Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2025

TA VỀ GIŨ ÁO ĐƯỜI ƯƠI! - Phạm Hiền Mây


I/ ĐƯỜI ƯƠI THI SĨ
1. BÙI GIÁNG - Thi sĩ nào của Việt Nam có nhiều bút danh nhứt? Xin thưa, đó là thi sĩ Bùi Giáng. Các bút danh đó là Trung Niên Thi Sĩ, là Bùi Bàng Dúi, là Bùi Văn Bốn, là Bùi Bán Dùi, là Bùi Tồn Lưu, là Vân Mồng, là Giáng Bardot, là Giáng Monroe. Và là Đười Ươi Thi Sĩ.
2. ĐƯỜI ƯƠI NGHĨA LÀ GÌ? Đười Ươi, thời ông cố ông tổ xa xưa, còn gọi là người rừng, là một chi của loài Vượn to lớn, chân ngắn, tay dài, có cân nặng và chiều cao gần bằng con người. 
<!>
Đười Ươi không phải là Khỉ Đột hay Tinh Tinh, nó thông minh nhứt trong hàng Linh Trưởng.
Ngoài ra, trong dân gian, để gọi khỉ, người ta còn có cái tên Bú Dzù. Bú Dzù được dùng thay cho một tiếng chửi, ví dụ, đồ Bú Dzù, mày giống cái con Bú Dzù.
Khi nói ai đó, khi ví ai đó như con Đười Ươi, con Bú Dzù, thì đó là những so sánh miệt thị. Còn tự ví mình như Đười Ươi, tự gọi mình là Đười Ươi, thì đấy chính là tự trào. Tự trào là một thủ pháp nghệ thuật, tự châm biếm, tự chế giễu, tự cười cợt mình. Tự trào không có nghĩa là tự miệt thị mình.
******
3. BÙI GIÁNG - HIỆN TƯỢNG ĐẶC BIỆT TRONG GIỚI VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM
Bùi Giáng tự gọi mình là Đười Ươi Thi Sĩ, thảo nào mà thơ ông, nhiều lúc rất lơ ngơ, thảo nào mà thơ ông, nhiều lúc rất ngô nghê.
Khoan khoan, tôi chưa nói xong, lơ ngơ mà thần sầu quỷ khốc, ngô nghê mà tuyệt tác, thâm sâu.

Không chỉ là một tác giả với rất nhiều bút hiệu khác nhau, ông còn là nhà thơ đặc biệt nhứt trong dòng thơ hiện đại Việt Nam, của cả hai thế kỷ XX và XXI, khi thơ của ông, được truyền khẩu nhiều nhứt, truyền tụng cũng nhiều nhứt, tam sao thất bổn cũng nhiều nhứt và còn trôi nổi trong nhân gian cũng nhiều nhứt. Nói tam sao thất bổn nhiều nhứt, là bởi vì, người say mê ổng, đôi khi hứng thú quá, mà trở thành đồng sáng tác với ổng luôn. Nói thơ ông còn trôi nổi trong nhân gian cũng nhiều nhứt, là vì, khi ổng thích ai, ưng ai, muốn đáp đền ai, ổng bèn tìm đâu đó một mảnh giấy, bèo nhèo cũng được, xuất khẩu thành thơ tại chỗ, thường là bốn câu, rồi ký tên đóng dấu cái cạch, xỉa ra cho người ổng thương mến liền luôn.
******
4. GIŨ ÁO ĐƯỜI ƯƠI: LỘT BỎ BẢN NĂNG THÚ TÍNH, VÔ MINH

Tư tưởng trong thơ của Bùi Giáng thâm sâu. Xin đừng hiểu “thâm” trong “thâm sâu” là thâm độc hay thâm hiểm. Hiểu như vậy là sai lắm lắm. Thâm sâu ở đây có nghĩa là rất sâu xa.
Tư tưởng trong thơ của Bùi Giáng sâu xa. Ông không nói đến chánh trị, mà vẫn rất chánh trị. Ông không nói đến xã hội, mà vẫn rất xã hội. Ông không nói đến nhân tình thế thái mà lại rất thế thái nhân tình. Ông tự nhận ông điên, mà thiệt ra ông tỉnh hơn khối vạn người tỉnh. Ông tự nhận mình là Đười Ươi Thi Sĩ, nhưng hơn bất kỳ ai hết, ông lại rất Người, trọn vẹn chất Người, và chữ Người này được viết hoa. Hay nói như KTS. Võ Thành Lân: Giũ Áo Đười Ươi, chính là ước ao muốn lột bỏ cái bản năng thú tính, vô minh mà nhận chân giá trị nhân văn của loài người.
******
II/ TA VỀ GIŨ ÁO ĐƯỜI ƯƠI: NHẬN CHÂN GIÁ TRỊ NHÂN VĂN CỦA LOÀI NGƯỜI
1. CẢM ĐỀ
Trong truyện dài Khung Cửa Hẹp (La Porte Étroite, tác giả André Gide) do Bùi Giáng dịch, có bốn bài thơ ngắn, tác giả viết để làm phụ lục cho truyện, đặt tên là Cảm Đề, có câu:
Ta về giũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau.
(Gide Tặng Sophocle)
**
Đây là hai câu tuyệt hay của thi sĩ Bùi Giáng. Vì quá hay, hết sức hay, nên tôi mới lấy nó làm nhan đề cho bài viết.
Ta về giũ áo đười ươi. “Ta” ở đây là ai. Ta ở đây nhất định là Bùi Giáng rồi. Còn ta “về” là về đâu? Thì về đâu nữa, về nhà chớ về đâu.
Nhưng có chắc là về nhà không? Về nhà hay về đất? Về đất hay về với cát bụi? Về với cát bụi hay về miền cực lạc? Về miền cực lạc hay về chốn vĩnh hằng?
Phức tạp quá. Bởi mới nói thơ Bùi Giáng không dễ hiểu chút nào cả. Thôi thì cứ tạm cho là Bùi Giáng về “nguồn” đi, vì ông thường hay nhắc đến chữ nguồn trong thơ mình lắm. Nguồn, có nghĩa là nơi đầu tiên, nơi bắt đầu, nơi khởi điểm.

Ta về để làm gì? Ta về để giũ áo đười ươi. “Giũ” là gì? Giũ là rung, là lắc, là tung lên rồi phẩy mạnh xuống, cốt cho rơi ra, cho rời ra những thứ dính vào, bám vào.
Cái gì bám vào áo đười ươi? Đó chính là tờ phong nhã. Phong nhã là gì? Phong nhã là sự đẹp đẽ, thanh cao. Đẹp đẽ, thanh cao mà tại sao lại phụ nhau?
Thế mới là nghịch lý. Thế mới là thơ Bùi Giáng. Tưởng cái đẹp thì sanh sôi ra cái đẹp. Nào dè đâu, phong nhã ấy chỉ là cái dáng vẻ bên ngoài, là những điều không thật.
Áo Đười Ươi chính là buổi nguyên sơ của loài người. Đười Ươi nên hồn nhiên. Đười Ươi nên ngây thơ. Đười Ươi nên lãng đãng. Còn tờ phong nhã kia là tấm thân giả tạm. Và những thứ đấy, giờ cũng xin trút ra, bỏ lại, để hoàn thành vòng diệt sinh, sinh diệt bất tận.
Giũ xuống hết những vướng víu, bận bịu, nhọc lòng, nhiều như những hạt sương đang bám đầy trên vải vóc; Trút xuống hết những muộn phiền như những cơn mộng, để trở về cho kịp lúc hóa thân, tan biến, để bóng đêm được tràn xuống ngày cho âm dương hòa quyện; để tao ngộ hôm nào được tan rã, được chấm dứt, được biến mất, được quay theo guồng luân hồi đang rất đỗi vô cùng trong từng mỗi sát-na.
Giũ xuống hết, cho con người được hoàn thành một vòng yêu nhau, bên nhau để rồi sau đó là phụ phàng, chia ly, cách biệt: Ta về giũ áo đười ươi / Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau.
******
2. ĐI VÀO CẢNH GIỚI SI MÊ, GỌI ĐƯỜI ƯƠI DẬY

Trong Sa Mạc Trường Ca, Bùi Giáng viết:
Đi vào cảnh giới si mê
Gọi đười ươi dậy nhe răng ra cười
(Nhe Răng U Buồn)
**
Vào trong cảnh giới si mê, nghĩa là vào trong chốn ngu dại, tối tăm, không hiểu, không phân biệt phải quấy, không nhận thức được sự thật, không sáng suốt, mờ tối, hiểu sai, hiểu lầm.
Đi vào cảnh giới si mê này, có phải chăng là Bùi Giáng đi vào giấc mơ?
Hay, đi vào cảnh giới si mê này, chính là khi Bùi Giáng giật mình thức dậy?
Đi vào cảnh giới si mê này của Bùi Giáng có giống như chuyện nằm mơ của Trang Chu ngày xưa ở bên Tàu không? Tức là, Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu.
Chỉ biết rằng, gọi Đười Ươi dậy, tức là gọi Bùi Giáng dậy đó, thì Đười Ươi Bùi Giáng nhe răng ra cười.
Là nụ cười của Bùi Giáng, hay nụ cười của Đười Ươi? Hay cả hai? Bùi Giáng là Đười Ươi khi cười, và Đười Ươi khi cười, cũng chính là Bùi Giáng.
Bùi Giáng hay Đười Ươi gì thì cũng chỉ biết nhe răng cười, trước những thay đổi, vô thường, trắng đen, phải trái, có không, thực hư, được mất. Nụ cười của ngô nghê. Nụ cười của loài Đười Ươi hồn nhiên, thuần phác, đơn sơ, nguyên sơ, uyên nguyên.
Đồng thời cũng là nụ cười của vô minh, vô thức, không có trí tuệ.
Tiểu luận gia Đặng Tiến từng nhận định, thơ Bùi Giáng là một ''dòng nước ngược'', một tâm thức đi ngược chiều thời gian, trong một Sử Lịch, ngược dòng Lịch Sử. Trong hàng vạn trang sách để lại, Bùi Giáng thường dùng từ Sử Lịch. Chỉ một lần dùng chữ Lịch Sử để chối bỏ: Sử Lịch phai trang / Chạy quàng / Là Lịch Sử (Lá Hoa Cồn, tr. 55).
******
3. ĐIỆU ĐƯỜI ƯƠI: ĐIỆU HOA LẦU CÁC NGẬM NGÙI DẤN THÂN
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân.
**
Đặng Tiến cho rằng, Thuở Chưa Điên là bài thơ Bùi Giáng viết để tổng kết đời mình. Với Đặng Tiến, hai chữ Đười Ươi của Bùi Giáng sao mà bùi ngùi, thê thiết.
Bùi Giáng nhiều lần tự xưng mình là Đười Ươi Thi Sĩ - Đặng Tiến nói tiếp - để bày tỏ niềm hoài vọng tìm lại thiên tính của con người khi chưa lập thành xã hội, trong cõi trời đất Sơ Nguyên.
Sơ Nguyên, Đặng Tiến viết hoa. Ở đây, tôi cũng xin được chia sẻ thêm điều này. Khi nào phải viết hoa trong văn bản? Xin thưa, khi chữ đó đứng đầu dòng; khi chữ đó đứng sau một dấu chấm câu; khi chữ đó là các danh từ riêng chỉ tên người, địa lý, vân vân và mây mây.
Và, trong một số trường hợp khác, kể cả trường hợp, người viết cảm thấy tôn trọng điều gì đó, quan trọng điều gì đó, ví dụ, Mẹ Việt Nam, thay vì chỉ cần viết hoa từ Việt Nam là đủ, thì có nhiều tác giả, viết hoa luôn từ Mẹ - Mẹ Việt Nam.
Lại có những trường hợp, tên riêng mà không viết hoa, như chính tôi vừa qua, trong những bài viết về ngài Minh Tuệ. Khi tôi cảm thấy choáng ngợp trước một hình ảnh quá lớn lao, thì tôi tự thấy, việc viết hoa tên tôi cuối bài viết, có một vẻ gì đó rất kệch cỡm, thế là tôi tự nguyện viết thường tên tôi, như Bùi Giáng vui vẻ, tự nguyện nhận mình là Đười Ươi Thi Sĩ vậy đó.
Lại có những trường hợp, trong các văn bản thơ, đầu dòng, đầu câu, tên riêng, người làm thơ không hề viết hoa. Hỏi, viết như vậy có sai chánh tả không? Xin thưa luôn, các ông, các bà nhà thơ ấy, phần đông trong số họ, toàn giáo sư, toàn giảng viên ngôn ngữ học, toàn thầy cô giáo dạy văn không đó. Nghĩa là, họ không viết sai chánh tả đâu, chỉ là, họ thích viết như vậy thôi. Đó là style, là phong cách riêng của họ. Vì họ được toàn quyền sáng tạo trong việc trình bày văn bản, như bạn có toàn quyền trang trí ngôi nhà mang tên bạn vậy đó. Những bài thơ họ viết, nằm trong vùng cát cứ riêng của họ, lãnh thổ riêng của họ, bạn ưng thì vào đọc, bạn không ưng thì thoải mái, tự nhiên dời gót.
Quay trở lại với bài phê bình của Đặng Tiến, ông viết hoa từ Sơ Nguyên là vì, hoặc cảm thấy nó làm ông xúc động, hoặc vì nó là cốt lõi quan trọng của vấn đề, hoặc vì ông cảm thấy nó đẹp, hoặc vì ông cảm thấy nó cần được tôn trọng. Không chỉ thế, ông còn viết hoa một số từ trong đoạn nhận định về cái tên áo Đười Ươi của Bùi Giáng như sau: Thuở Uyên Nguyên ấy, là mùa Xuân của Đất Trời, mùa Xuân của Con Người. Nói chuyện Mùa Xuân trong thơ Bùi Giáng mà chưa lên tận Ngọn Nguồn để diện kiến Đười Ươi, thì chưa vui!
**
Còn Nguyễn Hưng Quốc, nhà phê bình văn học nổi tiếng, với bài Thuở Chưa Điên của Bùi Giáng, ông thâm trầm nhận định:
Bài thơ cấu trúc trên trục đối lập, lúc người chưa điên thì thơ lại như điên; lúc người đã bị xem là điên thì thơ, đằng sau cái vẻ ngớ ngẩn và nhảm nhí lại rất hiền triết, chứa đựng thật nhiều tâm sự hắt hiu về cuộc đời.
Những trò tra vấn ngôn ngữ ấy, dù sao, cũng là những trò chơi của một người trí thức. Tôi nghĩ, đó là ý nghĩa của cụm từ “ở trong dấu ngoặc” trong đoạn thơ trên của Bùi Giáng. Sau này, chủ yếu là sau năm 1975, ông thoát được những ám ảnh thuần túy trí thức ấy. Thơ của ông, đằng sau cái vẻ ngớ ngẩn điên khùng, lại chứa đựng nhiều nhân tình hơn:

Bây giờ xoang điệu đười ươi
Ðiệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân.
Nói đến “xoang điệu đười ươi” là nói đến những yếu tố quậy phá bên ngoài. Ở đây nên chú ý là Bùi Giáng, cả trước và sau năm 1975, đều nói đến cái điên của mình. Tuy nhiên, sau năm 1975, tần số xuất hiện của những bài viết về cái điên ấy tăng lên rất cao. Hơn nữa, trong những bài thơ ấy, Bùi Giáng nhắc đến cái điên của ông một cách cực kỳ tỉnh táo, như là cái điên của một ai khác: Chớm vừa tỉnh táo hôm qua / Mà hôm nay đã hét la vội vàng / Ồn ào quậy phá xóm làng.
******
4. ĐƯỜI ƯƠI VÀ SINH VẬT ĐƯỢC MỆNH DANH LÀ CON NGƯỜI
Trong bài Đười Ươi Sụt Sùi, Bùi Giáng viết: Cháu con dâu rễ thành đại tập / Cảm động đười ươi cũng sụt sùi. Còn trong Chuyện Chiêm Bao thì: Đười Ươi giũ áo tình phong nhã / Khỉ đột trút tình tưởng Việt siêu.
Hai từ Đười Ươi cứ được Bùi Giáng lặp đi lặp lại như một tự miệt thị, như một sự tự nhắc mình, như một nỗi niềm u hoài, day dứt và khôn nguôi trong tâm trí.
Có phải chăng, khi tự đặt cho mình cái tên Đười Ươi thi sĩ, là khi Bùi Giáng rất ngậm ngùi: Con Người, đang quay về sử lịch, trở lại làm Đười Ươi? Hay Đười Ươi, đang muốn vươn lên thành Con Người, một Con Người đúng nghĩa, một Con Người với đầy đủ chân thiện mỹ?
******
III/ VUI THÔI MÀ
1. BÙI GIÁNG - XƯA NAY CÓ MỘT
Bùi Giáng là một thiên tài, thiên tài tự hủy nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại (Thanh Tâm Tuyền).
Tự hủy đây không phải là tự hủy mình, không phải là tự hủy thể xác, thân xác. Tự hủy này được hiểu theo nghĩa, lập ngôn sau phủ nhận lập ngôn trước. Hay nói theo cách của nhà phê bình văn học Đặng Tiến trong cuốn Vũ Trụ Thơ II, tự hủy đây là lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời, nên câu thơ trở thành vô nghĩa.
Từ một câu thơ mang rất nhiều nghĩa, để rồi người đọc xoay ngang trở dọc nó, để rồi người đọc tìm phía trước lẫn sau lưng nó, cuối cùng, òa ra, nó vô nghĩa, nó chẳng mang nghĩa gì cả: xuân về xuân lại xuân đi / đi là đi biệt từ khi chưa về.
Và Đặng Tiến ngon ơ xác nhận: Thơ Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một (Bùi Giáng Nguồn Xuân).
******
2. BÙI GIÁNG: TƯ DUY VÀ NGÔN NGỮ, KHÔNG BẾN KHÔNG BỜ
Nhà văn Mai Thảo, người cùng thời và cũng là bạn của Bùi Giáng, viết: Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ (giám đốc nhà xuất bản An Tiêm) chỉ in Bùi Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản Bùi Giáng trước mọi tác giả khác. Giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm, in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó, chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn, cõi thơ Bùi Giáng ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ. Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng hiển lộng tới không bến không bờ, vô cùng vô tận, và tài năng của ông cũng vậy.
Nhà văn Mai Thảo đem thắc mắc của mình đi hỏi thầy Thanh Tuệ, thầy trả lời: Tôi cũng lấy làm lạ, anh ấy lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ. Nhiều ngày bỏ cả bữa ăn, đêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Buổi sáng nói có máy, có giấy, thì buổi chiều ảnh đã tới, ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc. Điều kỳ lạ, trước tác thuộc thể loại nào, anh cũng có ngay, dễ dàng và nhanh mau vô tả.
Từ thơ cho đến văn, từ tiểu luận về Camus đến tiểu luận về Nguyễn Du, từ dịch thuật tiểu thuyết đến phê bình triết học, tất cả như đùa như chơi vậy.
Khi Mai Thảo đem những thắc mắc này ra hỏi chính Bùi Giáng, thì ông chỉ cười cười, đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu, nói, vui thôi mà!
******
3. NÓI XẤU HAY CHỬI MẮNG CON, THÌ CON CŨNG KHÔNG GIẬN VÀ LUÔN CHÚC HỌ MAY MẮN
Đời sau, có người mắng mỏ Bùi Giáng, cái câu "vui thôi mà", thiệt là vô trách nhiệm, huề vốn.
Tôi nghĩ khác. Cả cuộc đời của ông, ông cũng chỉ coi đó là một cuộc rong chơi, huống hồ là văn chương. Đến kỳ hạn, hết thời hạn, thì về. Và ông đã về, gần ba mươi năm nay.
Gia tài ông để lại, xem trọng cũng được, coi khinh cũng chẳng sao. Chữ nghĩa ông để lại, thích cũng được mà ghét bỏ thì tùy. Nói như ngài Minh Tuệ: nói xấu con hay chửi mắng con, thì con cũng không giận họ và chúc họ may mắn!
******
4. THƯA RẰNG NÓI NỮA LÀ SAI
Riêng tôi, đọc Bùi Giáng chưa bao giờ là một việc dễ dàng. Nhưng ở đời, thường lạ thế đó, càng vất vả, càng muốn chinh phục. Và tôi nhận ra, tôi chưa khi nào đơn độc. Các tao nhân, mặc khách, từ bàn nhậu vỉa hè, mười lăm ngàn một chai bia, ba chục ngàn một con khô mực, đến các trà đình tửu điếm vài ngàn đô la một chai rượu, khắp chốn, khắp nơi, chưa bao giờ ngưng nói về, chưa bao giờ ngừng luận bàn về Bùi Giáng. Họ yêu Bùi Giáng. Họ say Bùi Giáng. Họ cuồng Bùi Giáng. Và, họ chửi cả Bùi Giáng nữa, khi cái câu thơ gì mà kỳ cục, nghĩ quài mà nó chẳng chịu lòi ra cái ý nào cho mình khà một cái.
Đặng Tiến, cả một đời say mê văn chương, cả một đời tận tụy, dành hết cho văn chương, khi bàn có một chữ “xuân” trong thơ Bùi Giáng, ông phải viết dàn xa dặm dài, nhưng vẫn không thỏa. Cuối cùng, ông thốt lên, phải ngừng lời thôi, vì: Thưa rằng nói nữa là sai / Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào (Chào Nguyên Xuân, Mưa Nguồn, tr. 25).
Bùi Giáng là hiện tượng suốt từ khi thơ ông có mặt trong cuộc đời, đặc biệt là ba thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX. Bùi Giáng trở thành huyền thoại sau khi ông qua đời. Bùi Giáng, có một không hai. Bùi Giáng, vô tiền khoáng hậu. Bùi Giáng, trí tuệ siêu phàm. Bùi Giáng, bút lực phi thường. Bùi Giáng gì gì nữa, thì xin các bạn cứ tự ý thêm vô.
Muốn khen gì cứ khen, muốn chê gì cứ việc, Bùi Giáng chẳng quan tâm. Ông đã tự nhận mình là Đười Ươi Thi Sĩ đấy thôi. Khen chê đến mấy thì cốt Đười Ươi cũng hoàn loài Đười Ươi. Chỉ có điều, khi rời khỏi trú xứ này, ông cũng đã chu đáo, cởi bỏ chiếc áo khoác tạm, cởi bỏ vẻ bề ngoài mà ông đã mặc hờ trong suốt hơn bảy mươi năm qua, đặng mà trả lại cho cõi.
******
IV. TỪ THI SĨ BÙI GIÁNG ĐẾN TU SĨ MINH TUỆ

Bùi Giáng, và rất nhiều các nhà thơ, nhà văn tên tuổi khác, ngày xưa, không hề nằm trong hội nhà văn, hội nhà thơ, hay một tổ chức, đoàn thể nào, na ná, tương tự.
Thế nhưng ông vẫn được người đời vinh danh là nhà thơ thứ thiệt, nhà văn thứ thiệt, nhà biên khảo, dịch thuật thứ thiệt - bởi chính những sáng tác văn chương của mình.
Sư Minh Tuệ cũng thế. Sư không nằm trong bất cứ một hội đoàn hay tổ chức nào, không cả trong GHPGVN.
Thế nhưng ông vẫn được người Việt Nam trong và ngoài nước, vẫn được người của đất nước mình lẫn đất nước khác, kính trọng, ngưỡng mộ, bởi chính lối tu tập ráo riết, siêng năng, khiêm cung, mà suốt gần mười năm qua, ông đã thực hành cả ngày lẫn đêm một cách công khai, bền bỉ.

Tại sao sư không vào Giáo Hội? Tại sao sư chưa muốn mình mang họ Thích, họ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni? Đơn giản là do, sư tự nhận thấy mình chưa xứng đáng. Sư cần thêm thời gian để thực hành những gì Phật đã dạy trong kinh sách, để tự kiểm nghiệm lại mình, xem đã thuần thục hết chưa, chỉn chu hết chưa. Nếu thấy mình xứng đáng rồi, khi gặp được một vị thầy nào đó, hoặc các bậc A La Hán, đầy đủ Giới Định Tuệ, thì lúc đó, sư sẽ đảnh lễ và xin được quy y, thọ giới, cũng chưa muộn.
Tại sao lại không chấp nhận lối suy nghĩ và phương pháp tu của sư Minh Tuệ? Tại sao? Tôi nghĩ hoài mà vẫn không ra, đành kết luận tạm, chắc người ta, ở vị trí lãnh đạo, vốn có thói quen áp đặt người khác vào các khuôn khổ đã được định sẵn. Ai ngoan ngoãn, cun cút tuân theo mà không thắc mắc gì, thì đó mới là người thật, tu thật, lòng dạ thật. Còn ai cảm thấy quy y trước, rồi tu sau, là thiếu tính hợp lý, muốn thay đổi lại, muốn làm ngược lại - tu tập trước, tự thấy xứng đáng rồi, mới xin đứng vào hàng ngũ đệ tử Phật - thì lại bị quy chụp là giả danh tu sĩ Phật giáo, là vi phạm nghiêm trọng các quy định của Giáo hội, làm ảnh hưởng đến uy tín của Giáo hội.
Mới thấy, từ nhà thơ đến tu sĩ, sống được cùng với thế gian, là chuyện vô cùng khó khăn, khổ sở. Bước qua luật lệ của thế gian, đối mặt với các hội đoàn luôn biểu dương sức mạnh đàn áp của mình bằng cách lấy thịt đè người, chưa bao giờ là chuyện dễ dàng. Thảo nào mà ông Bùi Giáng, ổng cứ phải lâu lâu, lại thất thanh mà la lên:

Ta về giũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau!

Phạm Hiền Mây
Sài Gòn

Không có nhận xét nào: