Nền kinh tế Mỹ phục hồi khả quan
Dấu hiệu phục hồi khá hơn của nền kinh tế lớn nhất thế giới được phản ánh rõ qua sự hoạt động nhộn nhịp chưa từng có trong hơn năm năm qua của thị trường ôtô và số lượng đơn đặt hàng gia tăng từ các nhà máy, công xưởng.
Báo cáo công bố ngày 2/7 của công ty phân tích dữ liệu CoreLogic cho biết trong tháng Sáu vừa qua, doanh số bán ra của các dòng xe mới tại thị trường Mỹ tăng tới 8% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng mạnh nhất trong một tháng của loại hàng hóa lâu bền này kể từ cuộc khủng hoảng 2007-2009.
Với đà tăng trong tháng Sáu, các chuyên gia dự báo lượng ôtô các loại bán ra tại thị trường Mỹ trong năm nay có thể đạt xấp xỉ 16 triệu chiếc. Đây sẽ là số lượng xe bán ra cao nhất tại thị trường Mỹ kể từ tháng 11/2007.
Cả ba "đại gia" ôtô của Mỹ là Ford Motor, General Motors và Chrysler đều có lượng xe bán ra tăng mạnh. Các loại xe do hãng Ford Motor chế tạo được bán ra trong tháng tăng 13%. Đây là mức tăng ngoạn mục nhất trong vòng sáu năm qua, trong đó riêng dòng xe tải Ford-F tăng tới 19,9%.
Doanh số bán ra của các dòng xe do Chrysler chế tạo tăng 8% và General Motor tăng 6%. Xe tải Ram của Chrysler tăng 23% trong khi dòng xe Dodge Dart tăng tới 39%. Tổng lượng xe của tất cả các hãng, cả nội địa và nước ngoài, bán ra tại thị trường Mỹ trong tháng trước đạt 1,25 triệu chiếc.
Giá nhà tại thị trường Mỹ trong tháng Năm vừa qua tăng 2,6% so với tháng trước đó và tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2012. Đây là mức tăng mạnh nhất tại thị trường nhà đất Mỹ kể từ tháng 2/2006.
Theo báo cáo của Bộ Thương mại Mỹ, số lượng đơn đặt hàng từ các nhà máy của Mỹ trong tháng 5/2013 tăng 2,1% so với mức tăng 1,3% trong tháng trước đó. Riêng đơn đặt hàng mua các sản phẩm lâu bền tăng 3,7%, chứng tỏ mức chi tiêu gia tăng của người tiêu dùng Mỹ, yếu tố đóng góp tới hơn 70% vào các hoạt động của nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Với đà này, chuyên gia kinh tế thuộc ngân hàng JPMorgan, ông Daniel Silver dự báo tốc độ tăng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ trong quý 2/2013 có thể đạt 2% so với mức tăng 1,8% trong quý đầu tiên./.
The US Economic Growth & Outlook in 2015:
Mỹ lấy lại ngôi vị đầu tàu tăng trưởng của thế giới
Sau 15 năm bị Trung Quốc và các nước mới nổi vượt mặt, Mỹ đã quay trở lại với tư cách động lực chính của kinh tế toàn cầu.
Theo các nhà kinh tế học tại JPMorgan Chase, Deutsche Bank và BNP Paribas, nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ tăng trưởng ít nhất 3,2% năm nay - mạnh nhất từ năm 2005, nhờ thị trường việc làm hồi phục khiến tiêu dùng tăng lên. Đây sẽ là lần đầu tiên từ năm 1999 Mỹ không tăng trưởng dưới trung bình toàn cầu, theo số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
"Mỹ lại một lần nữa trở thành động cơ tăng trưởng toàn cầu. Nền kinh tế đang khởi sắc và trong trạng thái tốt nhất từ thập niên 90", Allen Sinai - CEO Decision Economics cho biết trên Bloomberg.
Tín hiệu lạc quan gần đây nhất là báo cáo việc làm tháng 12 của Bộ Lao động Mỹ. Theo công bố cuối tuần trước, Mỹ đã tạo ra 252.000 việc làm trong tháng cuối năm ngoái. Tỷ lệ thất nghiệp cũng xuống 5,6% - thấp nhất từ tháng 6/2008. Tăng trưởng việc làm ngành xây dựng đã tăng mạnh nhất gần một năm. Các nhà máy, công ty chăm sóc sức khỏe và dịch vụ doanh nghiệp cũng tiếp tục tạo thêm việc làm.
Khoảng 3 triệu người Mỹ nữa sẽ tìm được việc làm năm 2014, mạnh nhất 15 năm. Đây cũng là tín hiệu cho thấy các công ty đang lạc quan rằng nhu cầu tại Mỹ vẫn mạnh bất chấp thị trường bên ngoài suy yếu. Mỹ đang bứt phá so với phần còn lại của thế giới, do thành công hơn trong việc giải quyết sự dư thừa do vay nợ tràn lan đã đẩy toàn cầu vào cuộc suy thoái tồi tệ nhất từ thập niên 30. "Quá trình này được thực hiện tốt hơn nhiều tại Mỹ", Glenn Hubbard - cựu kinh tế trưởng tại Nhà Trắng cho biết trong hội nghị thường niên của Hiệp hội Các nhà kinh tế Mỹ hồi đầu tháng.
Tỷ lệ chậm thanh toán các khoản vay trả góp tiêu dùng tại Mỹ (sửa nhà, mua ôtô, dùng thẻ tín dụng) đã xuống thấp kỷ lục 1,51% trong quý III, Hiệp hội Ngân hàng Mỹ cho biết cuối tuần trước. Con số này thấp hơn đáng kể so với trung bình 15 năm là 2,3%.
Người dân Mỹ đang được hưởng lợi từ thị trường lao động được cải thiện và giá dầu giảm. Giá xăng tại Mỹ hiện rẻ nhất trong 6 năm. Chi tiêu vào xe mới, đồ gia dụng, TV và trang phục đã tăng 0,6% trong tháng 11, gấp đôi tháng 10, theo số liệu của Bộ Thương mại nước này.
Với 11.500 tỷ USD năm 2013, tiêu dùng Mỹ lớn hơn bất kỳ GDP của một nền kinh tế nào trên thế giới, kể cả Trung Quốc, theo IMF. Số liệu này chưa điều chỉnh theo phương pháp ngang giá sức mua (PPP).
Trong báo cáo tuần trước, các nhà kinh tế học tại Deutsche Bank dự đoán GDP Mỹ năm nay tăng 3,7%, cao hơn nhiều so với 2,5% năm ngoái. Mỹ cũng sẽ đóng góp 18% vào tăng trưởng toàn cầu, so với chỉ 11% của tất cả các quốc gia công nghiệp gộp lại.
Trong khi đó, các nước mới nổi (BRIC) - gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc lại đang gặp khó sau gần 15 năm thu hút sự chú ý của nhà đầu tư nước ngoài. Brazil đã bị đánh tụt tín nhiệm năm ngoái, lần đầu tiên trong một thập kỷ. Trong khi đó, Nga đang dần tiến vào suy thoái khi nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi giá dầu và các lệnh trừng phạt của phương Tây. Tăng trưởng tại Trung Quốc và Ấn Độ thì đang chậm lại trong quá trình cải cách kinh tế.
"Thời kỳ các nước mới nổi dẫn dắt tăng trưởng toàn cầu đã qua rồi", Nancy Lazar - đồng sáng lập Cornerstone Macro kết luận.
Hà Thu
TỪ GOLD DOLLAR CHUYỂN SANG OIL DOLLAR ĐỂ CAI QUẢN TOÀN CẦU
BS Hồ Hải
Tôi đã từng viết về vấn đề vàng đô để tiên lượng kinh tế toàn cầu nói chung, và kinh tế của từng quốc gia, và gia đình nhỏ. Trong những bài viết đó, tôi đã từng nhắc đến đề tài này. Hôm nay, tôi xin hệ thống lại để thấy Hoa Kỳ quản lý toàn cầu như thế nào?
Dù thế giới có thay đổi thế nào đi nữa, thì 100 năm tới Hoa Kỳ vẫn là cường quốc số 1 về khoa học kỹ thuật, giáo dục. Từ đó, nền tảng lý thuyết kinh tài cũng từ đất nước này đẻ ra, nhờ vào họ biết thúc đẩy tất cả tiềm năng trí tuệ của con người. Và nước Mỹ vẫn sẽ lèo lái kinh tế toàn cầu, xoay chuyển chính trị toàn cầu, và là quốc gia cầm lái vĩ đại.
Tháng Mười Hai năm 1944, hơn 70 quốc gia họp nhau ở thành phố Bretton Woods thuộc bang New Hamshire Hoa Kỳ để quyết định chuyển trung tâm quyền lực kinh tài từ Luân Đôn sang Nữu Ước, và đồng dollar Mỹ là thống soái thay vì Bảng Anh.
Cần nhắc lại, bang New Hamshire là bang đẻ ra những sáng kiến to lớn cho Hoa Kỳ và cho thế giới nói chung. Một trong những sáng kiến vĩ đại nhất mọi thời đại về giáo dục do các giáo sư đại học của bang này đưa ra. Đó là, trả quyền tự trị về cho các đại học, đi đôi với đại học phải đi đầu trong nghiên cứu phục vụ cho nhân sinh. Để sáng kiến này được các nhà thờ và chính quyền Hoa Kỳ vào thế kỷ XIX đồng ý, thì đã có nhiều giáo sư, sinh viên phải chết hoặc đi tù.
Cũng tại New Hamshire này, hệ thống Bretton Woods ra đời. Nó buộc các đồng tiền mạnh gắn chặt vào vàng. Tỷ lệ 35 dollar Mỹ ăn 1 ounce vàng. Sau đó, các đồng tiền khác đi theo dollar Mỹ. Ví dụ 1 dollar Mỹ ăn 2 Đức Mã, bằng 0.75 Bảng Anh, và bằng 80 Yên Nhật, etc - gold dollar.
Lý do phải chuyển đổi quyền lực từ Anh sang Mỹ, vì lúc đó, Hoa Kỳ chiếm lĩnh hơn 50% thị trường xuất khẩu toàn cầu. Nước Mỹ tiêu dùng hơn 50% toàn cầu cộng lại. Hoa Kỳ đã lập ra những hệ thống phòng thủ như NATO và hiệp ước an ninh với Nhật Hàn để chống lại cộng sản. Hoa Kỳ bảo kê an ninh quốc phòng, các quốc gia đi theo Hoa Kỳ chỉ cần làm ăn và đóng phí cho những cuộc chiến tranh mà Hoa Kỳ thấy cần thiết, để bảo vệ các quốc gia cùng phe nhóm với Hoa Kỳ.
Nhưng từ năm 1944 đến 1970, các quốc gia dưới quyền như Đức và Nhật phục hồi nhanh chóng. Họ chiếm lại thị phần xuất khẩu thế giới, cũng như khả năng tiêu dùng của họ cũng tăng cao chiếm khoảng 25% toàn cầu. Họ yêu sách, phải bỏ hệ thống Bretton Woods để họ tự do làm giá đồng tiền của nước họ, nhằm phụ vụ cho việc xuất khẩu dễ dàng hơn, bằng cách hạ giá đồng bạc nội địa của mình. Trong 25 năm kinh tế toàn cầu bình yên nhờ hệ thống Bretton Woods, nay sóng gió bắt đầu, khi tổng thống Nixon đồng ý yêu cầu của Đức và Nhật. Ông quyết định hủy bỏ hệ thống neo giá đồng tiền vào vàng, thả nổi đồng tiền toàn cầu, và trả 24.000 tấn vàng của các quốc gia ký quỹ vào kho vàng Nữu Ước để được phép in tiền khi cần tiêu xài cho quốc gia, mà hệ thống Bretton Woods quy định.
Bắt đầu năm 1971, Hoa Kỳ chuyển sự neo đậu giá đồng tiền vào vàng sang năng lượng - dầu hỏa: oil dollar - cũng là lúc Hoa Kỳ dùng đồng dollar neo vào dầu hỏa để cai quản toàn cầu. Vì thế giới công nghiệp cần năng lượng. Cho đến nay năng lượng từ dầu hỏa vẫn là nguồn chính mà toàn cầu sử dụng.
Suốt từ 1971 đến 1978, giá dầu quanh quẩn 20 dollar/thùng. Nhưng khi phong trào cộng sản thế giới lan rộng đến các quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông - giếng dầu thế giới - thì Iran tách ra sự che chở của Hoa Kỳ. Sự kiện 52 con tin ngoại giao năm 1978 do Iran bắt giữ, đã làm giá dầu tăng gấp 3 lần. Giá vàng vì thế cũng tăng cao nhất trong lịch sử từ 35 dollar/ounce lên đến 850 dollar/ounce!
Khi 52 con tin được giải thoát, tình hình giá dầu trở lại quanh quẩn 25 dollar/thùng, và giá vàng trở về khoảng 100 dollar/ounce. Nhưng sau khi sự kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nó đã để lại nhiều thiệt hại cho Hoa Kỳ vì những cuộc chạy đua vũ trang trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ múa gậy vườn hoang suốt gần 20 năm từ 1990 đến 2008. Làm anh cả ôm đòm, nợ công Hoa Kỳ tăng quá mức. Bong bóng đầu tư bảo hòa và vỡ tung. Một cuộc đại khủng hoảng toàn cầu lớn nhất kể từ 1933 bắt đầu từ Hoa Kỳ.
Trong đại khủng hoảng đó, Hoa Kỳ đã vay 800 tỷ dollar từ Trung Cộng để giải quyết. Thế là, một số cuộc chiến ở Bắc Phi Trung Đông nổ ra, làm nghẽn mạch chuyển dầu đi tới toàn cầu, giá dầu tăng ngất ngưởng, có lúc cao nhất lên đến 140 dollar/thùng vào tháng Chín năm 2008. Giá vàng lập kỷ lục mới với 1900 dollar/ounce. Và sau 6 năm lên nắm quyền, đảng Dân Chủ ở Hoa Kỳ đã chỉ lo khôi phục kinh tế Hoa Kỳ, điều chỉnh sự tham chiến trên toàn cầu. Giờ kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng từ < 1% lên 4.5%/năm. Tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ quay về con số lý tưởng < 5%.
Ngay tức thì khi Hoa Kỳ ổn định kinh tế, câu chuyện Nga xâm lược Ukraina xuất hiện. Một lệnh cấm vận kinh tế với Nga. Trong khi đó, Hoa Kỳ thành công việc nghiên cứu và sản xuất vắt đá thành dầu, và đến năm 2015 sẽ là quốc gia sản xuất dầu nhiều nhất thế giới. Hoa Kỳ là quốc gia sử dụng dầu nhiều nhất thế giới, khoảng hơn 30% toàn cầu, trong một quốc gia chỉ có 5% dân số so với toàn cầu.
Trong cuộc khủng hoảng vừa qua, tổ chức các quốc gia sản xuất dầu đã tăng đầu tư và xây dựng nhà máy lọc dầu, khai thác thêm nhiều mỏ dầu mới. Nay, Hoa Kỳ độc lập năng lượng, không còn lệ thuộc nhập khẩu dầu. Nguồn cung dầu tăng, trong khi nhu cầu nhập khẩu của quốc gia sử dụng dầu nhiều nhất thế giới không còn nữa. Huyết mạch chuyển giao dầu thông thoáng. OPEC vẫn cứ sản xuất đều đều không giảm. Vậy là giá dầu giảm. Giá dầu giảm, thì giá vàng cũng giảm theo.
Nước Nga mạnh lên trong 10 năm nhờ khủng hoảng kinh tế Hoa Kỳ, vì chỉ biết bán tài nguyên dầu hỏa, khí gas để ăn. Nước Nga mạnh lên thì Hoa Kỳ và Trung Cộng cũng khốn khổ vì giá dầu tăng, vì họ là những quốc gia đứng thứ nhất và thứ hai sử dụng dầu nhiều nhất thế giới. Ông Putin đã gặp thời khi lên nắm quyền ngay lúc giá dầu tăng, thực ra ông không có tài năng gì, ngoài tư tưởng và hành động độc tài được nuôi dưỡng từ thời cộng sản Liên Xô.
Nay giá dầu xuống. Nước Nga khốn đốn. Ông Putin quen là lãnh đạo ăn bám của để dành của tổ tiên. Nay không có sáng kiến gì để vực nước Nga, vì hơn 200 ngàn tài năng khoa học Nga đã bị chảy chất xám sang phương Tây và Hoa Kỳ trong 12 năm cầm quyền của ông. Quanh ông không còn ai biến nước Nga trở thành một quốc gia hùng mạnh nhờ vào trí tuệ, mà chỉ là những kẻ ăn bám như ông.
Oil dollar đã làm mưa, làm gió suốt 10 năm qua. Giờ đã đến lúc mưa tạnh, gió hòa. Cũng là lúc Hoa Kỳ hùng mạnh trở lại. Cũng là lúc Trung Cộng chật vật với bong bóng đầu tư. Cũng là lúc mà nếu ông Putin muốn trợ giá đồng Rub của mình thì, 400 tỷ dollar dự trữ từ bán dầu và khí gas của nước Nga chỉ có thể dùng trong 60 ngày!
BS Hồ Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét