Khi mẹ anh đã đến tuổi trưởng thành, năm 18 tuổi, bà sinh ra Ocean và làm việc tại một tiệm làm tóc ở Sài Gòn, gội đầu cho nam giới để kiếm sống. Tuy nhiên, tông tích lai chủng của bà đã thu hút sự chú ý của an ninh phường khiến gia đình bà phải chạy trốn khỏi Việt Nam để đảm bảo an toàn. Gia đình đã được sơ tán đến một trại tị nạn ở Philippines. Khi Vuong hai tuổi, gia đình Vuong đã được tị nạn và định cư tại Hartford, Connecticut. Một ngày nọ, cha anh bỏ gia đình và không bao giờ quay trở lại.
Vuong là người đầu tiên trong gia đình đạt được trình độ học vấn đầy đủ, dù lâm chứng bệnh khó đọc (dyslexia) di truyền trong gia đình. Vuong đã theo học tại Trường trung học Glastonbury ở Glastonbury, Connecticut, một ngôi trường nổi tiếng. Sau Manchester Community College, Vuong chuyển đến Đại học Pace ở Thành phố New York để học ngành tiếp thị (Marketing). Thời gian học tại Pace chỉ kéo dài vài tuần trước khi anh nhận ra rằng chương trình không phù hợp.
Sau đó, anh đăng ký học tại Brooklyn College thuộc Đại học Thành phố New York, nơi ông học văn học Anh thế kỷ 19 dưới sự hướng dẫn của nhà thơ và tiểu thuyết gia Ben Lerner, và lấy bằng Cử nhân Anh văn. Khi học tại Brooklyn College, Vuong đã nhận được Giải thưởng của Viện Hàn lâm Nhà thơ Hoa Kỳ. Vuong tiếp tục lấy bằng Thạc sĩ (Master of Fine Arts) chuyên ngành thơ ca tại Đại học New York.
Sau khi biết được định nghĩa của từ "đại dương" là Ocean - như Thái Bình Dương, nối liền Hoa Kỳ và Việt Nam — mẹ của Vuong đã đổi tên bản xứ của con trai mình từ Vương (miền nam đọc là "Dương") thành Ocean.
Ocean Vuong là người đồng tính và là một Phật tử thực hành Thiền tông.
II. Bài Thơ “The Half-Finished Heaven” Có Rất Nhiều Đặc Điểm Của Thơ Văn Xuôi
Tên Bài Thơ “The Half-Finished Heaven”, chuyển ngữ thành “Thiên Đường Dang Dở”, khai mở một bố cục song hành đối lập. Trong khi “Heaven” có thể hoán dụ bằng Paradise, Nirvana là những thiên đường, lạc viên, niết bàn qua phép ẩn dụ các cơ cấu toàn vẹn, cao đẹp, siêu thoát của thần thánh, của siêu nhiên tuyệt hảo, thì cụm từ “Half-Finished” lại ẩn dụ và hoán dụ những cơ cấu dang dở, bất thành, bất toại, xiêu vẹo, tiêu cực.
Thơ văn xuôi có hình thức tương đối tự do, không cấu trúc chặt chẽ, không phụ thuộc hệ thống nhạc tính, vần điệu rõ rệt, ngoại trừ việc kết nối các đoạn văn sử dụng dấu câu chuẩn. Một trong những đặc điểm của thơ văn xuôi là việc sử dụng ngôn ngữ tượng hình, tức là sử dụng các kỹ thuật ẩn dụ (metaphor) và hoán dụ (metonymy), so sánh và thay thế tiếp thụ. Tác giả của bài thơ sử dụng hình ảnh và biện pháp tu từ đó để tạo ra những hình ảnh sống động, dây truyền.
Ba câu đầu là sự khuếch xung của phép ẩn dụ và hoán dụ của trạng thái dang dở, bất thành, bất toại, tiêu cực đối nghịch với ý niệm toàn vẹn, cao đẹp của lý tưởng siêu thoát.
Sự khuếch đại của phép ẩn dụ và hoán dụ trên được diễn xuất qua nhịp điệp âm (alliteration) và nhắc lại (repetition) của những đoạn thi ngữ, mà văn xuôi không cho phép, vì coi là rườm rà không cần thiết. Ngược lại, nhịp điệp âm và nhắc lại trong thơ văn xuôi lại tạo thành một hiệu ứng ám ảnh dây truyền, mà André Gide gọi là “mise en abyme” hay lồng chiếu viễn ảnh bổ xung.
Despondency breaks off its course.
Anguish breaks off its course.
The vulture breaks off its flight.
Nỗi tuyệt vọng đứt quãng.
Nỗi khổ đau đứt quãng.
Con kền kền đứt quãng chuyến bay.
Ở đoạn này, “Despondency” hoán dụ với “Anguish” và “vulture” để ẩn dụ và mô phỏng sự tiêu cực, bất toại của tâm trạng đau đớn, bất lực, đối nghịch với hạnh phúc toàn vẹn, với lý tưởng siêu thoát, toàn năng.
Riêng “con kênh kênh” (vulture) dù có tự do thiên nhiên với khả năng bay bống, thoát ly hơn loài người, cũng đành dang dở bỏ cuộc khi “đứt quãng chuyến bay”, không sao vút tới nơi cực lạc của thiên ấn vũ trụ, của siêu nhiên vô hình, tuyệt hảo. Phải chăng đó là định mệnh của kiếp sống dang dở, tương đối bất toại và bất khả cưỡng.
Với mười một câu cuối của bài thơ, phép ẩn dụ và hoán dụ lại mở rộng sự xét lại “The Half-Finished-Heaven”, bằng sự đối diện biên tế, huyền ảo của trạng thái “Thiên Đường Dang Dở”, qua việc sử dụng rộng rãi các hình ảnh mô tả cảm giác hồi sinh, thèm khát lây truyền:
The eager light streams out,
even the ghosts take a draught.
Ánh sáng háo hức tuôn trào,
thậm chí cả những bóng ma cũng phải uống một ngụm.
Cái còn lại “dang dở” của trang thái “Thiên Đường” là sáng tác trí tuệ, là văn học nghệ thuật, là những cơ sở phát minh cổ truyền từ quá khứ băng hà, nay hồi sinh hiện hữu chung quanh đời sống con người thức tỉnh, tái tạo trí tuệ. Bức tranh nhân tạo từ bàn tay sáng tác của hoạ sĩ, dù chưa đạt tới cốt lõi thiên đường, đã đủ sức mang lại ánh sáng và sinh lực cho người thưởng ngoạn, khi họ biết so sánh và nhận thức chung quanh mình, từ môi trường sinh hoạt tới vũ trụ bao quanh.
And our paintings see daylight,
our red beasts of the ice-age studios.
Everything begins to look around.
Và những bức tranh của chúng ta nhìn thấy ánh sáng ban ngày,
những con thú đỏ của chúng ta trong các xưởng vẽ thời kỳ băng hà.
Mọi thứ bắt đầu nhìn xung quanh.
Con đường còn lại tiến tới “Thiên Đường Dang Dở” là những chuỗi bình minh mở rộng hướng dẫn thiên hạ; mà nghị lực tham quan sinh tồn đã có sẵn trong tâm vô hạn. Mỗi thân phận con người là một cánh cửa “dang dở”, vừa mở rộng, vừa khép kín, tương xứng cho từng người biết chọn lựa cho mình và tha nhân.
We walk in the sun in the hundreds.
Each man is a half-open door
leading to a room for everyone.
Chúng ta đi bộ dưới ánh mặt trời với hàng trăm thiên hạ.
Mỗi người là một cánh cửa hé mở
dẫn đến một căn phòng cho tất cả mọi người
Thiên Đường Cực Lạc vô thường vô hạn ở ngay lòng đất, dưới bước chân chúng ta. Là mưa phùn, là sương nắng thủy tinh phủ sáng rừng cây. Là mặt hồ mở cửa phản ánh lòng đất.
The endless ground under us.
The water is shining among the trees.
The lake is a window into the earth.
Mặt đất vô tận bên dưới chúng ta.
Nước lấp lánh giữa những hàng cây.
Hồ là một cửa sổ nhìn vào lòng đất.
Để Tạm Kết: Văn Luận Nhập Cuộc
Văn Luận chú trọng tới tác văn nhiều hơn tới tác giả. Văn luận nhằm điều nghiên và phân tích các công trình sáng tác văn học nghệ thuật trên ba tiêu chuẩn: phẩm chất, kỹ thuật sáng tác, và tầm ảnh hưởng.
Người cầm bút, dù viết lách chỉ để giải đáp một vài thôi thúc tình cảm hoặc vì lương tâm cá nhân, cũng đã dấn thân, nhận trách nhiệm về hành động có suy nghĩ, có chủ đích. Song song, phê bình văn học nghệ thuật cần chú trọng nhiều tới việc (a) phân tích tư tưởng nội tại trong văn thi phẩm, (b) khai sáng các kỹ thuật, văn pháp liên hệ, và (c) đối chiếu những phương thức cấu tạo làm chuẩn v.v. Vậy, phê bình văn học nghệ thuật ở khía cạnh văn luận nhập cuộc sẽ tiếp nối công trình sáng tác, tìm hiểu và cân nhắc đối tượng văn học nghệ thuật để làm gạch nối với độc giả, hơn là chỉ trích cá nhân hoặc miệt thị, chê bai vì thành kiến hoặc phản ứng nhất thời.
Văn luận cũng nhằm mở rộng Giao Văn quốc tế, tức là trao đổi văn hoá và văn học đối chiếu qua các hệ thống sáng tác, các trào lưu tư tưởng, văn cách và văn đạo khác nhau trên thế giới, với mục đích duy nhất là hội nhập và soi sáng phẩm giá nhân bản. Theo quan niệm đó, Văn luận khai triển mạch giao văn đối chiếu bằng cách so sánh những bài thơ tuyệt tác, những đoản văn hay, mới lạ — sâu sắc về tư tưởng, đặc biệt về hình thức và văn pháp.
Chuyển ngữ phải có giá trị, phải ngang sức với nguyên tác phẩm. Dịch thuật cần đủ tầm vóc và thực lực mới có thể “giao chuyển” tư tưởng nội tại nơi tác phẩm gốc đến tâm hồn người đọc tác phẩm dịch. Do đó, giao văn đối chiếu là cơ hội để so sánh văn thể và văn phong của đối tác. Tỷ dụ, thơ “Bài cú” - Haiku Nhật - cần được chuyển thành thơ thiền, với một văn thể, văn phong siêu thoát, mới đạt được ý và khí thơ nguyên thủy. Như vậy, muốn dịch thơ cho “thoát”, dịch giả cũng phải là một nhà thơ, hoặc có khả năng lĩnh hội thơ tuyển chọn trước khi “chuyển tác”. Hiện tượng liên tạo thi văn này được nhà văn luận Julia Kristeva gọi là “Intertextualité”, mà chúng tôi tạm dịch là “Liên thảo” [động tác kết sinh] hay “liên bản” [hiện tượng đối chiếu].
Văn luận rút cuộc là một bản đại hoà tấu liên tạo thi văn, mà giao hưởng và thưởng ngoạn chỉ đạt được bằng mức độ giao cảm linh biến giữa tác giả, bình giả, và đọc giả — qua tác phẩm và hiện tượng sáng tạo liên hệ.
Lưu Nguyễn Đạt,
PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University, Howard Law School
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét