Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2025

CHUYỆN BIÊT KÍCH - Bạch Hổ


Điệp Vụ tại Bắc Việt - Mặc dầu thành công với điệp viên Ares (chuyện xảy ra như thế nào vẫn chưa rõ), hồ sơ về những điệp viên đơn độc (singleton) không được tốt đẹp lắm. Trong tháng 9 năm 1961, điệp viên thứ ba của phòng 45 bí danh Hero xâm nhập bằng đường biển, trở về liên lạc với gia đình bị thất bại. Chuyện này không thành công và phòng 45 phải thâu hồi ngay tức khắc. Cũng trong tháng đó, điệp viên Hirondelle xâm nhập trở lại vùng Hà Tĩnh bằng đường biển. Lần ra đi này, anh ta biến mất. Trong năm 1962, danh sách các điệp viên đơn độc bị mất tích gia tăng. 
<!>
Một điệp viên bí danh Triton, xâm nhập vào Hà Tĩnh bằng tàu biển trong tháng Năm cũng biến mất không tìm ra manh mối. Cuối tháng đó, một điệp viên khác bí danh Athena xâm nhập cũng trong vùng biển Hà Tĩnh. Người điệp viên đó chính là Ðặng Chí Bình (rất nổi tiếng trong giới người Việt hải ngoại qua bộ hồi ký Thép Ðen), Athena bị bắt sau khi thi hành công tác ở Hà Nội. Ðến năm 1963, chuyện gửi điệp viên nằm vùng dài hạn trong một xã hội kiểm soát quá chặt chẽ như ở miền Bắc rất khó khăn. Ngoại trừ Ares, 4 điệp viên khác xâm nhập bằng đường biển bị mất tích coi như đã chết. Ngay cả chuyện bơi qua sông Bến Hải như Hirondelle đã làm trước đây cũng trở nên gay go nguy hiểm. Ðiệp viên bí danh Wolf xâm nhập qua vùng phi quân sự bị mất tích trong tháng 2 năm 1963. 

Mùa Hè 1963, phòng 45 chuẩn bị tái tiếp tế cho điệp viên Ares, họ hy vọng cũng sẽ thành công như năm trước. Ngày 11 tháng 8, tàu rời Ðà Nẵng. 2 hôm sau đến vịnh Hạ Long, 6 người trên tàu xuống xuồng cao su bơi xuồng vào bờ biển. Họ biến mất không quay trở lại, phần còn lại trên tàu hốt hoảng khi trông thấy tàu tuần tiễu Bắc Việt xuất hiện, họ dông một mạch tuốt về Ðà Nẵng. Một lần nữa điệp viên Ares bị nghi ngờ. Cơ quan CIA và phòng 45 đã bắt đầu phác họa kế hoạch xâm nhập miền Bắc bằng phương tiện thả dù từ năm 1961.

Thiếu úy Lò Ngân Dung, một sĩ quan gốc người dân tộc Thổ vùng Lao Cai Bắc Việt bí danh Jacques được phép tuyển mộ biệt kích lấy ra từ liên đoàn Quan Sát số 1. Ðơn vị này gồm đa số quân nhân quê quán nơi miền Bắc, những quân nhân sắc tộc Tày, Mường, Nùng tình nguyện từ những binh chủng thuộc QL/VNCH. Jacques lập toán đầu tiên gồm 3 người Mường và một người Nùng. 4 quân nhân thiểu số được đưa về sống nơi nhà an toàn trong Saigon. Họ được huấn luyện dùng máy truyền tin. Họ đã có bằng nhảy dù và tác chiến trong rừng từ liên đoàn Quan Sát số 1. Không như điệp viên Ares, phải xâm nhập vào xã hội miền Bắc, 4 quân nhân Biệt Kích được huấn luyện sống biệt lập trong rừng núi. Sau 3 tháng họ thụ huấn xongchương trình huấn luyện. Khi toán biệt kích đầu tiên đã sẵn sàng, cơ quan CIA phải quyết định tìm phương tiện hàng không để thả dù toán biệt kích xuống miền Bắc. Phương thức này đòi hỏi sự bảo đảm và chối cãi được.

Trước đây CIA đã xử dụng nhiều loại phi cơ thả dù xuống Hoa Lục. Hãng hàng không của CIA là Air America đã được biết đến về những hoạt động trên đất Ai Lao nên không thể dùng được (địch đã biết). Chỉ còn lại những phi công nam Việt Nam trong Không Lực VNCH có đủ khả năng để bay. Phi đoàn này cũng phải được ngụy trang để có thể chối cãi. Cơ quan CIA dựng lên hãng hàng không liên doanh Delaware Corporation và Việt Nam lấy tên là Việt Nam Không Vận (VIAT). Họ chỉ có một chiếc phi cơ vận tải C47 không có phù hiệu đơn vị. Về phi công, CIA tìm đến Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy trưởng căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt. Ông Kỳ tuyển mộ phi công tình nguyện từ 2 phi đoàn vận tải. Phi đoàn mới do chính ông ta chỉ huy mang mật hiệu là Haylift. Những phi công trong đơn vị mới này đòi hỏi phải bay những phi vụ thả dù đêm, bay với cao độ thấp đến địa điểm thả dù. Sau thời gian huấn luyện, chỉ còn lại phi hành đoàn 5 người do Thiếu tá Kỳ chỉ huy và phi hành đoàn thứ hai (dự bị) do Trung úy Phan Thanh Vân chỉ huy. Toán biệt kích có bí danh Castor dựa trong thần thoại Hy Lạp là vị thần đã giúp đỡ Hercules. Thêm một sự trùng hợp khác, Castor là tên cuộc hành quân trong năm 1953 quân Pháp nhảy dù xuống Ðiện Biên Phủ. Toán Castor sẽ phải hoạt động trong một hoàn cảnh khó khăn.
Sau khi khám phá ra chiếc xuồng của điệp viên Ares trong tháng Hai, Hà Nội đã để ý. Ngày 1 tháng 3, đảng cộng sản Việt Nam bí mật ban hành lịnh tăng cường cho lực lượng an ninh chống điệp viên xâm nhập. Toán Castor dự trù sẽ lên đường ngày 27 tháng 5, trăng tròn, thời tiết lý tưởng. Không như đơn vị Biệt Hải, xâm nhập vào những đêm không trăng. Các phi công cần ánh sáng mặt trăng để bay, thường chỉ có 4 đêm trong một tháng. Các quân nhân biệt kích cũng cần một độ sáng để điều khiển dù xuống bãi đáp.

Như đã chuẩn bị, 4 biệt kích quân trong toán Castor, lên chiếc C47 không phù hiệu đậu trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Người ngồi ghế lái phi cơ chính là Thiếu tá Kỳ, tất cả phi hành đoàn đều không đeo phù hiệu, không mang theo tất cả mọi thứ giấy tờ. Trường hợp bị rớt trên miền Bắc, vỏ bọc ngoài của họ là thường dân đi buôn lậu. Mỗi người đem theo 100 đô la đề phòng trường hợp cần tẩu thoát.
Chiếc phi cơ chở toán Castor ghé Ðà Nẵng lấy thêm nhiên liệu. Ðúng 10 giờ đêm, ông Kỳ cất cánh bay ra vịnh Bắc Bộ (Tonkin) về hướng tỉnh Ninh Bình. Sau đó bay theo hướng tây bắc qua Hòa Bình rồi đến Sơn La. Băng qua sông Ðà, dưới là ngọn đồi 828. Ông Kỳ bật đèn xanh, toán thả dù đẩy thùng đồ tiếp vận ra phía cửa sau, toán biệt kích Castor nhẩy theo. Chiếc C47 vòng lại và hướng về miền nam.
Trên đồi 885, trung sĩ Hà Văn Chấp trưởng toán Castor, tháo dù và tập họp toán viên. Họ xuống ngọn đồi cách một làng gần đó chừng 1 cây số. 9 cây số về hướng nam là sông Ðà, thêm 10 cây số nữa là đường số 6. Ðường 6 là một con đường chính, băng qua các tỉnh lân cận xuống tây nam đến thị trấn Sầm Nứa trên đất Lào. Chánh quyền của tổng thống Kennedy tin rằng Sầm Nứa là đất dụng võ của quân cộng sản. Toán Castor sẽ cung cấp tin tức về sự chuyển quân của địch trên đường số 6, đó là nhiệm vụ chính của toán Castor.

Khi toán Castor nhẩy xuống đồi 885, dân làng gần đó nghe tiếng động cơ phi cơ và báo cáo cho lực lượng Công An Vũ Trang Nhân Dân. Sáng ngày 28, họ đã đoán được địa điểm nhẩy dù của toán biệt kích đêm qua. Công an đến bao vây xung quanh đồi 885 và hôm sau họ bắt được 4 biệt kích trong toán Castor.
Phòng 45 vẫn chưa hay chuyện xẩy ra cho toán Castor, tiếp tục chương trình thả thêm những toán biệt kích khác. Ngày 2 tháng 6, toán thứ hai Echo gồm 3 người phát xuất từ Ðà Nẵng trên chiếc VIAT C47 bay ra Bắc. Chiếc phi cơ vòng qua vĩ tuyến 17, vào đến không phận tỉnh Quảng Bình. Toán Echo nhảy dù xuống vùng rừng núi nơi phía bắc làng Trúc chừng 5 cây số. Không còn gì xui hơn, khi toán biệt kích ra khỏi phi cơ đúng vào lúc hai làng ở phía dưới đang có những buổi hội thảo. Nghe tiếng máy bay, họ ùa ra xem, nhìn rõ chiếc C47 trên bầu trời sáng trăng. Tiếng đồng hồ sau, địch đã tổ chức xong cuộc truy kích gồm cả chó săn, công an và một đại đội lính địa phương. 

Chuyện rủi ro đến với toán Echo ngay từ lúc đầu. Một biệt kích bị trôi dạt đi chừng 3 cây số vướng trên một rừng cây, anh ta cắt dây dù, rơi xuống gãy chưn. Hai người còn lại biết bị lộ, báo cáo về Saigon cho biết tình hình và định chạy về phía biên giới Việt Lào để thoát thân. Trước khi họ bắt đầu thực hiện ý định, địch đã bao vây khu rừng, cả 3 biệt kích quân bị bắt vào ngày hôm sau. 12 ngày sau, toán thứ ba Dido gồm 4 người sắc tộcThái Ðen rời Ðà Nẵng, mục tiêu hoạt động của họ là vùng dân tộc Thái Ðen. Lai Châu nằm về hướng tây bắc. Họ nhảy dù xuống gần đường số 6, khoảng giữa tỉnh lỵ và con đường đến làng Tuần Giao. Toán Dido sẽ dò thám xe cộ của địch đến Tuần Giao mà một nhánh sẽ đi về thung lũng Ðiện Biên Phủ và qua Lào. Vùng thung lũng do sư đoàn 316 đóng quân. Thiếu tá Kỳ từ vùng vịnh Bắc Bộ lái vòng theo những tỉnh cực bắc, thả truyền đơn trên không phận tỉnh Cao Bằng gần biên giới Hoa Việt. Ðến địa điểm thả dù trong tỉnh Lai Châu, 4 biệt kích quân toán Dido nhẩy ra và chiếc C47 theo lộ trình thả toán Castor trước đây quay trở về miền nam an toàn.

Trên bãi đáp 4 biệt kích tháo dù đem giấu rồi tập họp. Thùng đồ tiếp liệu của họ trong đó có quần áo, long thực, đạn dược, máy truyền tin trôi lạc mất, tìm không ra. Sau 3 tuần lễ bị đói, toán Dido đụng phải công an biên phòng trên đường di chuyển qua Lào, họ bị bắt gần biên giới. Ðến tuần lễ thứ hai trong tháng 7, Hà Nội đã nắm trong tay 3 toán biệt kích. Họ biết rõ, sau khi thả toán biệt kích, ít lâu sau phải thả dù tiếp tế cho biệt kích. Ðịch quân ép buộc hoặc thuyết phục hiệu thính viên biệt kích làm việc với họ báo cáo về Saigon là toán vẫn an toàn. Kết quả miền bắc lấy được đồ tiếp liệu cho các toán biệt kích bị bắt và tóm luôn những toán sẽ được thả trong tương lai.

Ðúng 12 giờ trưa ngày 29 tháng 6, hơn một tháng sau khi xâm nhập, toán Castor gởi đi bức điện văn đầu tiên, họ được Saigon khuyến khích và hứa sẽ thả dù tiếp tế trong vòng 4 ngày. Chiều ngày 1 tháng 7, đồ tiếp liệu được chất lên chiếc C47 bí mật trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Ðúng ra Thiếu tá Kỳ lái chuyến này, nhưng giờ chót ông giao trách nhiệm cho trung úy Phan Thanh Vân. Trên phi cơ có thêm 3 hạ sĩ quan thuộc liên đoàn Quan Sát số 1, đi theo phụ giúp việc đẩy thùng tiếp liệu ra khỏi phi cơ.

Chiều hôm đó, sau khi lấy thêm nhiên liệu trong phi trường ngoài Ðà Nẵng, chiếc C47 bay theo phi trình thả toán Castor và Dido. Trên bãi thả, công an vũ trang đã bao vây, đợi chuyến thả tiếp tế cho toán Castor. Nơi Hòn Ne cách bờ biển Ninh Bình chừng 6 cây số, công an, quân đội nghe tiếng động cơ máy bay. Chiếc C47 như thường lệ bay thấp để tránh radar, bị súng cao xạ từ Hòn Ne bắn lên trúng đạn và rớt xuống một bãi ruộng chừng 20 cây số trên đất liền.

Sau vụ bắn rơi chiếc C47, bắt sống 7 người trong đó có phi công Phan Thanh Vân, Hà Nội lỡ đã công bố trên đài phát thanh, báo chí nên không thể giấu giếm. Ít ra viên phi công hoặc cả 7 quân nhân biết rằng phi vụ của họ là tái tiếp tế cho toán biệt kích Castor. Nếu họ khai trước tòa án, Bắc Việt biết rằng có toán biệt kích hoạt động trong tỉnh Sơn La. Ðồng thời Saigon biết toán Castor đã bị bắt. Tuy nhiên Hà Nội dựng nên 1 chuyện khác, chỉ có 3 người bị đưa ra tòa án trong tháng 11, 4 quân nhân khác đã chết vì vết thương. Trước tòa cả ba nhận tội có liên quan đến vấn đề biệt kích... và trên đường đến tỉnh Hòa Bình chứ không phải Sơn La. Ðến cuối năm, CIA và Saigon vẫn tin rằng toán biệt kích Castor vẫn còn hoạt động hữu hiệu.

Trong Saigon, trung tá Tung cảm thấy hài lòng, chuẩn bị thả thêm biệt kích ra ngoài bắc.Bây giờ cơ quan CIA phải tìm phương tiện khác (chiếc C47 duy nhứt đã bị bắn rơi).Họ không thích loại phi cơ C47 với hai lý do, chiếc C47 tầm hoạt động ngắn do đó chiếc phi cơ phải bay thẳng đến mục tiêu. Thứ hai, phi cơ phải lấy thêm nhiên liệu ngoài Ðà Nẵng, biết đâu điệp viên Bắc Việt đã xâm nhập vào trong phi trường Ðà Nẵng? Cuối cùng họ chọn phi cơ C54 và huấn luyện hoa tiêu Việt Nam, các phi công tình nguyện hoàn tất khóa huấn luyện đầu năm 1962.

Phòng 45 chuẩn bị toán biệt kích Europa gồm 5 quân nhân sắc tộc Mường. Ngày 20 tháng 2 họ phát xuất từ phi trường Tân Sơn Nhứt do Trung tá Nguyễn Cao Kỳ lái, không ghé Ðà Nẵng như những phi vụ trước đây. Khi vào đến không phận tỉnh Hòa Bình nơi có nhiều dân tộc Mường, đến bãi thả dù, ông Kỳ bật đèn xanh và 5 biệt kích Mường biết mất vào màn đêm.

Ðịa điểm thả toán biệt kích Europa trong quận Tân Lạc là điều không nên (bad choice).Ðường số 6 chạy xuyên qua giữa quận, có nhiều đường nhỏ đi vào và nhiều làng mạc. Một lần nữa toán biệt kích bị lộ lúc đang nhẩy dù xuống bãi đáp. Sáng hôm sau, công an vũ trang phối hợp với tự vệ, khóa sinh đang thụ huấn biên phòng, truy lùng toán biệt kích. Tất cả bị bắt ngày hôm sau.
Hiệu thính viên toán Europa bị ép buộc gửi báo cáo về Saigon, toán đã đến mục tiêu an toàn. Phòng 45 phấn khởi, chuẩn bị tái tiếp tế cho toán Castor, lúc đó đã nằm vùng gần 10 tháng. Họ hy vọng rằng với loại phi cơ C54 mới, lần này sẽ gặp may. Chuyến đi này do Ðại úy Hội lái, chiếc C54 bí mật chở đồ tiếp liệu cất cánh từ Tân Sơn Nhứt bay đi Sơn La. Trước khi đến mục tiêu, chuyện xui xẻo lại xảy ra, gặp một cơn dông lớn, chiếc phi cơ đâm vào núi.

Trong Saigon, mấy tay Xiạ (CIA) trong ban kế hoạch hết sức mất mặt, mất 2 phi cơ trong vòng 7 tháng. Ðiều hơi mừng là điện văn bắt được của Hà Nội cho biết do lỗi lầm của viên phi công gây nên tai nạn và họ không để ý đến chuyện mất mát đó (?). Cũng vì vậy ban tham mưu trong Saigon vẫn còn tin tưởng nơi toán biệt kích Castor (vẫn còn hoạt động).

Cơ quan CIA lại phải tìm chiếc phi cơ khác. Lần này họ liên lạc với Ðài Loan với kinh nghiệm thả điệp viên xâm nhập Hoa Lục từ năm 1952. Nhiều hoa tiêu Ðài Loan tình nguyện bay những phi vụ bí mật xâm nhập Bắc Việt. CIA cũng sắp xếp cho phi công từ Air America (CIA) qua Ðài Loan huấn luyện những phi công tình nguyện về kỹ thuật bay ở cao độ thấp. Trong khi huấn luyện cho phi công Ðài Loan, CIA và phòng 45 chuẩn bị cho toán biệt kích kế tiếp. Toán mới này có mật hiệu là Atlas gồm 4 người quê quán trong tỉnh Nghệ An, cả 4 đượcđưa vào trú trong nhà an toàn nơi Saigon để huấn luyện.Toán Atlas có nhiệm vụ xâm nhập tỉnh Nghệ An gần đường số 7. 

Cũng như toán Echo trước đây, họ sẽ dò thám mức độ di chuyển của địch qua đất Lào và bắt liên lạc với 2 linh mục công giáo, nhờ giúp đỡ che chở.
Trong tuần lễ đầu tiên trong tháng 3 năm 1962, toán Atlas được đưa qua Thái Lan. Các phi công Tàu vẫn chưa xong khóa huấn luyện nên CIA dùng trực thăng của Air America đưa toán biệt kích đến biên giới Lào và Nghệ An và toán sẽ di chuyển bộ đến mục tiêu.Xế chiều ngày 12 tháng 3, toán Atlas lên đường cùng với đồ tiếp liệu trên 2 chiếc trực thăng H34, thêm 1 chiếc hộ tống.

Theo trực thăng hướng dẫn, trực thăng thả toán biệt kích lúc trời sắp tối trên một ngọn núi sát biên giới. Toán Atlas mặc bà ba đen, võ trang tiểu liên Stern (theo tiêu chuẩn CIA, dùng đồ không phải của Hoa Kỳ). Sau 3 ngày di chuyển về hướng đông (Nghệ An, Việt Nam) không gặp trở ngại, đến ngày thứ tư họ gặp một trẻ em. Theo lời một toán viên kể lại: "Ðứa bé biến vào rừng nhanh như chớp!" Sau đó đơn vị an ninh đến bao vây toán Atlas, một người trúng đạn chết. Trên đường chạy trở lại qua đất Lào, thêm một người nữa dẫm phải mìn chết. Còn lại 2 người, gọi máy báo cáo không được vì thời tiết xấu, cuối cùng cả 2 bị bắt.

Rút kinh nghiệm, CIA tiếp tục thả biệt kích ra ngoài bắc. Lần này dùng phi cơ C46 phát xuất từ căn cứ không quân Takhli bênThái Lan, họ được Ðại úy Ron Sutphine cùng với Ðại úy M.D. 'Doc' Johnson bay trước hướng dẫn vào bãi thả dù. Toán kế tiếp là toán Remus gồm 6 người sắc tộc Thái Ðen. Cũng như toán Dido gồm những quân nhân sắc tộc Thái Ðen trước đây, toán Remus sẽ nhẩy xuống vùng thung lũng Ðiện Biên Phủ trong tỉnh Lai Châu. Không phải vì là căn cứ quân sự lớn nhứt trong vùng tây bắc, cùng với sự hiện diện của sư đoàn 316, ngoài ra sư đoàn này thường có những hoạt động trên đất Lào.

Toán Remus đề phòng bị lộ, sẽ nhảy dù xuống khu vực gần biên giới rồi xâm nhập bằng đường bộ đến mục tiêu. Ngày 16 tháng tư, 6 biệt kích nhảy dù xuống cách Ðiện Biên Phủ 15 cây số về hướng tây bắc an toàn. Toán Remus gom lại và 5 hôm sau, báo cáo về Saigon họ bắt đầu vượt biên giới xâm nhập vào miền bắc. Sau khi thả toán Remus thành công, phòng 45 quay trở lại làm việc với toán đầu tiên Castor. Cuối tháng Tư, toán Castor được lệnh di chuyển từ sông Ðà về phía nam đến quận Mộc Châu. Tại đó toán sẽ nhận đồ tiếp liệu mới cùng với toán Tourbillon xuống tăng cường. Không như những toán trước đây, toán Toubillon gồm 4 sắc tộc khác nhau trong đó ít nhứt 2 người không phải sắc dân thiểu số. Nhiệm vụ cho toán Tourbillon cũng khác, không phải thâu thập tin tức mà đột kích, tấn công chớp nhoáng phá hoại.

Tháng 5 trước đó, tổng thống Kennedy đã nhiều lần ra lịnh cho các giới chức lãnh đạo Hoa Kỳ, cho các toán biệt kích hoạt động nơi miền Bắc thêm công tác phá hoại. Tình hình bên Lào trở nên bết, thành phố Nam Tha bị quân cộng sản Pathet Lào chiếm với sự hổ trợ của vài tiểu đoàn Bắc Việt.
Toán Tourbillon sẽ nhảy dù xuống những ngọn đồi nơi phía bắc quận Mộc Châu rồi di chuyển 6 cây số về hướng nam tới đường số 6. Toán biệt kích sẽ phá sập mấy cây cầu trên đường số 6, ngăn chặn đường tiếp vận của Bắc Việt từ Ðiện Biên Phủ qua Lào. Ðiều này sẽ làm cản trở sự giúp đỡ quân cộng sản Pathet Lào, áp lực bên Lào sẽ nhẹ đi. Trước đây Lansdale đã phát biểu, nằm vùng trong một xã hội quản chế nghiêm khắc đã khó, chuyện phá hoại kể như quá khó khăn cho những quân nhân biệt kích trẻ.

Phòng 45 tiếp tục tuyển mộ tình nguyện quân trong liên đoàn QuanSát số 1 bấy giờ đã đổi tên thành liên đoàn 77. Bảy người được chọn, tất cả đã qua lớp huấn luyện nhảy dù và biệt động, người hiệu thính viên cũng đã có kinh nghiệm vượt biên qua Lào 2 lần.Ðến tháng 5,quân đội Hoàng Gia Ai Lao đang bại trận,trước khi quân cộng sản tấn công Nam Tha. Toán Tourbillon ra đi 4 lần đều phải quay trở lại vì lý do thời tiết, vẫn nằm chờ trong phi trườngTân Sơn Nhứt khi NamTha thất thủ ngày 9 tháng 5. Một tuần sau toán Tourbillon ra đi, trên máy bay do phi công Ðài Loan lái, những phi công này bị bắt buộc để lại tất cả giấy tờ tùy thân trước khi lên trực thăng.

Tới điểm hẹn với toán Castor, các biệt kích Tourbillon nhẩy dù xuống không biết ở dưới ngoài toán Castor còn có thêm ít nhất một đại đội công an vũ trang cùng với chó săn. Hôm đó gió thổi mạnh, các biệt kích quân trôi dạt đi, đơn vị công an đuổi theo. Người toán phó bị vướng trên một ngọn cây và bị bắn chết trên cây, các biệt kích quân khác chạy tìm lối thoát khi xuống tới đất, 2 hôm sau tất cả đều bị bắt.

Nhơn viên truyền tin bị cô lập ngay tức khắc, Bắc Việt ép buộc phải báo cáo xuống mục tiêu an toàn. Phòng 45 tin tưởng rằng bãi đáp đã được toán Castor an ninh nên rất tin, mặc dầu sau 11 ngày bị điều tra, ép buộc, người tín hiệu viên mới gửi đi bản báo cáo đầu tiên. 4 hôm sau khi toán Tourbillon nhẩy dù xuống Mộc Châu, toán biệt kích kế tiếp mật hiệu Eros lên phi cơ C54 trong phi trường Tân Sơn Nhứt.Chuyến đi này, phi công bay theo đường vòng qua đất Lào, xâm nhập không
phận tỉnh Thanh Hóa thả toán biệt kích chớp nhoáng rồi bay về. Vấn đề xẩy ra quá nhanh, quân Bắc Việt chưa đề phòng, chuyến xâm nhập coi như thành công. Xuống tới đất, toán Eros gom lại an toàn. Họ gồm 5 người thuộc sắc tộc Mường và Thái Ðỏ, cả hai sắc dân thiểu số đều sống nơi phía tây tỉnh Thanh Hóa. Toán này có điều lạ, trong 3 người Mường, 2 người là anh em, người thứ ba là anh em họ. 2 người Thái là chú cháu.Phòng 45 hy vọng sợi dây liên hệ sẽ làm toán gắn bó và họ dễ móc nối những người cùng sắc tộc với họ.

Sau 3 tuần lễ trong rừng, vài người Thái trông thấy toán biệt kích. Hốt hoảng, toán Eros chạy lên hướng bắc. Mấy người Thái quay trở lại tìm thấy mấy lon đồ hộp lạ, không phải sản xuất ở miền Bắc. Họ bèn báo cáo chuyện xảy ra lên công an địa phương. Trong khi đó toán Eros trên đường chạy đã gần hết lương thực, Saigon trả lời vì thời tiết xấu, chưa tiếp tế được. Các biệt kích quân phải tìm đồ ăn cho họ. Ngày 2 tháng 8, một lần nữa họ bị dân làng phát giác và cuộc truy lùng tiếp diễn. Lần này phòng 45 nhận được công điện khẩn của toán Eros rằng đang bị truy lùng. Ngày 29 tháng 9, toán biệt kích bị bao vây, một người trúng đạn chết, một bị bắt. 3 người kia chạy thoát nhập vào mấy người Lào đi săn bắn. Họ bị phản bội, bị bắt sống giao nộp cho quân Bắc Việt.

Kenneth Conboy, Dale Andradé, United Press
Bạch Hổ

Không có nhận xét nào: