Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 20 tháng 1, 2015

Ông "Lộc Vàng"

Ông Lộc

Ông Lộc "Vàng"
Ông Lộc Vàng tên thật là Nguyễn Văn Lộc, sinh năm 1945 là một trong những người mê nhạc vàng nổi tiếng tại Hà Nội.Trước năm 1954, đâu đâu cũng nghe người ta hát nhạc vàng (đó là dòng tân nhạc nay gọi là tiền chiến. Hồi đó vì vẻ đẹp sang trọng và đáng quý nên người ta so sánh nó quý như vàng, chứ không phải nhạc vàng hiểu theo nghĩa sến, héo úa sau này) nó ngấm vào ông từ khi nào không biết.
Cũng vì trót yêu, trót thèm được phiêu du cùng cái cảm xúc thật của mình mà bất chấp lệnh cấm, ông Lộc cùng một nhóm bạn, trong đó có ông Phan Thắng Toán (Toán “Xồm”) và Nguyễn Văn Đắc thường xuyên tụ họp tại nhà, cùng hát với nhau những bài hát của Văn Cao, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Đặng Thế Phong, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng…
Chúng tôi gặp gỡ, đóng cửa hát cho nhau nghe thôi chứ cũng chẳng phản đối chính sách nhà nước gì cả. Chúng tôi chỉ thấy dòng nhạc này hay quá, trữ tình và đầy tình người nên muốn lưu giữ lại và đóng cửa hát cho nhau nghe.” “Người này đồn người kia. Công an bắt bạn tôi và nói rằng vì chúng tôi thích những bài nhạc ấy nên chúng tôi phá hoại nền văn hóa CNXH và tuyên tuyền văn hóa trụy lạc của chủ nghĩa đế quốc. Và họ đã xét xử bọn tôi”.
Ngày 27 tháng 3 năm 1968 nhóm nhạc của ông Lộc Vàng bị bắt. Vụ án “Phan Thắng Toán và đồng bọn về tội tuyên truyền văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc” đưa ra xét xử, ông Toán “Xồm” bị tuyên 15 năm tù giam, ông Đắc bị 12 năm tù giam và ông Lộc Vàng bị 10 năm tù giam, để rồi khi ra trở về cuộc sống tự do họ vẫn không khỏi thắc mắc vì sao.
Nghĩ đến cuộc đời của mình sao mà cay đắng chua chát quá. Mình có làm cái gì đâu, chỉ yêu thích âm nhạc thôi mà bị tù đày. Sau khi dòng nhạc này được khôi phục lại, những bản nhạc này được hát lên ti vi. Khi nghe người ta hát mà mình ngồi ứa nước mắt ra”.
Ra tù, nhà cửa ông Toán “Xồm” cũng tan nát. Ông lang thang trên đường phố sống vào tình thương của người qua lại. Vào quán ông Lộc Vàng, người ta bắt gặp một bức ảnh một người mặc áo sơ mi trắng ngồi châm thuốc cho một người hành khất. Người mặc áo sơ mi trắng là ông Lộc và người hành khất không ai khác chính là ông Toán Xồm (ảnh dưới). Một đêm năm 1994, người ta nhìn thấy ông Toán nằm gục chết, đói lả, cô đơn, trên hè phố.
Nhưng năm 90 ông mở quán cà phê nhạc, chỉ để có chỗ cho ông thỏa niềm đam mê, vì thế tài sản của ông cứ dần “đội nón ra đi” để bù đắp vào sự thua lỗ của quán: “Lỗ nhiều tôi bán nhà to mua nhà nhỏ, từ nội thành bay ra ngoại thành. Khi chưa mở quán tôi có ngôi nhà 50 m2 ở phố Kim Mã, sau bốn năm tôi chỉ còn 50m2 đất, ở tít Cầu Diễn”. Bây giờ, ông sống luôn ở quán.
Vợ Lộc Vàng đã mất hơn 10 năm nay nhưng mỗi khi thăng hoa trên sân khấu ông lại khóc. “Tôi chỉ ước vợ tôi sống lại, ở bên cạnh tôi, nghe tôi hát. Ngày xưa, tôi đi hát vợ tôi bế thằng lớn theo sau. Mấy ông bạn bảo: Trời rét, để con ở nhà mang con theo làm gì? Vợ tôi trả lời: Em không đi nghe hát đâu mà để nếu chồng em có bị bắt lần nữa, em còn biết đường đi tiếp tế”.
Bà ra đi để lại cho ông hai người con và một tình yêu chưa bao giờ nguôi
ngoai: “Tôi biết cô ấy từ năm 17 tuổi, chơi thân với nhau, rồi yêu nhau sau đó. Ngoài 20 tuổi tôi phải vào tù, 31 tuổi ra tù, thiên hạ dị nghị, kinh sợ tôi hơn một gã tù lưu manh, chỉ có cô ấy không ngại, vẫn yêu, vẫn thương tôi”. Vì người mình yêu, bà bỏ nghề diễn viên làm nghề bán đậu phụ ngoài vỉa hè. Suốt quãng đời bên nhau chưa một lần vợLộc Vàng trách cứ ông về tình yêu với dòng nhạc mang đến nhiều hệ lụy.
Ngày nay, góc quán nhỏ của nghệ sĩ Lộc Vàng số 17A đường ven hồ Tây vẫn vang lên tiếng hát. Tiếng hát mà ông đã đánh đổi cả cuộc đời mình để giữ gìn, nâng niu.
Lộc
Lộc “vàng”(bên trái) châm thuốc người bạn tri kỷ Toán “xồm” trên hè
phố Hà Nội năm 1994.
Nhạc vàng là gì? 
Nhạc vàng là tên gọi dòng tân nhạc Việt Nam ra đời trong thập niên 1960 với lời ca trữ tình bình dân được viết trên những giai điệu nhẹnhàng (bolero, rumba, tango, chachacha, boston, twist, valse, ballade...). Đặc trưng của dòng nhạc này là lời ca giản dị, câu nhạc dễ nghe, chất chứa nỗi niềm của những cá nhân bình thường.
Đôi chút lịch sử:
Âm nhạc tình cảm Việt Nam, đặc trưng là tân nhạc, từ những năm đầu thập niên 1930 là thời kỳ phôi thai khi mà người có khiếu nhạc đi tìm nhạc ngữ mới. Do phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp, các nhạc sĩ tiền chiến chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây. Giai đoạn ban sơ này đã có một số nhạc sĩ cải lương bắt đầu soạn các nhạc phẩm, thường được gọi là "bài tây theođiệu ta", hay "nhạc xứ người lời xứ ta". Người tiêu biểu cho số đó là nghệ sĩ cải lương Tư Chơi, tức Huỳnh Thủ Trung. Ông đã viết các bài Tiếng nhạn trong sương, Hòa duyên và soạn lời Việt cho một vài ca khúc châu Âu thịnh hành khi đó để sử dụng trong các vở sân khấu như: Marinella trong vở Phũ phàng, Pouet Pouet trong Tiếng nói trái tim, Tango mystérieux trong Đóa hoa rừng, La Madelon trong Giọt lệ chung tình... Trong giới thanh niên yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát tình lãng mạn của Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... mà giới thưởng ngoạn âm nhạc yêu thích. Những nghệ sĩ sân khấu như Ái Liên, Kim Thoa đã được các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka mới thu âm các bài ta theo điệu tây. Khoảng thời gian từ 1935 tới 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C'est à Capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella... mà phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto và của Mỹ như Goodbye Hawaii, South of The Border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác. Ca sĩ Tino Rossi đặc biệt được giới trẻ yêu thích.
Phôi thai từ năm 1930 đến 1940, những tác phẩm mới do các nhạc sĩ như Đinh Nhu, Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương,... sáng tác, điển hình như Bẽ bàng (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937), Trên sông Hương (1936), Xuân năm xưa (1936).
Giai đoạn thành hình và phát triển (1940-1954)
Thời kỳ mà sự sáng tác nhạc được ngghi nhận tại Sài Gòn có nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên là người Việt duy nhất tham gia hội Hiếu nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và được cảm tình mến mộ của báo chí và radio. Ông phổ nhạc từ thơ của người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của mình. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Và rồi chính thi sĩ Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới này là "âm nhạc cải cách" (musique renovée), tức "tân nhạc" như chúng ta hiểu ngày nay.
Vào năm 1945 tân nhạc Việt Nam bắt đầu có sự phân tách trong giới thanh niên. Đa số các nhạc sĩ rời bỏ vùng đô thị để tham gia kháng chiến. Một số vẫn ở lại trong vùng kiểm soát của người Pháp, cả hai nhóm có những sáng tác theo tình tiết cảm hứng tùy thời cuộc và hoàn cảnh. Ví dụ như 
Trường ca Sông Lô, Sơn nữ ca, Dư âm, Nụ cười sơn cước, Tình quê hương, Bà mẹ Gio Linh, Bên cầu biên giới,... hình thành trong lúc kháng chiến. 
Còn ở các vùng đô thị thuộc kiểm soát của người Pháp, những nhạc sĩ vẫntu75 do sáng tác nhạc lãng mạn như Văn Giảng với Ai về sông Tương, Lâm Tuyền với Tiếng thời gian, Văn Phụng với Mơ khúc tương phùng... Lê Thương vào miền Nam viết những bài nhạc hài hước, trào phúng Hòa bình 48, Liên Hiệp Quốc. Bài Tiếng thùy dương, Hòa bình 48 của Lê Thương, Trách người đi của Đan Trường...
Tóm lược cho giai đoạn nhạc tiền chiến từ sau sự thành công của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên và dòng nhạc tiến chiến đã kéo dài tới năm 1954 cho cả 2 miền và rồi sau 1954 âm nhạc tình cảm cất cánh phát triển qui mô tại miền Nam.
Giai đoạn nhạc tiền chiến đã lót đường cho sự hình thành loại nhạc tình cảm dạt dào, nhạc trữ tình bị người VNCS gọi là "Nhạc vàng" đã hiện diện và phát triển mạnh mẽ nhờquyền tự do sáng tác dưới thời Việt Nam Cộng Hòa.
Danh từ "nhạc vàng" hay nhạc tình cảm, bộc lộ tính yêu thương tự nhiên của con người, xuất hiện tại miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975, và nhạc Việt được các nhạc sĩ quốc gia tại hải ngoại sáng tác sau 1975.
Vào cuối thập niên 60 tại miền Nam nhạc sĩ Phó Quốc Lân cho ra mắt ban "Nhạc Vàng" thuộc đài truyền hình Sài Gòn THVN để trình tấu định kỳ. Ông là tác giả những bản nhạc như "Xuân ly hương", "Hương lúa miền Nam", "Anh tôi" (nói về người lính Cộng Hòa), "Mong ngày anh về", "Vui khúc tương phùng". Những hãng phát hành băng và đĩa nhạc cũng cho ra nhiều sản phẩm với danh hiệu "nhạc vàng" như hãng Hương Giang, hãng Dạ Lan của nhạc sĩ Anh Bằng, và hãng Shotguns của nhạc sĩ Ngọc Chánh. Nhạc vàng sau đó được hiểu là thể loại nhạc tình êm dịu có tình yêu quê hương, tình yêu lứa đôi hoặc có nỗi lòng riêng tư của lính chiến mặc dù đang gánh trách nhiệm với đại cuộc. Cho đến năm 1975, dòng nhạc này phổ biến ở Miền Nam.
"Nhạc màu vàng" ở phía Bắc vĩ tuyến 17
Ở miền Bắc nhạc tình cảm cói từ những năm 1940 đến 1954 ơ vuy2ng người Pháp kiểm soát, sau đó miền Bắc do ác đảng Việt Nam Cộng Sản kềm chế thì từ 1954 đến 1990, nhạc tình cảm được phổ biến phải có sự chấp thuận của nhà cầm quyền. Theo chữ Tàu, hay trong Hán ngữ nhạc màu vàng (黃色音樂, Hán Việt: hoàng sắc âm nhạc) được hiểu là nhạc tình thời thượng của thập niên 1930 phổ biến ở Thượng Hải. "Nhạc màu vàng" theo đó bị coi "là thứ âm nhạc lãng mạn bi quan, hoặc khêu gợi tình dục và những khát vọng thấp kém của xác thịt". Phong trào bài trừ "nhạc màu vàng" ở Trung Cộng thời Mao Trạch Đông, sự cấm đoán cũng lây lan sang miền Bắc Việt Nam như trong đời sống thường nhật chế độ VNCS nghiêm ngặt cấm kỵ, chống báng nhạc "ủy mị", hay nhạc "phản động" hoặc "đồi trụy" vì "ru ngủ" nhân dân, vì thiếu đi tính chất "đấu tranh cách mạng". Cũng vì vậy mà dòng nhạc tiền chiến thịnh hành trước năm 1954 cũng phải bị câm lặng, không được phát triển tại miền Bắc như ở miền Nam tự do.
Nhạc vàng sau năm 1975 vào thời kỳ cấm đoán
Sau năm 1975 danh từ "nhạc vàng" được dùng cho tất cả những tác phẩm âm nhạc ở miền Nam ra đời trong thời kỳ đất nước chia đôi và dòng nhạc này bị cấm[4][6] trên các phương tiện truyền thông. Cũng như những đề mục văn hóa khác ở miền Nam, âm nhạc Miền Nam bị gán thêm cái nhãn hiệu chính trị là "nhạc phản động" hoặc "đồi trụy" vì "ru ngủ", không thể hiện được con người xã hội chủ nghĩa lý tưởng. Kết quả là nhiều sản phẩm văn hóa trong đó có băng cassette, đĩa nhạc cùng những bài vở ghi chép nhạc vàng bị đốt.[6] Cũng theo nghĩa đó thì đối lập với nhạc vàng là nhạc đỏ tức dòng nhạc nêu cao chủ nghĩa cộng sản, mục tiêu giải phóng đất nước, đấu tranh giai cấp và ca ngợi tinh thần lao động. Dù vậy nhạc vàng vẫn được nhiều người ưa thích cả trong Nam lẫn ngoài Bắc vì nói lên được tình cảm cá nhân không gò buộc vào tập thể. "Nhạc vàng" do đó hàm ý vàng của quý kim mà người nghe phải lén lút để nghe vì nó cho người nghe cái tâm trạng "riêng" của con người trong khi xã hội chỉ cho phép cái ý thức hệ chung của tập thể. Dù phải nghe trộm qua những buổi phát thanh của VOA hoặc BBC từ hải ngoại, người trong nước vẫn cố gắng tìm nghe bất chấp hình phạt của luật pháp. Có thể nói nhạc vàng vẫn tiếp tục chiếm địa vị quan trọng trên thị trường âm nhạc và được dân chúng ưa chuộng hơn.
Đối với người Việt hải ngoại thì nhạc vàng trở thành một dòng nhạc chủ lực trong thị hiếu người nghe nhạc.
Các nhạc sĩ nổi tiếng của khuynh hướng nhạc vàng có Hoàng Thi Thơ, Anh Bằng, Lam Phương, Lê Dinh, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh, Trường Sa, Minh Kỳ,v.v... và các ca sĩ như Thanh Tuyền, Hùng Cường, Nhật Trường, Duy Khánh, Thanh Thúy, Thanh Lan, v.v...
(Hoàng Nam viết tổng hợp)

Không có nhận xét nào: