Tôi là người Việt Nam. Chào đời năm 1930 tại làng Đại Ngãi, quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Phục vụ quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 12/5/1954 đến Giờ Thứ 25 ngày 30/4/1975. Sau ngày tang thương này, nhóm cầm quyền Việt Cộng đẩy tôi -và đồng đội của tôi- vào trại tập trung Long Giao tỉnh Long Khánh ngày 14/6/1975, chuyển đến trại tập trung Suối Máu tỉnh Biên Hòa tháng 10/1975 trên đất Nam, chuyển đến trại tập trung Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn trên đất Bắc ngày 16/6/1976, chuyển xuống trại tập trung Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh tháng 4/1978, ra khỏi trại tập trung ngày 9/9/1987 về đến nhà ở Sài Gòn chiều ngày 12/9/1987.
<!>
Rời khỏi Việt Nam ngày 29/3/1991 trong đợt HO5 sang Thái Lan làm thủ tục, và chiều ngày 5/4/1991 đặt chân đến Hoa Kỳ tị nạn Việt Cộng. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi Việt Cộng độc tài còn cai trị quê hương tôi.
Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi, và tôi không bao giờ quên chuỗi tội ác mà các nhóm cầm quyền Việt Cộng gây ra cho Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam từ ngày 2/9/1945 đến nay.
Ước mơ của tôi là được trở về Việt Nam sống trên quê hương cội nguồn của mình dưới chế độ dân chủ tự do. Vì vậy mà ước mơ đó luôn thúc đẩy tôi chọn lọc các tin tức và đưa vào nội dung này, giúp Các Anh và những thành phần yêu chuộng dân chủ tự do có nét nhìn rộng hơn và rõ hơn, về chế độ độc tài + gian trá + tự cao + tham nhũng, về những sự kiện trên thế giới liên quan trực tiếp lẫn gián tiếp đến mục tiêu ngăn chận tham vọng thống trị thế giới của Trung Cộng, mà Hoa Kỳ và một số quốc gia phát triển đang thực hiện.
Khi nhóm cầm quyền Việt Cộng suy yếu đến hỗn loạn, hoặc Trung Cộng suy yếu đến mức mà nhóm cầm quyền Việt Cộng không thể dựa được nữa, đó là cơ hội cho Các Anh và toàn dân đứng lên giành lại Quyền Làm Người của mình, nối tiếp dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ ngàn năm trước.
Hãy nhớ, Các Anh là Người Lính trong quân đội gắn liền với hai chữ “Nhân Dân”, phải hiểu là Các Anh có trách nhiệm bảo vệ Nhân Dân, bảo vệ Tổ Quốc, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào độc tài mà cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Ngay cả Cộng Sản Quốc Tế là Liên Xô như đang chờ nắm quyền thống trị thế giới vô sản, đã phải sụp đổ từ đầu năm 1991 vì bản chất độc tài độc ác của cộng sản. Cộng sản Liên Xô sụp đổ, kéo theo nhóm quốc gia cộng sản vùng Đông Châu Âu cùng sụp đổ. Cuối năm 2024 vừa qua, quốc gia Syria độc tài đã bị người dân nổi dậy lật đổ, Tổng Thống độc tài xứ này cùng gia đình bay sang Nga tị nạn. Các quốc gia độc tài -nhất là cộng sản- còn sót lại nói chung, và cộng sản Việt Nam nói riêng, cũng trong quy luật đó.
Chưa hết, Các Anh hãy nhớ lại vào nửa thế kỷ trước đó, phát xít Đức bắt đầu chiến tranh xâm lăng Ba Lan từ tháng 10/1939 và chiếm gần hết Châu Âu, trong khi phát xít Nhật bắt đầu chiến tranh với Hoa Kỳ từ tháng 12/1941 và chiếm gần hết các quốc gia vùng Đông Nam Châu Á, nhưng đến nữa cuối năm 1945 thì cả Đức lẫn Nhật phải gục ngã -vì họ là chế độ độc tài với tham vọng thống trị thế giới, không thể tồn tại dài lâu- trước thế giới tự do do Hoa Kỳ dẫn đầu. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Xin nói thêm cho rõ. Với những bài văn bài thơ của các tác giả ở trong nước, tôi xin sử dụng chữ viết truyền thống thay thế chữ viết thời Việt Cộng, ngoại trừ những nhóm chữ thời Việt Cộng mà tôi không hiểu nghĩa.
Xin nói thêm cho rõ. Với những bài văn bài thơ của các tác giả ở trong nước, tôi xin sử dụng chữ viết truyền thống thay thế chữ viết thời Việt Cộng, ngoại trừ những nhóm chữ thời Việt Cộng mà tôi không hiểu nghĩa.
Với lá thư này, tôi tiếp tục tóm lược những bản tin liên quan đến tội ác của các nhóm cầm quyền Việt Cộng trong 50 năm qua:
1. Đổi tiền để cướp tiền.
2. Đóng cửa doanh nghiệp và đuổi dân đi khu kinh tế mới để cướp tài sản của dân.
3. Nhóm cầm quyền Việt Cộng chiếm toàn bộ đất trên lãnh thổ Việt Nam.
4. Sự tàn bạo của Việt Cộng đã đẩy hơn một triệu người vượt biển tìm cuộc sống tự do.
5. Việt Cộng ra lệnh cho quân phòng thủ đá Gạc Ma không được bắn trả, khi Trung Cộng tấn công.
6. Chưa bao giờ phụ nữ Việt Nam bị khinh bỉ sỉ nhục như thời Việt Cộng.
***
1. Tội ác ba lần đổi tiền để cướp tiền 1975-1978-1985. (source: Wikipedia).
Ngày 30/4/1975, sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, nhóm cầm quyền Việt Cộng ngụy trang bộ máy cầm quyền dưới tên gọi Chánh Phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Lúc ấy, tổng số tiền giấy lưu hành là 615 tỷ đồng, và còn tồn trữ trong Ngân Hàng Quốc Gia hơn 1.000 tỷ đồng. Trong khi toàn bộ các ngân hàng bị Việt Cộng niêm phong ngay chiều 30/4/1975. Và ngày hôm sau -1/5/1975- Việt Cộng ra lệnh quốc hữu hóa toàn bộ ngân hàng, đồng nghĩa với “cướp toàn bộ tài chánh”.
Ngày 6/6/1975, Việt Cộng thành lập ngân hàng Quốc Gia Cộng Hòa Miền Nam. Cùng lúc, dưới danh nghĩa Việt Nam, để thừa kế vai trò hội viên của Ngân Hàng Quốc Gia thời Việt Nam Cộng Hòa trong các tổ chức tài chánh quốc tế.
Ngày 22/9/1975 đổi tiền lần 1. Thời gian đổi tiền mới, từ 11 giờ sáng đến cuối 10 giờ tối ngày 22/9/1975, chỉ có 12 tiếng đồng hồ. Có hai loại hối suất: (1) Từ Đà Nẳng vào cực Nam, thì 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa bằng 1 đồng tiền mới. (2) Từ Huế ra cực Bắc, thì 1.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa bằng 3 đồng tiền mới.
Căn bản: Mỗi gia đình, cứ 100.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa đổi được 200 đồng tiền mới. Nếu là tiểu thương, cứ 200.000 đồng tiền cũ đổi được 400 đồng tiền mới. Và nếu hảng xưỡng, cứ 500.000 đồng tiền cũ, đổi được 1.000 đồng tiền mới..
Trong số tiền đem đến đổi tiền mới theo căn bản nói trên, nếu số tiền còn lại tối đa là 100.000 đồng tiền cũ của mỗi gia đình, và tối đa là 1.000.000 đồng tiền cũ đối với mỗi hảng xưỡng, bắt buộc gởi vào ngân hàng Việt Cộng. Nhưng sau khi nhận tiền ký gởi thì ngân hàng đóng cửa. Đầu năm 1976, ngân hàng mở cửa lại, nhưng mỗi tháng gia đình chỉ được rút tối đa là 30 đồng tiền mới, nhưng phải làm đơn gởi cho nhà cầm quyền địa phương và chờ cứu xét. Nhưng, đến cuối năm 1976, gia đình cũng như hảng xưỡng, dù còn bao nhiêu tiền trong ngân hàng đều vuột khỏi nắm tay, vì tất cả thuộc tài sản của nhóm cầm quyền Việt Cộng. Đúng là ăn cướp.
Về tỷ giá hối đoái với đồng mỹ kim lúc ấy:tự họ ấn định::1.51 đồng tiền mới = 1 mỹ kim.
Ngày 3/5/1978 đổi tiền lần 2. Lần này đổi tiền trên toàn cõi Việt Nam, theo căn bản: 1 đồng tiền cũ miền Bắc đổi được 1 đồng tiền mới. 1 đồng tiền mới năm 1975 của miền Nam đổi được 0.80 đồng tiền mới cả nước.
(bàn đổi tiền)
Tiêu chuẩn số tiền tối đa được đổi tiền như sau: Thành phố: 100 đồng cho gia đình 1 người. 200 đồng cho mỗi gia đình 2 người. Gia đình 3 người, thì người thứ 3 trở lên, mỗi người được 50 đồng. Tối đa cho mỗi gia đình là 500 đồng, bất kể số người là bao nhiêu. Miền quê: 100 đồng cho gia đình 2 người. Gia đình trên 2 người, thì mỗi người từ người thứ 3 trở lên được đội 30 đồng. Tối đa cho mỗi gia đình là 300 đồng, bất kể số người là bao nhiêu.
Số tiền được đổi, nếu trên mức tối đa phải khai báo và bắt buộc gởi ngân hàng, khi cần sử dụng phải xin phép nếu có lý do chính đáng. Một điều kiện bắt buộc, người dân phải chứng minh số tiền trên mức tối đa là do đâu mà có.
Năm 1985 đổi tiền lần 3. Cứ 10 đồng tiền của năm 1978, đổi được 1 đồng tiền mới năm 1985.
Tóm tắt. Qua lần đổi tiền 1975, Việt Cộng đã nhân danh nhà cầm quyền mà cướp một khoản tiền của người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ, khi bắt buộc gởi vào ngân hàng. Nhưng chỉ cho rút tiền rất giới hạn mà lại phải có lý do gọi là “chính đáng” trong đơn xin, và một năm sau tổng số tiền của đồng bào còn lại trong ngân hàng đều mất hết. Đúng là bản chất dối trá cướp đoạt của nhóm cầm quyền Việt Cộng.
Về tỷ giá hối đoái. Năm 1975, sau khi đổi tiền, thì 1.51 đồng tiền mới, đổi được 1 mỹ kim. Sau rất nhiều lần phá giá đồng bạc Việt Cộng, đến ngày 11/2/2011, ngân hàng nhà nước Việt Cộng ấn định tỷ giá mới là: 21.693 đồng Việt Nam, đổi được 1 Mỹ kim. Ngày 19/1/2025, ngân hàng nhà nước Việt Cộng lại công bố tỷ giá hối suất là 24.338,00 đồng bạc Việt Cộng đổi được 1 mỹ kim. (trích trong Wikipedia)
2. Đóng cửa doanh nghiệp và đuổi dân di khu kinh tế mới để cướp tài sản.
(source: bài của Nguyễn Dương trong Việt Nam Thời Báo ngày 25/4/2021).
Ngày 16/2/1976, Nguyễn Văn Linh là Trưởng Ban Cải Tạo trung Ương, trong chiến dịch đánh tư sản mại bản trên lãnh thổ Việt Cộng Hòa cũ, có 3 đợt:.
Đợt 1. Ngày 11/9/1975, tịch thu nhà cửa đất đai tài sản của người Việt Nam Cộng Hòa cũ đã di tản, trong đó có người Việt gốc Hoa, đồng loạt thực hiện tại 17 tỉnh từ Quảng Trị xuống đến Cà Mau, và Sài Gòn.
Tháng 4/1977, Quyết Định số 111/CP do Thủ Tướng Việt Cộng Phạm Hùng ký, cử Đỗ Mười thay thế Nguyễn Văn Linh trong chức vụ Trưởng Ban Cải Tạo trung ương, trực tiếp chỉ huy chiến dịch đánh tư sản mại bản.
Đợt 2. Từ 7 giờ sáng ngày 23/3/1978, tất cả cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, và các trung tâm dịch vụ đều bị niêm phong. Các tổ công tác của Việt Cộng ập vào từng điểm và niêm phong tài sản, khống chế mọi người trong gia đình không được ra vào. Mỗi điểm niêm phong có tối thiểu một tổ ba người, là thanh niên xung phong, thanh niên công nhân các nhà máy, sinh viên các trường đại học, cả những thanh niên các phường được huy động vào canh giữ.
Ngay buổi chiều hôm ấy, nhà cầm quyền Việt Cộng tổ chức cuộc mít tinh biểu tình với hằng ngàn học sinh, sinh viên tham dự, để hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp của đảng. Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ tiêu dùng, gia dụng trong nhà, hoàn toàn bị phá hủy. Không những thế, các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy, … cũng bị tê liệt.
Và đợt 3. Từ năm 1979 đến 1984, tịch thu toàn bộ tài sản của các tư thuơng, tiểu tư sản, các thành phần sản xuất nhỏ, cơ sở dịch vụ, kỹ nghệ nhẹ, và các công ty giao thông đường bộ, đường thủy.
Trong chiến dịch này, số lượng người Sài Gòn sau khi bị cướp toàn bộ tài sản, còn bị cưỡng bức đi khu kinh tế mới vào khoảng 600.000 người, tạo ra một sự hoảng sợ hoang man chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài Gòn qua các thời kỳ trong dòng sử Việt.
Tổng kết trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa cũ, vào khoảng 950.000 người bị đẩy đến các khu kinh tế mới. Sức mạnh kinh tế Sài Gòn tự nhiên bị phá hoại đến kiệt quệ hoàn toàn. Hơn 14.000 cơ sở tiểu thủ công nghiệp bị nhóm cầm quyền Việt Cộng cướp hết, cùng lúc khoảng 270.000 công nhân vừa mất việc vừa trắng tay và bị đẩy đến các khu kinh tế mới.
Sau khi tịch thu nhà cửa của khoảng 950.000 người bị đẩy đến các khu kinh tế mới mà thực chất là họ cướp nhà và tài sản. Vì ngay sau đó, nhóm cầm quyền Việt Cộng đưa khoảng 150.000 cán bộ cùng gia đình của họ, từ Hà Nội vào chiếm giữ tất cả ngôi nhà đó làm nhà của họ. Cướp giật kiểu ấy chỉ có nhóm cầm quyền Việt Cộng từ ngoài rừng vào mới làm được. Người ngoài rừng là người hoang dã, mà Hà Nội thời Việt Cộng cũng là nơi hoang dã.
Riêng về tổng số vàng và nữ trang tịch thu từ các nhà tư bản tại Sài Gòn từ tháng 5/1977 đến tháng 2/1978, được truyền thông của nhà nước Việt Cộng thừa nhận lên đến 4.000 lượng vàng, và 1.200.000 mỹ kim. Tính chung số vàng và nữ trang tịch trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa cũ lên đến khoảng 35.000 lượng vàng. Cướp giật kiểu ấy chỉ có nhóm cầm quyền Việt Cộng từ ngoài rừng vào mới làm được. Người ngoài rừng là người hoang dã.
Tư sản mại bản ngã quỵ, kinh tế xã hội dẫn đến mức lạm phát lên 80%, cùng với vấn đề tiếp diễn của sự thiếu thốn và nạn đầu cơ lương thực, nhóm cầm quyền Việt Cộng sợ người Việt gốc Hoa có thể bị lôi kéo theo các mục tiêu của Trung Cộng, trong khi người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Hoa.
Theo nhận định của các chuyên gia Liên Hiệp Quốc về kinh tế: “Việt Nam đang tụt hậu hơn 50 năm về kinh tế sau chính sách đánh tư sản Việt Nam Cộng Hòa cũ. Năm 1985, Việt Nam thời Việt Cộng là quốc gia nghèo đứng hàng thứ ba trên thế giới năm 1985, tính từ cuối bảng lên trên”.
3. Tội ác chiếm toàn bộ đất đai toàn quốc hồi năm 1978. (source: Wikipedia và báo cáo của Bộ Công An).
Tháng 5/1978. Chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị, toàn bộ đất đai trên lãnh thổ Việt Nam trở thành tài sản của nhóm cầm quyền Việt Cộng, người dân chỉ được cho phép sử dụng -sau khi xét đơn xin- dưới tên gọi “quyền sử dụng đất”. Vậy là, sau khi cướp tài sản của 18.000.000 dân Việt Nam Cộng Hòa (cũ), nhóm cầm quyền Việt Cộng cướp cả một phần đất có dạng hình cong chữ S trên mặt địa cầu.
Khi có Hiến Pháp, thì đất đai chánh thức thuộc về nhóm cầm quyền Việt Cộng, mà họ ghi là “quyền sở hữu của toàn dân, nhưng người dân chỉ có quyền sử dụng đất đai khi nhà cầm quyền cho phép.”. Việt Nam dưới chế độ độc tài toàn trị, người dân phải làm đơn xin sử dụng đất để cất nhà hay làm vườn làm ruộng, phải chờ nhà cầm quyền cứu xét, còn cho phép sử dụng hay không là tùy thuộc quyền lợi của họ, hoặc những lúc họ vui hay buồn.
Điều 4 Hiến Pháp ghi rằng: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội....”
Đại biểu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, mà cướp toàn bộ đất đai của người dân, đã dẫn đến tình trạng người dân không có nhà ở, không có đất trồng trọt, và họ trở thành Dân Oan. Theo Viện Kiểm Sát Nhân Dân, trong những năm 2000-2002, mỗi năm nhận từ 5.000 đến 7.000 đơn khiếu nại đất đai. Nhưng năm 2003-2004, mỗi năm Viện này nhận hơn 120.000 đơn của dân bị oan ức khiếu nại về đất đai.
Theo Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, thì từ năm 2001 đến năm 2006, khoảng 376.000 mẫu đất trồng lúa đã bị thu hồi làm một triệu nông dân không có đất canh tác để sống. Vậy mà Luật Đất Đai 2003 lại đơn giản hóa thủ tục cho các hợp đồng lớn, để từ đó nông dân bị mất đất ngày càng nhiều hơn, nhanh hơn. Vẫn theo Bộ này, số lượng các đoàn có đông Dân Oan gia tăng trong những năm: (1) Năm 2008 với gần 1.000 đoàn. (2) Năm 2009 khoảng 2.500 đoàn. (3) Năm 2010 với hơn 3.500 đoàn.
Thật rõ ràng, Hiến Pháp do nhà cầm quyền đảng biên soạn, Quốc Hội hầu hết là đảng viên, điều hành xã hội thì lãnh đạo các cấp toàn quyền quyết định theo nhu cầu của họ, còn người dân chỉ có ngậm miệng mà thi hành lệnh!
Tháng 3/2013, khi Quốc Hội Việt Cộng đang trong thời gian sửa đổi Luật Đất Đai, thì Tổ chức Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam nhấn mạnh rằng: "Đối xử công bằng giữa các thành phần sử dụng đất là rất quan trọng đối với tăng trưởng công bằng hơn, và phát triển con người ở Việt Nam.
Và Ngân Hàng Thế giới tại Việt Nam cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sửa đổi luật đất đai tại Việt Nam: “Điều quan trọng là sửa đổi Luật Đất đai cần tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho việc quản trị đất đai một cách hiệu quả, công bằng, và bền vững hơn về môi trường đối với nguồn tài nguyên đất đai khan hiếm."
4. Sự tàn bạo của Việt Cộng đã đẩy hơn một triệu người vượt lên sự chết để cuộc sống tự do.
Trong những ngày hỗn loạn cuối tháng 4 năm 1975, khoảng 150.000 người chen lấn nhau trèo lên các chiến hạm để di tản sang Hoa Kỳ tị nạn.
Theo tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc phổ biển hồi tháng 6 năm 2000, thì trong 20 năm -1976 đến 1995- đã có 839.200 người vượt biên vượt biển đến tị nạn chính trị tại 91 quốc gia tự do khắp Đông Tây Nam Bắc địa cầu, và Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc sau khi thu thập tin tức tại các trại tị nạn, ước lượng cứ hai người đến bến bờ tự do thì có một người chết trên biển. Theo ước lượng đó, thì khoảng 400.000 đến 500.000 người đã chết mất xác trên biển và trong rừng, trên đường chạy trốn Việt Cộng!
(trong số thuyền nhân đang leo lên tàu cứu vớt, có hai con trai của tôi)
Số người vượt biên vượt biển đến bến bờ tự do, cộng với số người Việt Nam Cộng Hòa chạy khỏi Việt Nam trước và trong ngày 30/4/1975, là 989.000 người. Đây là cuộc “bỏ phiếu bằng chân bầu chọn chế độ Dân Chủ Tự Do”
5. Tội ác của Việt Cộng đối với quân lính của họ khi Trung Cộng tấn công đá Gạc Ma.
“Hải chiến Gạc Ma 1988”, là nhóm chữ nói đến 64 quân lính Việt Cộng trấn giữ Đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa, khi bị Hải Quân Trung Cộng tấn công Đá Chữ Thập ngày 31/1/1988, Đá Châu Viên ngày 18/2/1988, Đá Ga Ven ngày 26/2/1988, Đá Tư Nghĩa ngày 28/2/1988, Đá Xu Bi ngày 23/3/1988.
Riêng Đá Gạc Ma + Đá Cô Lin + Đá Len Đao bị tấn công cùng ngày 14/3/1988. Bài “Hải chiến Gạc Ma + Cô Lin + Len Đao” trong Wikipedia, mô tả trận chiến đã xảy ra giữa Hải Quân Việt Cộng với Hải Quân Trung Cộng, cuối cùng thì Việt Cộng có 3 chiến hạm bị chìm và 64 chiến sĩ tử trận, nói cho đúng là quân lính Việt Cộng được lệnh ôm súng chớ không được bắn lại Trung Cộng. Phía Trung Cộng hư hại 1 xuồng đổ bộ và 24 chiến sĩ thương vong. Trong số 64 lính Việt Cộng ôm súng để bị bắn chết, có 8 xác được đồng đội mang về đất liền.
Rồi 27 năm sau, Thiếu Tướng Việt Cộng Lê Mã Lương -từng giữ chức Giám Đốc Bảo Tàng Lịch Sử Quân Sự Việt Cộng- tường thuật trong cuộc hội luận nhân ngày kỷ niệm cuộc chiến Gạc Ma, do Trung Tâm Minh Triết tổ chức vào năm 2015 tại khách sạn Công Đoàn.
Hôm ấy, Tướng Lê Mã Lương tường thuật: “Nó có một câu chuyện như thế này: Có đồng chí lãnh đạo cấp cao ra lệnh bộ đội ta không được nổ súng nếu như Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma hay bất kỳ đảo nào ở Trường Sa. Không được nổ súng! Và sau này nó có một câu chuyện và nó đã được ghi vào tài liệu mà ta đã rõ, là trong một cuộc họp của Bộ Chính Trị, đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đập bàn và nói, “ai là ngưiờ ra lệnh không được nổ súng?” Những người lính hy sinh đầu tiên ấy cộng thêm con số bộ đội bị quân Trung Quốc sát hại nâng lên 64 người, là một vết thương lớn cho người lính bất cứ quân đội nào khi họ cầm súng nhưng không được chống lại quân thù. Ngài Bộ Trưởng Quốc Phòng hồi ấy là ngài Lê Đức Anh đã ra cái lệnh như vậy.”
Ông Nguyễn Khắc Mai -Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hoá Minh Triết- nói về vai trò của Tướng Lê Đức Anh lúc ấy là Bộ Trưởng Quốc Phòng, là người đã ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng: “Ngài Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng hồi bấy giờ là ngài Lê Đức Anh, đã ra cái lệnh như vậy mà anh Lê Mã Lương đã tường thuật trong hội thảo tưởng niệm Gạc Ma, thì bây giờ ta phải công khai cái này. Một Bộ Trưởng Quốc Phòng, thấy giặc nó xâm lấn bờ cõi của mình mà ra lệnh không được chống lại, đứng im như thế cuốn cờ lên người mình để cho nó nã súng bắn chết!
Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một nhà ngoại giao kỳ cựu, am hiểu sâu sắc vấn đề Trung Quốc đánh giá quyết định không cho nổ súng của Bộ Trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh: “Tôi cho rằng, lúc bấy giờ ông Lê Đức Anh được đưa lên làm Bộ Trưởng Quốc Phòng mà làm cái việc như thế là một việc phản quốc. Ra lệnh không được bắn lại để cho Trung Quốc nó giết chiến sĩ của mình như là bia sống, thì tôi cho đó là một hành động phản động, phản quốc.
Ông Lê Đức Anh là cai đồn điền cao su của một người tình báo của Pháp chứ ông ta không phải tham gia cách mạng lâu dài gì đâu. Chẳng qua ông ấy khai man lý lịch rồi được lòng ông Lê Đức Thọ, rồi ông Lê Đức Thọ cứ đưa ông ấy lên vù vù trở thành Bộ Trưởng Quốc Phòng, sau này thành Chủ Tịch nước. Cái điều đó những người biết chuyện như tôi lấy làm đau lòng lắm, và cho là một nỗi nhục của đất nước. Cho đến hôm nay, 64 người anh hùng liệt sĩ ở Gạc Ma đấy, nhiều xác người vẫn còn nằm dưới biển, và cái ông Nông Đức Mạnh nguyên Tổng Bí Thư lại nói rằng thôi cứ để yên như thế! Đáng lẽ ông ta phải tìm cách vớt lên, và đưa thân xác của các liệt sĩ ấy về quê mẹ, thì ông ta bảo để im...”
Vậy mà báo Vietnam.net ngày 26/03/2025, có đoạn viết dối trá không thể tưởng tượng, như sau:
“…. Ngày 14/3/1988, khi các tàu vận tải cùng với bộ đội Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đá Cô Lin, đá Gạc Ma, và đá Len Đao, thì các tàu chiến của Trung Quốc lao đến, dùng pháo lớn bắn vào các tàu HQ-604 ở đảo Gạc Ma, HQ-605 ở đảo Len Đao và HQ-505 ở đảo Cô Lin. Các cán bộ và chiến sĩ, đã nắm tay nhau tạo thành “vòng tròn bất tử”, lấy thân mình quyết tâm giữ đảo. Kết quả, 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam vĩnh viễn nằm lại giữa muôn trùng sóng biển trong trận chiến bảo vệ chủ quyền đất nước tai các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam ….”.
6. Chưa bao giờ phụ nữ Việt Nam bị khinh bỉ sỉ nhục như thời Việt Cộng.
Bài viết “Món hàng phụ nữ Việt Nam” của tác giả Phan Nguyên Luân, tường thuật bài phóng sự chiếu trên đài truyền hình “France Television/France 2” hồi tháng 10/2017. Bài phóng sự do đặc phái viên của Pháp thực hiện, đã làm phẫn nộ đồng bào Việt trong nước lẫn hải ngoại. Trước hết, người xem có cùng cảm xúc trái tim bị co thắt lại vì xót xa cho phận người phụ nữ Việt Nam sống dưới chế độ Việt Cộng. Chúng ta hãy nhìn lại dòng lịch sử Việt Nam, chưa có một triều đại nào từ thời lập quốc Việt Nam của Vua Hùng Vương đến ngày nay mà Phụ Nữ Việt Nam bị khinh rẻ một cách nhục nhã đến như vậy!
Một ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, người Phụ Nữ không bị bán thân, đẩy ra hải ngoại làm tôi tớ như món hàng. Gần một trăm năm bị giặc Pháp đô hộ, phụ nữ vẫn bình yên sống. Những năm phát xít Nhật xâm chiếm, phụ nữ Việt Nam cũng không bần cùng. Hai mươi mốt năm chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, phụ nữ Việt Nam, chẳng những không bị khinh miệt, mà còn nâng cao vị trí phụ nữ trong xã hội. Thế thì… tại sao Việt Nam sau 42 năm không còn tiếng súng, hòa bình trên khắp quê hương, mà người Phụ Nữ bị rao bán một cách nghiệt ngã tang thương như vậy? Chúng ta khẳng định, Việt Cộng là thủ phạm bán nước, hại dân, đẩy đồng bào ra nước ngoài làm lao công để trừ nợ, và rao bán phụ nữ cho ngoại bang một cách nhục nhã để thủ lợi riêng.
Sau đây là bài phóng sự được chiếu trên đài truyền hình quốc gia Pháp, nói về chuyện tổ chức bán phụ nữ Việt Nam cho dân Trung Cộng. Thú thực, tôi không dám coi hết, vì không đủ can đảm nhìn vết thương nhầy nhụa trên thân thể quê hương mình.
Phóng sự chiếu trên TV cùng ngày với đám tang ông Stéphane Hessel do Tổng Thống Pháp chủ tọa. Ông Stéphane Hessel là tác giả cuốn “Indignez-vous” (Hãy Nổi Giận )..
Trước đây có nhiều nhà báo viết về nạn bán phụ nữ Việt Nam bán sang Tàu, như trên tờ Wall Street Journal đã kể câu chuyện một cô quê ở Nam Ðịnh bị bán sang Quảng Ðông. Cô phải sống ở một làng miền núi, bị gia đình chồng và cả hàng xóm của họ canh giữ nghiêm ngặt không cho trốn đi. Sau cố lén gửi được thư cho gia đình tại Việt Nam, rồi một người anh trai lặn lội đi tìm được làng cô ở và bày mưu cứu cô về Việt Nam.
Năm 2004 hai tác giả Valerie Hudson và Andrea den Boer viết cuốn sách tiếng Anh mang tựa đề “Bare Branches” Cành Trụi, dịch sát hai chữ Quang Côn, trình bày tình trạng nhiều đàn ông Trung Cộng ế vợ, do nhà xuất bản Ðại Học MIT in.
Bản tin loan báo chương trình Quang Côn, Les Branches esseulées, cho biết những “cô dâu” được “nhập cảng” qua Trung Cộng , trên nguyên tắc để làm vợ cho các “quang côn” -những cành cây trụi lá- nhưng họ được đem bán như bán nô lệ. Sớm muộn họ sẽ chạm mặt với thực tế phũ phàng, khác hẳn những gì được ông chồng tương lai hứa hẹn. Họ sẽ lao động cực nhọc ở các làng quê hẻo lánh, ngoài việc lo sinh đẻ. Nhiều cô dâu đã tìm đường trốn đi, nhiều cô đành chịu đựng số phận.
Hai nhà báo Patricia Wong và Gaël Caron bắt đầu chương trình với cảnh mua vợ của Xiao Lu tại vùng phụ cận Sài Gòn. Các “quang côn” được tập trung tại một khách sạn, họ bị ngăn cản không cho đi đâu, vì bọn lái buôn đã tịch thâu giấy thông hành của họ. Rồi họ được đi xem mặt hàng, là các cô gái Việt Nam tuổi ở 20. Một chuyến đi mua vợ như vậy tốn khoảng 5.000 đồng Euro, vào khoảng 8.000 mỹ kim, những cô còn trinh được trả giá cao hơn. Giống như các siêu thị và cửa hàng bách hóa lớn ở Mỹ, khách tiêu thụ không hài lòng với các “món hàng” này có thể đem đổi lấy món hàng khác tương đương,“échangeable” trong nguyên văn. Bọn buôn người gồm cả người Việt và người Tàu.
Trong gian phòng khách sạn, nhà báo thu hình ảnh Xiao Lu gặp cô dâu tên là Thu Yến, một cô gái quê sợ sệt, nhút nhát. Hai người không thể nói chuyện gì với nhau cả vì ngôn ngữ bất đồng. Tất nhiên, không ai mở miệng nói đến chữ “yêu.” Mấy ngày sau, họ về làng của cô gái ở vùng đồng bằng sông Cửu Long làm lễ cưới, một nghi lễ không có giá trị pháp lý. Sau đám cưới, bà mối người Tàu tên là bà Vương (Wang) đưa cho Thu Yến thông hành với visa nhập cảnh Trung Cộng. Mấy ngày sau, Thu Yến về đến nhà chồng, ở một làng trong một thung lũng hẻo lánh, mọi người chung quanh nói thứ tiếng cô không hiểu được.
Chương trình TV trên đài France 2 chắc sẽ làm các khán giả người Pháp kinh ngạc. Nhưng đối với khán giả người Việt Nam là điều sỉ nhục. Trong lịch sử nước ta, chưa bao giờ có cảnh đem phụ nữ trần truồng bày hàng để bán, với điều kiện “không hài lòng thì đổi” để tận tình phục vụ người tiêu thụ.
Chỉ dưới chế độ “xã hội chủ nghĩa ưu việt” mới có cái thứ “lương tâm Việt Cộng của nhóm cầm quyền tài tình sáng suốt”, biến các cô gái Việt Nam thành món hàng bán cho ngoại quốc như vậy. Người thiếu nữ Việt Nam thời Việt Cộng, bị khinh bỉ rẻ rúng đến như vậy, nhóm cầm quyền Việt cộng đã làm cho tổ quốc mục ruỗng, và biến dân tộc trở thành nô lệ của họ!
Kết luận.
Tôi rất hy vọng là Các Anh nhận ra những gì tôi trình bày, và Các Anh luôn sẳn sàng để khi cơ hội chợt đến -nhất là biến cố chính trị tại Trung Cộng, hoặc nhóm cầm quyền Việt Cộng suy yếu đến hỗn loạn- là Các Anh lập tức đứng lên, toàn dân sẽ đứng cạnh Các Anh, cùng Các Anh làm nên lịch sử bằng cách triệt hạ chế độ cộng sản độc đảng, độc quyền, độc tài, độc đoán, và độc ác nhất suốt dòng lịch sử Việt Nam oai hùng.
Không quốc gia nào hành động thay cho Việt Nam mình đâu Các Anh à, mà họ chỉ sẳn sàng trợ giúp Việt Nam mình xây dựng và phát triển đất nước.
Từ đó, người Việt Nam trong nước và người Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, cùng nhau vá lại mảnh giang sơn đã "rách loang lỗ" bởi những Hiệp Ước của Việt Cộng giao đất giao biển cho Trung Cộng, xóa tan những “vệt da beo trên da thịt quê hương” mà hiện nay là những làng mạc có công nhân hay quân lính Trung Cộng mà người Việt bị cấm vào. Cùng nhau khôi phục lại nền văn hoá nhân bản và khoa học dù phải trải qua nhiều năm mới thành công, và cùng nhau phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình.
Tôi là Người Lính Già, nói cho đúng là “Người Lính già quá”, không hề có tham vọng gì về chính trị khi tìm tài liệu để viết những lá Thư này, chỉ vì tôi tự thấy trách nhiệm của Người Lính chưa tròn, nên cố gắng tiếp tục trách nhiệm thích hợp với hoàn cảnh và quan điểm sống của “Người Lính quá già” này, đang sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất. Chỉ có vậy thôi Các Anh à.
Hãy nhớ: “Muốn được sống trong Tự Do, chính chúng ta phải tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
Texas, ngày 14 tháng 5 năm 2025
Và đây là bài thơ ”Mẹ Ơi” của tác giả Cương Biên ở Thanh Hóa. Tác giả nhìn quê hương qua những góc cạnh khác nhau, và tất cả đều là bi thảm!
Sông của mình, bị bỏ ngỏ rồi Mẹ ơi
Những con sông cô đơn, không người nô giỡn
Thuyền bè trơ khung, dưới trời uất nghẹn
Cá tôm xa rồi, cho biển nhớ đến xanh xao
Biển của mình, bị bỏ ngỏ rồi Mẹ ơi
Tàu thủy giặc, vào gần bờ Đà Nẵng
Chúng cướp giết ngư dân, cho thuyền về tay trắng
Mà ngang nhiên, cứ như chốn không người
Trời của mình, bị bỏ ngỏ rồi Mẹ ơi
Máy bay thù, cắt đường bay truyền thống
Ai phá dậu đập bờ, cho trời quê trơ trống
Cho lòng người, ly tán lắm đau thương
Đất nước mình, bị bỏ ngỏ rồi Mẹ ơi
Nghênh ngang, nơi yết hầu Tổ Quốc
Người ngoại bang, dày đặc khắp nơi nơi
Có linh thiêng, Mẹ hãy về Vũng Áng, hay Nha Trang để tận mắt Mẹ nhìn
Rừng của mình, bị bỏ ngỏ rồi Mẹ ơi
Lũ lâm tặc, đeo huy hiệu đảng
Mỗi mùa mưa về, bao miền quê nước trắng
Thủy điện xả, nhấn chìm bao mảnh đất đau thương
Nòi giống ta, bị bỏ ngỏ rồi Mẹ ơi
Cho chất độc, ngấm sâu vào huyết thống
Kẻ thủ ác, khoác lác học cao hiểu rộng
Đang giết chết giống nòi, bằng sự bất lương
Lòng người Việt Nam, bị bỏ rơi rồi Mẹ ơi
Chẳng mấy ai nghe, tiếng ruột gan của người tâm đức
Kẻ nắm trong tay, chức danh quyền lực
Độc ác với đồng bào, nhưng hèn với giặc ngoại bang
Trên hết bây giờ, là niềm tin bị bỏ hoang
Quốc Hội họp, chẳng làm nên cơm cháo
Khẩu hiệu đỏ đường, mà du côn lơ láo
Dân đen quay cuồng, chuyện giá áo túi cơm
Mẹ Việt Nam ơi, Mẹ có linh thiêng
Xin thức tỉnh, lũ tà quyền bán nước
Giang sơn này, nhờ máu xương mà giữ được
Nay tan nát, bởi một lũ ngu trung./.
*****
Phạm Bá Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét