, trong những năm 1950, khung xe được làm từ các ống thép hàn lại với nhau đến 1960, khung xe chuyển sang làm bằng tôn ép. Màu sắc của xe cũng không thay đổi nhiều, chỉ có một giai đoạn Mobylette vàng được thay bằng Mobylette xám. Xe Mobylette được thiết kế đơn giản, dễ sử dụng, xe không cần phải chuyển số mà sử dụng hệ thống embrayage automatique (dây ga tự động), chỉ cần vặn ga lớn để tăng tốc và giảm ga để giảm tốc và dừng lại. Để khởi động, chỉ cần đạp nhanh là xe nổ máy. Nếu xe không nổ máy, có thể dùng cần gạt để tách động cơ khỏi bánh sau và đạp bộ về nhà.


VÉLOSOLEX SÀNH ĐIỆU GIỮA PHỐ

Nếu bạn từng đạp xe và tự hỏi tại sao không gắn một động cơ nhỏ lên xe đạp để khỏi phải đạp thì ý tưởng này đã được hiện thực hóa qua chiếc Vélosolex. Xe Vélosolex là một chiếc xe đạp có động cơ gắn trên bánh trước. Động cơ này làm quay một bánh đá tròn phía dưới, khi người lái kéo cần điều khiển trước mặt, bánh đá sẽ nâng lên khỏi bánh trước và xe có thể được đạp như xe đạp thông thường.

Khi đạp đến một tốc độ nhất định, hạ cần điều khiển xuống, tốc độ của xe sẽ kích hoạt động cơ và động cơ sẽ kéo xe bằng bánh trước. Xe đã chạy ổn định, người lái có thể đặt chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe và ngồi thoải mái. Ý tưởng đơn giản này đã xuất hiện vào giữa thế kỷ 20 và xe Vélosolex vẫn tồn tại đến đầu thế kỷ 21.Phụ nữ sành điệu với xe VélosolexXe Vélosolex
>>> Xích Lô – Nét Đẹp Hoài Cổ Của Sài Gòn Xưa

VESPA, LAMBRETTA – PHONG CÁCH LỊCH LÃM TỪ Ý

Ở phân khúc cao hơn là các dòng xe Scooter của Ý như Vespa và Lambretta. Những chiếc Scooter này có dung tích động cơ lớn hơn 50cc, thường là 125cc, 150cc hoặc 200cc, tùy theo mẫu xe. Vì vậy, chúng không được xếp vào loại vélomoteur. Người lái phải trên 18 tuổi và có bằng lái xe. Do đó, người sử dụng xe Vespa và Lambretta thường là những người trung niên, có cuộc sống khá giả, vì các dòng xe scooter này thường có giá thành cao hơn.
Vespa những năm 70s

Xe Vespa đã tồn tại hàng chục năm nhưng không thay đổi nhiều. Khung xe được làm từ tôn ép, có thiết kế hình tròn như quả trứng để tăng khả năng chịu lực. Động cơ được đặt ở phần phình ra bên phải, còn bên trái là ngăn chứa đồ. Vì vậy, khi chạy, xe Vespa thường nghiêng về bên phải do trọng lượng không đều.

Ngắm nhìn những chiếc Vespa trên đường phố Sài Gòn:




Tương tự như Vespa, xe Lambretta mặc dù có vẻ ngoài tương đồng nhưng cấu trúc lại hoàn toàn khác biệt. Khung xe được làm từ các ống sắt hàn lại, động cơ đặt ở giữa khung và được bọc bởi lớp vỏ sắt. Trong những năm đầu thập niên 1960, Lambretta có thiết kế với các đường cong mềm mại. Vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, kiểu dáng của xe chuyển sang phong cách thẳng, phù hợp với xu hướng thời bấy giờ, tạo nên vẻ thanh nhã. Cả hai dòng xe đều sử dụng cơ chế sang số bằng tay, với cần gạt embrayage và vặn để chuyển số.Lambretta trên phố Saigon năm 1967


GOEBEL, SACHS, PUCH – CÔNG NGHỆ ĐỨC BỀN BỈ

Từ cuối thập niên 1950 miền Nam Việt Nam đã nhập khẩu các dòng xe gắn máy từ Đức như Goebel, Sachs và Puch. Những chiếc xe này có điểm chung là bình xăng đặt trước người lái, hệ thống sang số bằng tay, và được trang bị giảm xóc ở cả bánh trước và sau. Động cơ của các xe này đều là 50cc, thuộc loại vélomoteur, nên không yêu cầu bằng lái khi sử dụng
.
Xe Goebel trước 1975
Xe Goebel trên đường phố Sài Gòn

Mỗi dòng xe lại có những nét đặc trưng riêng, chẳng hạn như động cơ của xe Puch luôn được bọc trong lớp vỏ nhôm và có hệ thống quạt làm mát. Điều này giúp động cơ luôn mát ngay cả khi dừng đèn đỏ. Dù chỉ có động cơ 50cc, nhưng nhờ có hệ thống số, xe gắn máy Đức có lực kéo mạnh ở số 1 và 2, do đó thường được sử dụng để kéo xe lôi, chở thêm bốn đến năm hành khách và hàng hóa phía sau. Hiện nay, các hãng Puch và Sachs vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển.
HONDA 67, CUB, DAME HUYỀN THOẠI

Khoảng năm 1965 cái tên Honda bắt đầu xuất hiện với nhiều mẫu xe mới lạ. Ban đầu, một số xe Honda được người Mỹ mang sang Việt Nam để sử dụng trong công việc. Khi họ trở về nước, những chiếc xe này được bán lại và người Việt đã có cơ hội sở hữu.
Khắp nơi đều là xe Honda

Một trong những ứng dụng phổ biến của xe Honda là được các phi công Mỹ sử dụng để di chuyển giữa nơi đậu máy bay và doanh trại. Khoảng cách giữa hai nơi này thường khá xa, nếu đi bộ có thể mất vài phút đến vài chục phút. Với xe Honda, các phi công có thể rút ngắn thời gian di chuyển, đặc biệt là trong trường hợp khẩn cấp, xe Honda giúp họ đến máy bay nhanh hơn so với đi bộ. Trong số các mẫu xe Honda trước năm 1965, Honda S90 có lẽ là chiếc được ưa chuộng nhất nhờ thiết kế đẹp, động cơ mạnh mẽ và âm thanh nổ giòn.

Honda chiếm số đông tại Sài Gòn

Các kiểu xe khác là C110, S65 (thường được gọi là S50), P50, C50. Xe P50 có cấu tạo đặc biệt với máy nằm ở sát bánh sau và truyền động thẳng vào bánh chứ không qua dây xích. Cách đặt máy này có lợi là khỏi bị mất lực khi truyền qua dây xích và giảm bớt số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe dễ bị mất thăng bằng vì đầu nhẹ, đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà vì không có ống nhún nên sức va chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh xe. Xe Honda Dame C50 trước 1965 có chiếc đã có bộ đề bằng điện, khỏi cần đạp. Trong khi chiếc Honda Dame nhập cảng hàng loạt sau này phải đạp máy nổ bằng chân.

Năm 1965 xe Honda Dame chính thức được nhập khẩu và bán cho người tiêu dùng tại Việt Nam. Mặc dù hãng gọi là kiểu C50, nhưng người dân thường gọi là Honda Dame. Những chiếc xe Honda Dame đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn với màu đỏ hoặc xanh lá cây nhạt, thu hút sự chú ý của nhiều người. Với hệ thống ambrayage tự động, người lái không cần bóp ambrayage tay khi sang số, chỉ cần giảm ga.

Honda Dame
Các mẫu xe khác như Suzuki Dame và Yamaha Dame cũng có tính năng tương tự.

Các mẫu xe máy Nhật Bản kiểu “đàn ông” được thiết kế giống môtô phân khối lớn với cần đạp nổ máy, thanh ngang để chân, và các chi tiết như bình xăng phía trước, miếng cao su đệm đầu gối, giúp việc lái xe thoải mái hơn. Đặc biệt, các dòng xe này có yên thấp, phù hợp với người châu Á, cùng tay ga nhẹ nhàng, dễ sử dụng.

Sau Honda Dame, mẫu xe Honda 66 (SS50) xuất hiện vào năm 1966, với màu đỏ hoặc đen, tay lái ngắn, không có đèn xi-nhan, hộp số năm số và tốc độ tối đa 90km/giờ. Đây là mẫu xe được thiết kế với đặc tính xe đua, nhưng không phù hợp lắm khi di chuyển trong thành phố do tay lái ngắn.

Năm 1967 Honda cải tiến mẫu xe với tay lái rộng hơn, hộp số năm số, sơn màu đen hoặc đỏ, có đèn xi-nhan và ống nhún trước bọc cao su, tốc độ tối đa 80km/giờ. Mẫu xe Honda 67 (SS50E) trở thành huyền thoại với động cơ mạnh, tốc độ cao, và được ưa chuộng nhất tại miền Nam.

Một trong những chiếc Honda 67 tại Sài Gòn
Chiếc Honda 67 còn được sử dụng để kéo xe lôi, thay thế cho các dòng xe Đức trước đó.
Một số hình ảnh xe máy Sài Gòn trước 1975 khác:
Honda 67 (SS50E)
Honda 72
Honda P50 hợp với dáng nữ
Honda Dame và SS50 trên đường

Khi nhớ lại những kỷ niệm về chiếc xe máy đầu tiên của Sài Gòn người ta không thể không cảm thấy một chút hoài niệm. Đó không chỉ là phương tiện di chuyển, mà còn là biểu tượng của một thời kỳ và phong cách sống đặc biệt, gắn liền với bao kỷ niệm vui buồn.
Xe gắn máy trước 75
Trang Nguyên
Vào khoảng 1965, dòng xe gắn máy hiệu Honda của Nhật xuất hiện tại miền Nam. Và trước đó nữa những thương hiệu Velosolex, Mobylette, Gobel của Pháp, Đức và Vespa của Ý cũng đã chinh phục được thị hiếu của người Sài Gòn.

Xe gắn máy một phương tiện di chuyển đáng yêu của người Sài Gòn (Nguồn: Manhhaiflickr)

Nói chuyện xe gắn máy thời nửa thế kỷ trước, ông bạn già của tôi tiếc hùi hụi chiếc xe Mobylette vàng bị mất khi ra tòa án xin lý lịch tư pháp số 3 để đi du học hồi đầu năm 60. Khu vực tòa án, có cảnh sát gác cổng an toàn, chiếc xe không cánh mà bay.

Có khóa vẫn mất huống hồ chi không khóa. Ông nhớ lại, vừa mới dựng chiếc xe cạnh ngay cửa sổ để chờ nhân viên lục hồ sơ đưa cho ông, lòng trông mong có nhanh phiếu lý lịch toan tính chuyện tương lai, nào để ý đến chiếc xe mình dựng gần đó vài bước chân. Chiếc xe biến mất, lòng đang vui bỗng hóa buồn. Thời đó, chiếc Mobylette vàng là cả một số tiền lớn.

Mobylette vàng là cách gọi chung cho dòng xe Mobylette có thân ống tuýp sơn màu beige gần giống màu cà phê bạc xỉu nhưng ngả vàng nhiều hơn. Người đi xe phân biệt dòng xe Mobylette theo kiểu trông màu đặt tên cho dễ nghe chứ nói tên model thì khó nhớ. Mobylette thời đó có vàng, xám và xanh.

Đời màu vàng xuất hiện tại Sài Gòn sớm nhất vào giữa thập niên 50 cùng thời với Velosolex loại xe có thiết kế bộ phận máy đặt ở phía trên đầu bánh trước. Chiếc xe thân yêu nhiều kỷ niệm lúc tốt nghiệp đại học đi dạy rồi đi du học của ông chỉ được hai ba năm, tự dưng biến mất hỏi sao không buồn. Ông không nhớ giá tiền chiếc xe là bao nhiêu nhưng quy ra vàng thì khoảng năm sáu lượng. Để mua được chiếc xe nhiều gia đình điền chủ phải bán cả ngàn giạ lúa.

Chuyện thứ hai, là chiếc xe gắn máy của ba tôi. Nhớ thuở tôi lên tám, ba tôi mua chiếc xe Honda 68 mới tinh. Chiếc xe màu đỏ láng lẩy vè sắt xi sáng bóng như gương mà tôi thường nhìn vào đó ngắm khuôn mặt mình dài thượt trông giống trái dưa gang có cái mũi trái dừa. Mua xe nhưng ba tôi ít khi nào có dịp đi đây đó, thỉnh thoảng chở anh em chúng tôi đi lòng vòng đường phố Sài Gòn như thể khoe với bàn dân thiên hạ rằng nhà tôi cũng có chiếc xe Honda bảnh tỏn như ai. Phần nhiều thời gian chiếc xe trùm mền để trong nhà.

Tôi thường đứng cạnh bên, vặn tay ga, rồ máy miệng, chân đạp cần máy loạn xạ. Có lần ba tôi để quên chìa khóa trong ổ công tắc, tôi táy máy tay chân vặn chìa, đạp máy. Chiếc xe nổ máy vang trời trong nhà không biết làm sao mà tắt. Má tôi lính quýnh, chạy sang nhà hàng xóm nhờ chú cạnh nhà bên qua xem. Chỉ có vặn ngược cái chìa khóa dễ như trở cái bánh tráng mà chẳng ai biết. Từ đó về sau, tôi không rắn mắt, chỉ đạp máy khơi khơi. Chuyện này càng tai hại hơn nữa. Chiếc xe không thèm nổ máy mỗi khi ba tôi lấy xe đi đâu đó. Kỳ lạ! Chiếc xe mới mua, trở chứng cứ “bệnh” ngộp xăng hoài, ba tôi kêu bán đi cho rảnh nợ.

Velosolex du nhập vào Sài Gòn từ những thập niên 1940 (Nguồn: Manhhaiflickr)

Thuở ấy, với nhiều gia đình xe gắn máy là một tài sản lớn chứ không phải là một phương tiện di chuyển rẻ tiền như chiếc xe đạp. Cả xóm tôi ở, mười mấy ngôi nhà xúm xít chỉ hai ba nhà là có xe gắn máy. Mãi cho đến sau khi tốt nghiệp trung học, bước chân ra đời đi làm vài ba năm trong thời buổi kinh tế khó khăn, xăng dầu khan hiếm, ngoài đường ai cũng đi xe đạp. Thời “đổi đời” đó, ai mà vi vu trên xe gắn máy thiệt là bảnh bao. Vì vậy, khi thấy vài anh chị trong cơ quan đi chiếc Vespa 50, Lambretta hay chiếc Honda các loại là tôi ngưỡng mộ và mong muốn sau này sẽ sắm một chiếc Vespa đua chen với đời.

Lương ba cọc ba đồng, ít tiền thì làm sao so bì thiên hạ. Mong ước chỉ là ước mong. Có lần tôi nói chuyện xe cộ với chị trưởng nhóm, một trong số ít nữ kiến trúc sư tốt nghiệp trường kiến trúc giữa thập niên 60. Chị sống độc thân trong một phòng chung cư ở đường Lê Thánh Tôn. Là người có học thức, khá giả nhưng chị vẫn thường đi làm bằng xe đạp. Tôi hỏi chị sao không đi xe gắn máy cho khoẻ thân. Chị bảo: Của cải là vật ngoại thân. Nghe chị nói, tôi muốn nghỉ việc đi tu liền.

Muốn gì được đó, nhưng tôi không đi tu mà vào đại học. Thuở sinh viên lại tiếp tục đạp xe chứ nào sắm được chiếc xe gắn máy thậm chí chẳng mua nổi chiếc cà tàng như Mobylette vào lúc đó được xếp hàng vào dòng xe cổ lỗ sĩ, giá chỉ tương đương chiếc xe đạp cuộc Tiệp Khắc. Lúc này, các dòng xe gắn máy đạp của Pháp có mặt tại Sài Gòn từ thập niên 50 đã chìm vào quá khứ. Tuy vậy, một số ít người vẫn còn sử dụng Mobylette xanh.

Tôi nhớ, có lần đến nhà cô bạn học dự sinh nhật ở đường Thủ Khoa Huân gần chợ Bến Thành. Trong nhà có chiếc Cady Motobécane (một trong những loại Mobylette cải tiến) dựng ở góc sân hông nhà, cạnh bên có chiếc xe hơi Peugeot 408 màu đen. Cô bạn hỏi có thích thì lấy về sửa lại chạy chơi. Thôi, đành từ chối, ôm cái của nợ này về chỉ tổ tốn tiền và mắc “nợ đời” suốt kiếp.

Ra trường, lại vẫn hai vòng bánh xe “quay đều quay đều” trong cuộc sống, làm ngày không đủ ‘tranh thủ’ làm đêm. Cuộc sống chẳng lãng mạn tí nào như “Nhớ khi xưa anh chở em trên chiếc xe đạp cũ. Áo ướt đẫm mồ hôi những trưa hè…” (Xe đạp ơi). Nói vậy thôi, chứ tôi rất thích lời và giai điệu bài hát của nhạc sĩ Ngọc Lễ ca ngợi mối tình thuở ngày xưa với chiếc xe đạp cũ mèm.

Thời của lứa tuổi chúng tôi nó như vậy, lãng mạn trong hoàn cảnh cuộc sống khó khăn, có chiếc xe đạp không bị dãn sên là tốt rồi, mong chi có được chiếc xe gắn máy của Pháp hay Nhật Bổn. Cũng lạ thật, ít thấy nhà thơ hay nhạc sĩ nào viết bài nhạc với chủ đề xe gắn máy ngoại trừ Viễn Châu viết bài tân cổ Văn Hường đi xe gắn máy “Kawasaki, Honda super sport, Yamaha, Suzuki ta cùng đua…”. Xe đạp đơn giản hiện hữu từ xa xưa đến tận giờ. Phải chăng nhịp sống thời đại mỗi lúc càng nhanh khiến con người ta lúc nào cũng ngóng về hoài niệm xưa như một cuộc sống chậm.

Từ thập niên 1950 các loại xe của Đức như Gobel, dành cho nam giới bước vào thị trường xe gắn máy tại miền Nam (Nguồn: life)

Thôi, chúng ta đang nói về xe gắn máy, hoài niệm xe đạp làm chi cho nỗi nhớ mông lung. Mấy năm sau, tôi cũng sắm được chiếc xe gắn máy ưng ý. Chiếc gắn máy Peugeot 102 màu đỏ, mọi thứ còn y như mới. Nghe đâu xe gắn máy Peugeot có mặt ở Hà Nội cùng thời với dòng xe Cady Motobécane ở Sài Gòn.

Thời đó, đời sống ở Hà Nội ra sao, tôi chẳng biết. Cuộc sống Sài Gòn bon chen dành dụm để có được chiếc xe gắn máy là thỏa mãn lắm rồi trong khi Sài Gòn đang bùng nổ xe Honda Super Cub nghĩa địa nhập vào sửa chữa, tân trang lại bày bán khiến người ta thích chí xe gắn máy đời mới của mình cũ của người ta.

Chiếc Peugeot 102 nguyên là của thầy cũ của tôi mang vào Sài Gòn bán đi tìm mua chiếc Honda Cub thời thượng. Thấy đẹp và rẻ tôi xin thầy nhượng cho. Chiếc xe nổ máy êm và ai cũng khen trông thật tao nhã. Không chỉ đẹp mà còn là “của” hiếm ở Sài Gòn thời đó. Xe thanh lịch, sử dụng đơn giản, phụ nữ hay nam giới chạy trông hay hơn là đi chiếc Babetta của Tiệp Khắc nhập vào bán trên thị trường.

Dân sưu tập xe gắn máy xưa cho biết, ở Hà Nội loại Peugeot gắn máy không có nhiều, chỉ những gia đình khá giả mới sắm được. Chiếc Peugeot vào Sài Gòn làm cho dân Sài thành lạ mắt, chạy đi đâu ai cũng nhìn, đố có “đụng hàng”. Bạn bè ai cũng hỏi tôi tậu được chiếc Peugeot ở đâu, chỉ giùm cho họ.

Theo thời gian, mọi thứ rồi cũng lỗi thời. Những sản phẩm xe gắn máy thay đổi kiểu dáng hằng năm. Các loại xe Pháp, Đức, Ý trở thành hoài niệm cho giới săn lùng xe cổ. Người có tiền hay ít tiền đều khoái xe Nhật, nhất là các loại Honda 66, 67, 68. Loại xe đàn ông này đúng là đàn ông mạnh mẽ, cày khỏe như trâu chứ không thèm sắm chiếc Honda dame hay Honda đỏ mà nhiều người khen là xe dùng trong quân đội, máy chạy bền. Giới sưu tập xe Puch đều thương tiếc cho cái chết của ông Đặng Đình Đáng – người đã mang xe gắn máy Puch vào Sài Gòn.

Ông nhìn thấy thời suy tàn của các loại xe gắn máy Pháp, xe Đức Gobel hay Sachs máy nổ to bình bịch, kiểu dáng thô kệch không hấp dẫn người mua. Chiếc gắn máy Puch của Áo, máy mạnh, chở nặng mới là niềm đam mê của các anh hùng xa lộ. Ông Đặng Đình Đáng gom hết tài sản, nhập phụ tùng và xe gắn máy nguyên chiếc, mở đại lý độc quyền ở đường Ngô Tùng Châu vào giữa thập niên 60 với mộng làm bá chủ thị trường.

Không ngờ, ông Tổng trưởng kinh tế Âu Trường Thanh lại ký kết thương mại với Nhật cho nhập xe các dòng xe Honda vào thị trường, giá xe rẻ lại có bán trả góp cho quân nhân công chức. Đại lý Puch phá sản, nợ nần không trả nổi, ông Đặng Đình Đáng nhảy cầu Bình Lợi tự vẫn. Thế mới biết, thương trường là chiến trường.

Tuy vậy, thật lòng mà nói, xe gắn máy Nhật vừa đẹp lại vừa bền, nhất là các dòng xe Honda. Chẳng thế mà người Nhật vẫn sản xuất xe Honda Super Cub bán khắp thế giới đến hiện giờ với con số hơn 70 triệu chiếc. Các dòng xe gắn máy xưa, giờ chỉ còn tồn tại trong tay các nhà sưu tập như một cách thể hiện sự đam mê về các dòng xe gắn máy Sài Gòn nửa thế kỷ qua.


Xe Yamaha nữ và Cady loại xe thông dụng dành cho phái nữ (Nguồn: manhhaiflickr)

Trang Nguyên

Không có nhận xét nào: