Phạm vi tối đa vương quốc Nam Việt
Vị trí lãnh thổ ngày nay
Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Hong Kong, Ma Cao, miền Bắc Việt Nam
Cờ Lĩnh Nam dưới thời Trưng Vương.
Đối với các định nghĩa khác,
Lĩnh Nam (chữ Hán: 嶺南) là vùng đất phía nam núi Ngũ Lĩnh trong truyền thuyết xưa ở Việt Nam và Trung Quốc. Truyền thuyết và vùng đất này có thể liên quan đến giai đoạn Hồng Bàng cũng như thời nhà Triệu nước Nam Việt và thời Trưng Vương trong lịch sử Việt Nam. (chữ "lĩnh" nếu hiểu theo người Việt ở thế kỷ 20-21: là "lĩnh thổ" hay "lãnh thổ", 嶺: chữ này có nghĩa là "thổ nhân cát(cứ))"
Tuy nhiên sách "Nghìn xưa văn hiến" của Trần Quốc Vượng, Nguyễn Từ Chi, Nguyễn Cao Lũy có chỗ chú thích rằng Lĩnh Nam khớp với các tỉnh Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây ở miền Nam Trung Quốc ngày nay. Các tác giả trên không gộp phần lãnh thổ của người Âu Việt và người Lạc Việt vào Lĩnh Nam.
Truyền thuyết
Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương (40-43)
Xưa kia vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh gặp Tiên nữ, kết hôn với nhau, sinh được một con trai đặt tên là Lộc Tục. Vua Đế Minh ở với Tiên nữ ít lâu rồi trở về phương Bắc. Ngài truyền các quan lập đàn tế trời rồi thề rằng: "Ta nhất sinh có nhiều cung tần mỹ nữ, nhưng chỉ sinh có một Thái tử. Sau lại kết hôn với Tiên nữ ở Động Đình hồ mà có thêm Lộc Tục. Vậy ta phong Thái tử làm vua phương Bắc đến núi Ngũ Lĩnh. Từ núi Ngũ Lĩnh về Nam, gọi là Lĩnh Nam, phong cho Lộc Tục làm vua. Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương".
Kể từ đấy thiên hạ chia đôi. Bắc do vua Đế Nghi cai trị. Nam do Lộc Tục lên ngôi, hiệu là Kinh Dương Vương. Đất Lĩnh Nam phía bắc tới Động Đình hồ, phía nam giáp với nước Hồ Tôn, phía tây giáp với Ba Thục, đông giáp biển Nam Hải. Kinh Dương Vương kết hôn với con gái của Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm. Thái tử Sùng Lãm kế tục ngôi vua lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết hôn với Công chúa Âu Cơ con vua Đế Lai, sinh được trăm con. Lạc Long Quân truyền ngôi cho con trưởng làm vua, hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Lại phong 99 con mỗi người làm chủ một ấp, vì vậy đất Lĩnh Nam mới có trăm họ. Đó là nguồn gốc Bách Việt.
Thời Hai Bà Trưng.
Năm 40, Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Hán. Sử cũ ghi chép hai bà đã lấy được 65 thành trì của nhà Hán tại các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Hợp Phố, Nam Hải,... Hai bà xưng vương, với câu hịch nối lại nghiệp xưa vua Hùng, lập tên nước là Lĩnh Nam, đóng đô tại Mê Linh. Trưng Trắc được bầu làm vua (Đế) của Lĩnh Nam, Trưng nhị được bầu làm vương của Giao chỉ, sáu quận của Lĩnh Nam là: Nhật Nam, Cửu Chân, Giao chỉ, Tượng Quận, Nam Hải và Quế Lâm mỗi quận có một vương gia. Điều này được phản ánh trong câu: "Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta".
Hai bà Trưng dựng nền độc lập
Đường ca lâu đã vắng lời,
Đến như Tô Định là người chí hung.
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương.
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao?
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cũng liều với sông.
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Aỉ quan truyền dấu biên công cõi ngoài.
Trưng vương vắng mặt còn ai?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan
( Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca )
Nguyễn Nhơn sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét