Theo hồi ký của Phạm Duy, vào năm một ngàn chín trăm bốn mươi bảy, ông là nhạc sĩ và ca sĩ trong đoàn văn nghệ của Việt Minh, đi biểu diễn khắp các tỉnh miền Bắc. Đến Lào Cai, ông gặp Văn Cao. Khi ấy, Văn Cao đang mở một phòng trà có tên là Quán Biên Thùy. Văn Cao thuyết phục Phạm Duy hát cho phòng trà của mình. Phạm Duy nhận lời và ở lại. Tại đây, ông sáng tác bài Bên Cầu Biên Giới, một trong những nhạc phẩm được xem là xuất sắc nhứt của Phạm Duy trong thời kỳ kháng chiến.
Năm một ngàn chín trăm năm mươi, Phạm Duy chia tay với Văn Cao và quay trở lại đoàn văn nghệ của Việt Minh, thì Bên Cầu Biên Giới bị đem ra phân tích, mổ xẻ, chỉ trích: nhạc phẩm chứa tính chủ quan, tính lãng mạn, tính tiểu tư sản, không thể chấp nhận được. Nguyễn Xuân Khoát cũng đến khuyên nhủ ông, hãy từ bỏ đầu óc lãng mạn thành thị và xóa sổ ca khúc này đi, nếu ông còn muốn ở lại để sáng tác nhưng Phạm Duy không chấp nhận.
Với lý do, ca khúc Bên Cầu Biên Giới đầy chất ủy mị, sầu não, chán chường, sẽ làm nản lòng kháng chiến quân, một lệnh cấm sau đó được ban hành. Khi ấy, Phạm Duy vừa mới cưới Thái Hằng và vợ ông sắp sinh con đầu lòng. Ông quyết định rời chiến khu và vào Nam.
Phạm Duy tâm sự: Một bài hát, theo tôi, nếu nó có may mắn được hát lên trong một thời kỳ nào đó, thì đời của nó, cũng chẳng khác chi một đời hoa, sớm nở tối tàn, có gì đâu mà quan trọng hóa đến độ phải treo cổ nó lên?
Bên Cầu Biên Giới cũng theo Phạm Duy di cư. Suốt hai mươi năm liền, chưa bao giờ Bên Cầu Biên Giới bị khán giả miền Nam chê dở, chê lỗi thời hay không còn phù hợp. Nó vẫn ngân nga trên tất cả các sóng truyền thông, qua tivi, qua đài phát thanh, từ các quán bar, các phòng trà cho đến từng chiếc radio, cassette, máy băng cối akai, máy hát đĩa than, nơi từng gia đình.
Năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, không chỉ Bên Cầu Biên Giới (đương nhiên là thế rồi!), tất cả các sáng tác của Phạm Duy đều bị cấm. Cho đến năm hai ngàn không trăm mười hai, tức là ba mươi bảy năm sau, cục nghệ thuật biểu diễn mới cho phép Bên Cầu Biên Giới được lưu hành trở lại.
******
Chiếc cầu biên giới mà ông viết ở trong bài, chính là chiếc cầu Trung Việt. Ông kể lại: Bài này là một trong những bản nhạc tình hiếm hoi của thời đó, cho nên nó nhanh chóng được phổ biến một cách rộng rãi. Bên Cầu Biên Giới được soạn ra trong đầu, lúc tôi ôm một vũ nữ kiêm tình báo viên vào lòng, và đứng trên chiếc cầu này để viễn mơ. Tôi thèm được vượt biên giới để ra đi, để được sống bên người đẹp Tô Châu, hay chết bên bờ sông Danube, dẫu rằng lúc ấy, tôi vẫn còn đang trong đội ngũ kháng chiến, dẫu rằng lúc ấy, tôi vẫn luôn nghĩ về một vùng đau thương chốn quê cũ làng xưa.
Ban đầu, tôi chỉ nghĩ đó sẽ là một tình khúc: có anh, có em, có dòng nước lũ, có nắng ngừng trên chiếc cầu biên giới nhưng mãi về sau, tôi mới thấy rõ ra hơn, đó là bài hát nói về biên giới trong lòng người, giữa hận thù và tình yêu, giữa chiến tranh và hòa bình, giữa cái xấu và cái tốt, mà anh nghệ sĩ trẻ tuổi, thơ ngây, là tôi, luôn mơ ước phá vỡ nó đi.
******
BÊN CẦU BIÊN GIỚI
1.
Ngừng đây soi bóng bên dòng nước lũ
Cầu cao nghiêng dốc trên dòng sông sâu
Sầu vương theo sóng xuôi về cuối trời
Một vùng đau thương chốn làng cũ quê xưa
Chỉ đọc lên thôi, chưa cần đến giai điệu, thì lời của ca khúc cũng đã thơ lắm rồi, cũng đã rất nhiều hình ảnh mộng mơ và lãng mạn lắm rồi.
Đứng trên chiếc cầu cao, hai bên đầu cầu nghiêng dốc xuống, phía dưới là dòng sông sâu nước lũ, thì soi bóng ở đây sẽ là soi bóng ai? Tôi không nghĩ là soi bóng cặp tình nhân. Vì soi làm sao được khi dòng nước đang chảy xiết đến thế. Tôi nghĩ nhiều hơn đến ánh cuối chiều, bóng hắt hoàng hôn.
Ngay cả ngữ động từ “ngừng lại” cũng khiến tôi có một cảm xúc khó tả. Ngừng lại để rồi đi tiếp, hay ngừng lại để quay trở lui? Và đó chính là tâm trạng phải lựa chọn của tác giả lúc ấy.
Muốn đi tiếp vì giấc mộng giang hồ viễn du luôn luôn, thường trực trong tâm hồn của một người nghệ sĩ. Nhưng chân lại không đành vì dẫu sao cũng vẫn còn nặng gánh trách nhiệm của người trai với sông núi, nước non.
Ước mơ, vì thế, cứ theo dòng nước xuôi về cuối trời. Và nỗi sầu vương về chốn làng cũ quê xưa, một vùng đau thương, lại chính là niềm neo giữ lại.
Người ta thường nói, với tâm hồn nhạy cảm, người nghệ sĩ, trong những khoảnh khắc đặc biệt, đôi lúc, trở thành nhà tiên tri. Nơi chiếc cầu biên giới này, có phải chăng, Phạm Duy đã hình dung ra, bảy năm sau, tại vĩ tuyến mười bảy, chiếc cầu biên giới thứ hai được hình thành, cầu Hiền Lương, không ngăn biên giới nước này với nước kia, mà ngăn miền Bắc với miền Nam nước Việt.
Trên cầu nhìn xuống, nước thì lũ, sông thì sâu, sầu thì đầy, lòng người thì, khôn nguôi một nỗi buồn cố xứ, lặng lẽ soi chính mình, bản lai diện mục.
**
2.
Người đi chưa hết hương sầu lữ thứ
Hồn theo cánh gió quên tình xa xưa
Tuổi xanh như lá thu rụng cuối mùa
Mộng về đêm đêm khát vầng trán ngây thơ
Đều đặn, nhịp nhàng, nâng lên ngân nga rồi trải buông nhẹ xuống, trầm bổng dặt dìu, nếu không biết đây là lời của một bài ca, thì chắc chắn, tôi sẽ nghĩ đó là một bài thơ.
Người đi ở đây là ai? Còn ai nữa nếu không phải là tác giả. Tác giả đã đi, từng đi, và vẫn đang tiếp tục đi, chưa dừng gót. Đi thì chưa hết được con đường mang hương sầu lữ thứ, vậy mà xem ra, tâm hồn đã chừng như, ít nhiều phai lợt, như phai lợt tình xưa, từng gốc đa bến nước.
Người nghệ sĩ, thì vẫn thường như vậy đó, “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” (Cảm Xúc - Xuân Diệu), nên Phạm Duy, cũng chẳng thể khác hơn, ông rồi sẽ như cánh gió kia, mà bỏ lại sau lưng, tháng ngày dấu ái.
Tuổi xanh rồi sẽ qua nhanh, và như lá vàng thu, lả tả rụng cuối mùa, để giấc mộng về đêm đêm, khao khát mãi, khao khát hoài, biết làm sao hơn, đành gởi lại ước mơ một đời, lên vầng trán ngây thơ, non trẻ.
**
3.
Em đến bên tôi, một chiều khi nắng phai rồi
Nắng ngừng bên chiếc cầu biên giới
Xa xa thoáng đàn trầm vô tư
Đâu đây dáng huyền đền duyên xưa
Cảnh thơ nào mà không có người thơ, người thơ ấy chính là “em đến bên tôi” của tác giả. Và đôi tình nhân đang đứng trên chiếc cầu trong một chiều nắng phai.
Nắng phai nghĩa là nắng nhạt màu. Nhạt như đời nhạt, nhạt như giấc mơ nhạt, nhạt như khát vọng nhạt, nhạt như cuộc tình nhạt, có phải thế không?
Nắng nhạt ấy đột ngột ngừng lại, không phai nữa, không nhòe nữa. Nắng ngừng.
Nắng ngừng vì nắng cũng như người, lưỡng lự. Trong vô thức, cũ và mới, hôm nay và ngày mai, vẫn khiến người nghệ sĩ quá chừng là băn khoăn, là phân vân, khó lòng chọn lựa. Bên này là tiếng đàn vô tư của chàng nhạc sĩ dấn thân, bên kia là dáng huyền, là những mối duyên tơ.
**
4.
Bên cầu biên giới
Tôi lặng nghe dòng đời
Từ từ trôi, sông nước xa xôi
Mây núi khắp nơi, không tỏ một đôi lời
Trong phút giây lắng lòng, người nghệ sĩ lặng yên nghe lại dòng đời, dòng đời như dòng sông, đang từ từ trôi, theo nước về miền xa xôi.
Mây núi giăng giăng, khắp nơi, cảnh cùng người, chìm đắm trong lặng yên, vợi vời, mênh mang. Lời biệt ly, trong phút giây này, thật khó mà cất lên, tạ từ, lần cuối.
Vì sao ư? Là bởi vì, nơi đây, chính là “bên cầu biên giới”, là nơi phân cách, ngăn chia, rạch ròi đất đai, con người. Đang một, bỗng hóa thành hai.
Biên giới, nào chỉ phân chia lãnh thổ. Biên giới, còn là nơi phân chia lòng người, bên đó, bên đây!
**
5.
Ôi giấc mơ qua, mộng đời phiêu lãng giang hồ
Sống trong lòng người đẹp Tô Châu
Hay là chết bên dòng sông Danube
Những đêm sáng sao
Chàng nhạc sĩ trong phút giây ngừng lại bên cầu, bỗng nhận ra hai bờ thực mộng. Tác giả bừng giấc, và thốt tiếng bi ai - ôi.
Ôi, giấc mơ đã qua rồi, một giấc mơ thật đẹp của đời phiêu lãng giang hồ. Đó là một cuộc đời rất đáng để nhớ, để không hối tiếc. Sống, thì sống trong lòng người đẹp Tô Châu, đến lúc chết, lại được chết cạnh dòng Danube xanh trong, rười rượi dài bờ trải.
Trong phút giây sau cùng ấy, ngước lên, thấy đêm cuối của mình, một trời sao rực chiếu!
**
6.
Nhưng đường quá xa vời
Hương trời vẫn mê mải
Lòng tôi sao vẫn còn biên giới
Lòng tôi sao vẫn ngừng nơi đây
Oái oăm thay, giữa giấc mơ và thực tại vẫn là một khoảng cách rất lớn, chẳng làm sao mà xóa nhòa được. Khoảng cách ấy, mênh mông, vô cùng vô tận, và được phân chia bởi “cầu biên giới”.
Tác giả thú nhận, đường đi đến giấc mơ - hay nói khác đi, giấc mộng giang hồ của ông - quá xa vời. Và hương sầu, hương trời, cứ còn hoài, ngút ngàn nơi lòng, trong mê mải bước chân. Tôi và nắng, vẫn phải đành ngừng bước lại ở đây, Bên Cầu Biên Giới này.
Có những phân chia rạch ròi, nhìn thấy được như chiếc cầu biên giới Lào Cai, vạch ranh giới đất đai giữa hai đất nước; chia biên cương, lãnh thổ giữa hai non sông. Nhưng cũng có những đường ranh phân chia không nhìn thấy được, đó là những đường ranh ẩn giấu trong lòng người.
Đứng bên em, bên dòng tóc êm đềm, bên bể mắt đắm chìm, tác giả từng mơ, sống, thì phải được sống trong lòng người đẹp Tô Châu; mà chết, thì phải được chết bên dòng sông Danube, mới xứng đáng với đời một nghệ sĩ giang hồ.
Nhưng rất nhanh, giấc mơ tan, tác giả ngỡ ngàng nhận ra, mộng dẫu bền đến mấy, thì cũng sẽ rồi qua, để trở lại những tháng ngày phong sương. Nếu có còn lại chăng, thì cũng chỉ là đôi ba niềm thương nhớ.
******
Từ chiếc cầu biên giới ở Lào Cai, Phạm Duy di cư vào Nam và sau đó, ông qua Hoa Kỳ. Ba mươi năm sau, Phạm Duy trở về quê hương và mất tại Việt Nam ngày 27.01.2013, thọ chín mươi mốt tuổi.
Tôi cũng không rõ, chiếc cầu biên giới ở Lao Kay mà tác giả từng có lần qua, vào năm 1947 ấy, nay có còn không. Có thể còn, có thể không.
Nhưng tôi tin, Bên Cầu Biên Giới của một Phạm Duy tài hoa rất mực, sẽ còn mãi với thời gian. Ca khúc, tính đến nay cũng đã được bảy mươi bảy tuổi rồi.
******
Trong tiết gió mưa, tôi đăng lại bài viết có sửa chữa, mà tôi đã đưa lên trang vào ngày 14.03.24, để tặng người nơi xa:
bước chân lữ thứ chiều đưa
hồn theo cánh gió ngày xưa nắng màu
ngừng đây soi bóng bên cầu
người đi chưa hết hương sầu, mộng qua… .
Phạm Hiền Mây
Sài Gòn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét