Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 8 tháng 7, 2024

Tạp Ghi và Phiếm Luận : Phiếm về THAM, SÂN, SI. - Đỗ Chiêu Đức


Biểu tượng của THAM, SÂN, SI


THAM 貪 là chữ Hội Ý, theo "CHỮ NHO... DỄ HỌC" được hình thành theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Giáp Cốt Văn Tiểu Triện Lệ Thư Khải Thư

 Giáp Cốt Văn     Tiểu Triện      Lệ Thư      Khải Thư
<!>

Ta thấy :
Chữ THAM 貪 có phần trên là chữ KIM 今 là Hiện nay, là Trước mắt; Phần bên dưới là bộ BỐI 貝 là Bảo Bối, chỉ các đồ vật qúy giá. Với Hội Ý là : Lòng dạ trước mắt của con người nghĩ đến là những vật qúy giá, nên bản thân chữ THAM đã có hàm ý là "Ham hố những tài vật tiền của qúy giá" rồi. Sau dùng rộng ra để chỉ tất cả sự ham muốn yêu thích của lòng dạ con người đối với tất cả những đồ vật, sự vật và con người chung quanh.
Đã nảy sinh lòng Tham rồi thì muốn có cho bằng được, muốn sở hữu bằng mọi giá nhiều khi bất chấp cả thủ đoạn; Nếu không chiếm hữu được thì chẳng cam tâm và cứ ấm ức mãi trong lòng. Vậy thì...


Lòng Tham của con người tự đâu mà có ?! Theo Phật giáo thì quan niệm rằng : Vì con người có NGŨ CĂN 五根 tức là ngũ giác quan là Thính giác (tai), Thị giác (mắt), Khứu giác (mũi), Vị giác (lưỡi) và Xúc giác (da), nên luôn bị cám dỗ bởi NGŨ CẢNH 五境 là những thanh âm quyến rủ, lời ngon tiếng ngọt (tai), nhìn thấy những cảnh giàu sang phú quý hay sắc đẹp khuynh quốc khuynh thành (mắt), rồi lại bị mê hoặc bởi những mùi hương lôi cuốn của các quốc sắc thiên hương (mũi), nhất là được thưởng thức những món ngon vật lạ, sơn hào hải vị (lưỡi) và sau cùng là chết mê chết mệt vì sự cọ xác tiếp xúc của da thịt của nhục dục (da)... Từ đó mới nảy sinh ra các lòng tham tài, tham sắc, tham đủ thứ... như ông Sãi của Nguyễn Cư Trinh đã nói trong tác phẫm SÃI VÃI là :

Tiểu nhơn thói tục, tu những tánh phàm.
Tu những lòng bạc ác gian tham;
tu những dạ hung hoang tàn bạo.
Nuôi cho lớn mà tu lòng bất hiếu;
ăn cho no mà tu dạ bất trung.
Tu sắc lành để mà a ý khúc tùng;
tu lời khéo để mà sức phi văn quá.
Người hiền ngõ, tu ghét ghen ngăn trở;
kẻ lỗi lầm, tu tìm kiếm đon ren.
Tu lưỡi mềm để lấy của cho đầy then;
tu mưu độc để hại người cho đã giận...

Và như mụ Tú Bà trong Truyện Kiều khi đem Thúy Kiều ra làm mồi nhử để làm tiền chàng Thúc Sinh vậy :

Mụ càng tô lục chuốc hồng,
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê !

Còn chàng Thúc khi đã si mê Thúy Kiều rồi thì chẳng còn lý trí gì nữa, để cho mụ Tú bà mặc sức mà chặt chém :

Thúc Sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không !

Tham tài tham sắc là tật chung của người đời từ ngàn xưa đến nay. Từ bạch diện thư sinh, cùng đinh mạt vận cho đến những kẻ giàu sang phú qúy, quyền cao chức trọng đều mê tiền cả, khiến cho cụ Tam Nguyện Yên Đỗ phải lên tiếng mỉa rằng :

Có TIỀN việc ấy mà xong nhỉ,
Ngày trước làm quan cũng thế a ?!

Đạo Giáo cũng có một câu truyện nói về Lòng Tham không đáy của con người như sau :
Xưa có một người rất nghèo khổ, nhưng lại rất tin tưởng và thờ phượng Lữ Tổ 呂祖, tức là Lữ Thuần Dương Tổ Sư 呂純陽祖師 Lữ Động Tân 呂洞賓, là một trong những tổ sư của Đạo Giáo. Cảm vì lòng thành của anh ta, nên một hôm, Lữ Tổ hiện ra, thấy cảnh nhà tiêu điều nghèo khổ, động lòng thương xót, mới chỉ vào tảng đá trước sân nhà, trong một thoáng, tảng đá bỗng hóa thành vàng rực rỡ, đoạn quay sang hỏi anh ta : "Cho anh tảng vàng này, anh có thích không ?". Người kia lạy phục dưới đất đáp rằng :"Không thích !". Lữ Tổ rất cảm động bảo rằng :"Khá lắm, anh không có lòng tham lam, thật qúy hóa vô cùng, ta sẽ truyền đạo pháp cho anh tu tập !" Người kia đáp : "Không phải thế, tôi chỉ muốn xin ông cho tôi cái ngón tay chỉ đá hoá vàng của ông mà thôi !". Lữ Tổ nghe xong, giật mình biến mất.



Lòng tham của con người qủa là không đáy, khiến thần tiên cũng phải hoảng sợ. Tảng vàng tuy to lớn nhưng xài lâu thì cũng hết, chỉ có "ngón tay chỉ đá hóa vàng" là không bao giờ hết vàng được mà thôi ! Vì tích nầy mà ngạn ngữ lại có câu : Chỉ thạch hóa vi kim, nhân tâm do vị túc 指石化為金,人心猶未足. Có nghĩa : Chỉ đá hóa ra vàng mà lòng người còn chưa thấy đủ !".

Trái ngược với lòng tham lam và sự chiếm hữu của THAM là SÂN 嗔. SÂN là SÂN HẬN 嗔恨 là sự tức giận ghét bỏ; là nóng giận trách mắng, là nổi cơn tam bành, muốn tiêu diệt đối phương, như khi Tú Bà nghe Thúy Kiều kể là Mã Giám Sinh đã ăn nằm với nàng rồi vậy :

Mụ nghe nàng mới hay tình,
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên !

SÂN 嗔 thuộc dạng chữ Hài Thanh trong "Chữ Nho... Dễ Học". Có diễn tiến chữ viết như sau :

Giáp Cốt Văn Tiểu Triện Lệ Thư Khải Thư

 Giáp Cốt Văn     Tiểu Triện        Lệ Thư        Khải Thư


Ta thấy :
Chữ SÂN gồm có 2 phần : Phần trái là bộ KHẨU 口 chỉ Ý, Phần bên phải là chữ CHÂN 真 là Thật chỉ Âm. Phiếm theo Hội Ý là : Những lời giận dữ chân thật được phát ra bằng cửa miệng. nên SÂN 嗔 là nổi giận, là hờn oán, là ghen tức có lòng muốn phỉ báng tiêu diệt đối phương. Nên SÂN là sự nóng giận đến mất bình tĩnh, giận mất khôn theo bản tính cố hữu của con người.
Sự giận hờn ghen ghét như ngọn lửa cứ âm ỉ mãi trong lòng, như Hoạn Thư khi biết chồng có vợ bé ở bên ngoài mà vẫn một mực dấu diếm, nên "Lửa tâm càng dập càng nồng, Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa" và muốn...

Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên !

Còn nàng cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều giận nhà vua lợt lạt với mình nhưng không làm gì được nhà vua, nên giận cá chém thớt :

Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !

Phần ông Sãi của Nguyễn Cư Trinh thì giận bản thân mình rồi lại giận bao đồng cả thiên hạ :

Sãi giận Sãi kinh luân chẳng biết;
Sãi giận Sãi thao lược không hay.
Sãi giận Sãi: thờ quân vương chẳng hết lòng ngay;
Sãi giận Sãi: ơn phụ mẫu chưa đền nghĩa thảo.
Tưởng trong nhơn đạo; Sãi một giận căm;
Suy nghiệp cổ câm, Sãi thêm giận lắm.
Khi Đổng Trác lung lăng nhà Hán, Sãi giận chàng Hà Tấn vô mưu.
Lúc Khuyển Nhung phá phách nhà Chu, Sãi giận gã Thân Hầu thất kế.
Máu sục sục sôi dòng Vị Thuỷ, giận Thương quân hành chánh chẳng lành.
Thây chan chan lấp nội Trường Bình, giận Bạch Khởi ra oai rất dữ.

Rồi lại ghét cả những nhân vật lịch sử xa xưa :

Ghét Kiệt, ghét Trụ; ghét Lệ, ghét U
Ghét nhân chánh chẳng tu, ghét cang thường nỡ bỏ...
Luận như ghét cho đủ, Sãi ghét đứa bất hiếu, bất trung;
Luận như ghét cho cùng, Sãi ghét đứa đại gian đại ác...

Trong Bách Dụ Kinh《百喻經》có kể một câu truyện như sau : Có một người kết thù kết oán với người khác, nhưng vì yếu thế hay bị hiếp đáp sỉ nhục, nên suốt ngày cứ canh cánh bên lòng tìm cách trả thù và hạ nhục đối phương. Một hôm có người bạn đến thăm, trông thấy anh ta ốm o gầy mòn mặt ủ mày chau, nên mới hỏi rõ duyên cớ tại sao. Khi người bạn nghe xong chuyện của anh ta bèn mách rằng : "Tôi có bài "Tì Đà La Chú" đọc lên có thể làm cho kẻ thù sống dở chết dở trông rất khó coi, nhưng trước khi làm cho đối phương sống dở chết dở thì mình cũng phải chịu qua một trận như vậy trước". Anh ta nghe xong mặt mày hớn hở cầu xin người bạn rằng :"Xin Anh hãy dạy cho tôi bài chú đó đi, dù cho tôi có ra sao cũng mặc, phải làm cho kẻ thù sống dở chết dở một trận mới hả lòng tôi !".

Ta thấy lòng SÂN HẬN của con người qủa nhiên đáng sợ, bất chấp mọi thủ đoạn kể cả có hại cho mình miễn sao kẻ thù phải bầm dập đau khổ là được rồi ! Lời kệ của Tinh Vân Đại Sư ở cuối truyện như sau :

一念瞋心起, Nhất niệm SÂN tâm khởi,
百萬障門開. Bách vạn chướng môn khai.
Có nghĩa :
- Một ý niệm giận dữ vừa nổi lên ở trong lòng, thì cũng chính là lúc...
- Trăm vạn cánh cửa của nghiệp chướng cũng đã mở theo ra !



SI 癡(痴) : là Dại, Ngây, là Trạng thái tinh thần không ổn định bình thường như những người bình thường khác. Trong Phât giáo SI là Mê muội, không phân biệt được thị phi cái nào đúng cái nào sai mà dễ lầm đường lạc lối.
Trong "Chữ Nho... Dễ Học" SI thuộc dạng chữ Hình thanh, có diễn tiến chữ viết như sau :

Giáp Cốt Văn Tiểu Triện Lệ Thư Khải Thư

    Giáp Cốt Văn    Tiểu Triện      Lệ Thư        Khải Thư


Ta thấy :
Hai hình thức của chữ SI 癡(痴) một phồn thể, một giản thể đều có bộ TẬT 疒 là Bệnh tật bao trùm bên ngoài để chỉ Ý; Bên trong của chữ phồn thể là chữ NGHI 疑 là Nghi ngờ, chữ giản thể là chữ TRI 知 là Tri Thức, là sự hiểu biết dùng để chỉ Âm. Nếu giảng theo Hội Ý để góp 2 ý nghĩa của 2 phần lại với nhau thì SI là "Một hình thức bệnh tật về tri thức vì còn trong trạng thái nghi ngờ"; Nên SI có nghĩa Mê muội, Ngây dại, Ngu ngơ... là vì thế.

Ngây dại, Ngu ngơ, mê muội trong tình yêu thì gọi là SI TÌNH 癡情, như chàng Thúc Sinh si mê tài sắc của Thúy Kiều vậy :

Lạ cho cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.
Thúc sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không !
... và :
Sinh càng một tỉnh mười mê,
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân...

Còn nàng cung phi của Ôn Như Hầu nguyễn Gia Thiều thì si mê những ngày được vua sủng ái đã nũng nịu một cách qúa đáng :

Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu,
Ghẹo hoa kia lại diễu gót sen.
Thân này uốn éo vì duyên,
Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời.

... rồi si mê trong nhục dục :

Càng lâu, càng lắm mùi hay,
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm.

... đến khi thất sủng thì lại ngơ ngẩn sầu thương si mê hờn oán :

Buồn một nỗi hồn đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhuỵ vàng.

Sự tác hại của SI NGÂY đến người khác tiêu biểu nhất là nhân vật Du Thản Chi 游坦之 trong Truyện võ hiệp mang triết lý Phật giáo "Thiên Long Bát Bộ 天龍八部" của nhà văn Kim Dung 金庸. DU THẢN CHI 游坦之 theo dõi Kiều Phong để tìm cách trả thù cho cha và chú đã bị Kiều Phong giết chết ở Tụ Hiền Trang, nhưng khi được Kiều Phong tha cho không giết thì Du Thản Chi lại si mê sắc đẹp của A Tử, rồi để cho nàng ta hành hạ và chồng cả cái đầu sắt lên trên mặt, bắt phải cho độc tằm cắn để cho nàng luyện công. Trong vô ý Du Thản Chi đã kết hợp được Dịch Cân Kinh và chất kịch độc của Băng Tầm luyện thành thần công cái thế. Nhưng trong si mê ngây dại đã mất phương hướng của bản thân mà chỉ làm theo những lời của A Tử một cách mù quáng giết người không còn biết phân biệt phải trái nữa. Cuối cùng cũng thân bại danh liệt mà nhảy xuống vực sâu kết liễu cuộc đời.


Đầu sắt Du Thản Chi và A Tử

Nói chung, trong THAM SÂN SI thì SÂN HẬN tạo nghiệp mạnh nhất, vì có thể tiêu diệt đối phương. THAM chỉ ham hố và muốn chiếm hữu tất cả, còn SI thì ngu ngơ ngờ nghệch làm theo cảm tính hay tác động của ngoại lai mà không biết phân biệt tốt xấu đúng sai. THAM SÂN SI là TAM ĐỘC, mà cũng là TAM HỎA, ba ngọn lửa nầy cứ cháy âm ỉ mãi trong lòng thôi thúc các ước vọng ham muốn của con người và tạo nên vô số ác nghiệp khiến con người cứ mãi chìm trong bể khổ trầm luân và ngụp lặn mãi trong sáu cõi luân hồi. Nên...

TUỆ là TRÍ TUỆ 智慧, là có sự hiểu biết thấu đáo về thực tế của các đời sống trong trời đất và trong cuộc đời này, hài hòa viên mãn kiến thức, thoát khỏi si mê tăm tối chìm đắm trong nhân quả tử sinh. Lòng đã hết lo sơ nghi ngại đắn đo gì nữa cả. TUỆ thoát SI là thế !


Tiêu biểu nhất cho THAM SÂN SI là ba đồ đệ của Đường Tăng trong truyện "Tây Du Ký" của Ngô Thừa Ân. Đó chính là Tề Thiên Đại Thánh, Trư Bát Giới và Sa Tăng :
- Trư Bát Giới tiêu biểu cho lòng tham lam ham muốn vô độ của con người : Tham ăn, tham sắc, tham tài...
- Tề Thiên tiêu biểu cho sự sân hận giận dữ đối với những ai cản trở bước chân trên đường đi của mình, muốn tiêu diệt tất cả.
- Sa Tăng tiêu biểu cho sự vô minh, không hiểu biết, ngây ngô chậm chạp, gặp việc không biết phải giải quyết như thế nào.

THAM SÂN SI cũng chính là TAM ĐỘC luôn hiện hữu trong con người để tạo ra mọi phiền não, cho nên Đường Tăng mới phải mất công lặn lội xa xôi suốt mười mấy năm trời qua đến Tây Thiên để tìm về ba tạng kinh GIỚI ĐỊNH TUỆ trong Kinh Luật Luận để khắc chế hóa giải ba ngọn lửa Tham Sân Si luôn âm ỉ hành hạ đốt cháy con người. Nên Đường Tăng còn được gọi là ĐƯỜNG TAM TẠNG.

Trước tiên là TRÌ GiỚI 持戒 là giữ vững giới luật của tam quy ngũ giới sẽ giải trừ được lòng ham muốn tham lam; mà TRỪ được THAM thì lòng sẽ ổn định; nên giữ GIỚI được sẽ sinh ra ĐỊNH. Khi Định Lực đã thâm hậu thì lòng THAM không còn hiện hữu nữa. Và khi Định Lực càng ổn định tiến xa hơn thì có thể đoạn tuyệt và xóa đi cả lòng SÂN HẬN. Khi Sân Hận đã tận diệt thì TRÍ TUỆ sẽ phát sinh và Trí Tuệ phát sinh thì sự NGU SI của vô minh sẽ được tiêu trừ. Có nghĩa :

GIỚI trừ THAM và sinh ra ĐỊNH; ĐỊNH diệt SÂN sinh ra TUỆ để xóa trừ SI.

Qúa trình diễn tiến hệ thống tu tập nêu trên cũng gần giống như cái quá trình tu thân của người quân tử trong đạo Nho của Đức Khổng Phu Tử. Theo Đại Học Thiên trong sách Lễ Ký thời Chiến Quốc như sau :"Tri chỉ nhi hậu ĐỊNH, Định nhi hậu năng TĨNH, Tĩnh nhi hậu năng AN, An nhi hậu năng LỰ, Lự nhi hậu năng ĐẮC. Vật hữu bổn mạc, sự hữu thủy chung, tri sở tiên hậu, tắc cận đạo hĩ. 知止而後有定;定而後能靜;靜而後能安;安而後能慮;慮而後能得。物有本末,事有終始,知所先後,則近道矣。Có nghĩa :"Biết dừng lại đúng lúc thì sẽ ổn định, có ổn định thì mới đủ bình tĩnh, có bình tĩnh thì mới cảm thấy yên ổn, có yên ổn thì mới mưu tính được sự việc, có mưu tính được sự việc thì mới đắc thủ thành công. Vật thì có gốc có ngọn, việc thì có đầu có đuôi, biết được sự trước sau đó là đã gần với đạo làm người rồi đó".

Ta thấy, sự tu thân của người quân tử trong đạo Nho là cách vật, trí tri để thành ý chánh tâm đặng tề gia, trị quốc rồi bình thiên hạ; còn người con Phật thì cốt ở Tam quy Ngũ giới, cần mẫn tu tập theo GIỚI ĐỊNH TUỆ tận diệt THAM SÂN SI để cho thân tâm thường an lạc và có cuộc sống từ bi bác ái hòa đồng hỉ xả với tất cả mọi người.

Phải luôn nhớ lời Phật dạy :

Cần tu GiỚI ĐỊNH TUỆ, Tức diệt THAM SÂN SI !

Nam mô A Di Đà Phật !

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào: