Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 14 tháng 8, 2025

Gió, một yếu tố của Tứ Ðại - Thái Công Tụng


Abstract - This paper is structured into 6 sections. Section 1 is introduction about the 4 Great Elements in Buddhism. They are Earth, Water, Wind (Air) and Fire. These four Great Elements refer to elements that are both “external” (river, mountain etc) and “internal” (blood, hair etc). Section 2 tackles primarily about wind in Vietnamese literature (folk literature, songs, writings). Section 3 discusses mechanisms of wind formation and describes different types of wind: sea wind, land wind, mountain wind, valley wind, monsoon etc.Section 4. 
<!>
Major emphasis will be placed on breath, wind and awareness in this section. Air is the closest element to our souls; it flows all around and through us.. Breathing in, we may breathe the positive ideas such as compassion, empathy and breathing out helps getting out bad air which can be negative thoughts such as aversion, jealousness, anger. . Controlling the tempo of those breaths is the first step of gaining control of our own body and mind. It cleans the body of toxins and it purifies us. Maintaining awareness during breathing helps consciousness and energy. Section 5 relates about various functions of the wind. Wind helps sea navigation, is a renewable energy and helps us enhancing our contemplative response to nature, since it expresses freedom and breath. Many quotations about wind from buddhist sutras are cited, in particular one relating to the eight winds sutra. Worthy persons deserve to be called so because they are not carried away by the eight winds: prosperity, decline, disgrace, honour, praise, censure, suffering and pleasure. They are neither elated by prosperity nor grieved by decline. Section 6 is concluding remarks: besides the air pollution, we witness also a spiritual pollution with lack of love and compassion. So restoring faith is important since faith is the air which bridges the body and mind. Many old words (pneuma in Greek, ruach in Hebrew) relate that relationship.Using wind to dissipate grieveness and bitterness helps restore and harmonize inner happiness and empowers love.

1.Tổng quan.Theo Phật giáo thì vũ trụ do bốn cái lớn trong vũ trụ: đất, nước, gió, lửa, còn gọi là Tứ Ðại. Bốn chất này đi liền với hành tinh Trái Ðất ta đang sống.

Ðầu tiên là đất như đất nằm trên các lục địa như Mỹ châu, Á châu, Phi châu, tượng trưng cho chất rắn. Nước ngoài đại dương, trên sông ngòi, tượng trưng cho chất lỏng.

Gió tức không khí giúp các động vật sinh sống, tượng trưng cho chất khí còn lửa là năng lượng cho mọi hoạt động của loài người có thể biến đổi chất đặc, chất lỏng thành chất hơi.

Trong cơ thể động vật cũng có Tứ Ðại:yếu tố đất: như tóc, răng, da, thịt, xương, các cơ quan, yếu tố lửa trong cơ thể giúp năng lượng cho sự hô hấp, tiêu hoá, tuần hoàn,.yếu tố gió như không khí trong phổi, hơi thở, yếu tố nước như máu, mồ hôi, nước mắt, nước tiểu.Trong cơ thể thực vật thì đất hoặc chất rắn là vỏ cây, thân cây; nước như nhựa nguyên chuyên chở các chất khoáng để nuôi cây; gió là không khí qua các khí khổng
trong lá nhờ đó cây hút được chất CO 2 qua hiên tượng quang hợp; lửa cũng là năng lượng chuyển hoá các dưỡng chất cho cây trồng.Mỗi yếu tố trên tượng trưng cho những gì linh thiêng vì đất nuôi dưỡng ta, nước tẩy trừ phiền não; gió biểu trưng cho tự do, cho hơi thở; lửa tượng trưng cho lòng yêu thương

2.Gió trong văn học, âm nhạc và thi ca. 
Gió luôn luôn là nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ, văn sĩ, thi sĩ ở bất cứ không gian nào, thời gian nào, từ xưa mãi đến về sau.Văn học Việt cũng không thoát khỏi niềm cảm thông sâu xa giữa con người và gió.Thực vậy, trong truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du cũng dùng hình tượng gió để diễn đạt nhiều cảm xúc khác nhau như nói chuyện lẳng lơ thì: Sớm đào tối mận lân la,Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng; thề nguyền cũng dùng hình tượng gió như: Dù khi gió kép, mưa đơn, Có ta đây, cũng chẳng cơn-cớ gì ! Gió kép, mưa đơn có nghĩa những tai họa, bất trắc bất thình lình có thể xảy ra với người phụ nữ chân yếu, tay mềm Tả cảnh thanh thản cũng dùng chữ gió như: Lần thâu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi, Khi gió gác, khi trăng sân, Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ hoặc: Gió chiều như giục cơn sầu,Vi lô hiu hắt như màu cơi trêu Thời gian trôi qua: Lần lần ngày gió đêm trăng , Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua Gió thường đi liền với mưa nên các văn sĩ, nhạc sĩ cũng hay liên kết 2 hiện tượng trên:
-Những ngày mưa lạnh gió lê thê
-Ngày ngâu gió kép mưa đơn, Mái tranh rỉ những lệ buồn vu vơ, Ðêm dài nhịp tiếng võng đưa, Lời ru ời ợi ngàn xưa vọng về (Bàng Bá Lân)
-Một chiều gió mưa em về thăm chốn xưa,Non nước u buồn nào đâu bóng cố nhân, Lòng xót xa tình xưa...

Dân ca cũng có bài nói về gió: Gió đánh cành tre, gió đập cành tre, chiếc thuyền anh vắng, le te đợi nàng,Gió đánh cành bàng, gió đập cành ba`ng,Dừng chèo anh hát, cô nàng ấy nghe hoặc: Gió đánh đò đưa, gió đập đò đưa, Sao cô mình lơ lửng mà chưa có chồng. Ca dao miền Nam có câu: Gió đưa gió đẩy về rẩy ăn còng Về sông ăn cá, về đồng ăn cua. Ý nói người con gái lấy chồng miền rẩy thì chỉ có ăn còng, không bằng về bưng có cá, về đồng có cua. Còng có nhiều miền Gò Công, sau vụ lúa thì còng bâu kín chân rạ.

Nỗi tự tình của người thôn nữ cũng dùng hình tượng gió vừa bóng bẩy, vừa kín đáo:Ðêm qua mưa bụi gió bay,Gió rung cành bạc, gió lay cành vàng, Em với anh cùng tổng khác làng, Nào em biết ngõ nhà chàng ở đâu!.
Nhà nhạc sĩ liên tưởng đến ngọn gió nhẹ khi hè về: Trời hồng hồng, sáng trong trong, Ngàn phượng rung nắng ngoài song, Cành mềm mềm, gió ru êm, Lọc màu mây bích ngọc qua màu duyên (Hè Về của Hùng Lân).

Ca dao ta có câu: Người ta đi cấy lấy công, Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề, Trông trời, trông đất, trông mây,Trông mưa, trông gió, trông ngày trông đêm, chứng tỏ gió là một yếu tố mà người nông dân chú ý trong công việc đồng áng. Người nông dân với tích lũy kinh nghiệm bao đời: Ðêm mù sương trăng sao không tỏ,Ấy là điềm mưa gió tới nơi,Ðêm nào sao sáng xanh trời,Ấy là nắng ráo, yên vui suốt ngày,Những ai
chăm việc cấy cày, Nhìn trời trông gió liệu xoay lấy mình.

3.Tại sao có gió ? 
Gió thổi vì có sự khác biệt về nhiệt độ trong bầu trời:

-chỗ nào có mây che thì không khí ở mặt đất không nóng nên nặng: áp suất không khí cao, tạo ra cao áp.

-chỗ nào không có mây che, trời nắng ráo thì không khí trở nên nhẹ, bốc lên cao: Hôm nay trời nhẹ lên cao.Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (thơ Xuân Diệu), và vì không khí nhẹ nên áp suất không khí thấp, tạo ra hạ áp. Và gió thổi từ chỗ cao áp đến hạ áp, cũng y như giòng nước chảy từ chỗ cao đến chỗ thấp.

Sự khác biệt về nhiệt độ trong bầu trời cũng biến thiên theo mùa (mùa hạ trời nóng, mùa đông trời lạnh), theo vùng (nhiệt đới nóng, ôn đới lạnh), theo đêm ngày (đêm mát vì không có mặt trời, ngày nóng vì có ánh nắng), theo địa hình (núi, thung lũng).Tóm lại, nóng không đồng đều trên mặt địa cầu đã tạo ra những nơi có khí áp cao hay thấp nên gió cũng có nhiều loại.

a/ theo cường độ, ta có gió thoảng, gió nhẹ, gió mạnh.Nếu sai biệt giữa cao áp và hạ áp không lớn lắm thì gió thổi yếu hơn:

Gió hiu hiu thổi mây vàng êm trôi (Bàng Bá Lân ) hoặc:Gió vi vu tiếng sáo diều, Ru hồn mục tử chiều chiều trên đê (Bàng Bá Lân)

Ta hãy để ý đến liên hệ giữa hai hiện tượng khí hậu: gió hiu hiu và mây vàng trong câu thơ ! Thực vậy, mây vàng như trong ca dao: Trên trời có đám mây xanh, Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng là khi thời tiết êm đẹp nên gió chỉ hiu hiu thổi (vì không có khác biệt giữa áp suất không khí)

-Nếu sai biệt giữa cao áp và hạ áp khá nhiều thì gió thổi rất mạnh:

Rùng rùng gió dục mây vần,Một xe trong cõi hồng trần như bay (Kiều) hay ào ào đổ lộc rung cây

-Nếu không có sự chênh lệch khí áp thì không khí sẽ không chuyển động: trời lặng gió.

b/ theo hướng ta có: gió Bắc, gió Nam, gió Ðông, gió Tây. Gió Bắc, còn gọi là gió bấc, là gió thổi từ miền Bắc Trung Hoa, đem hơi lạnh về vào các tháng 11, 12 đến tháng hai, tháng ba nên khí hậu nước Việt, nhất là miền bắc, khá lạnh. Các nhà văn cũng còn gọi gió mùa Ðông Bắc.

Vào mùa Ðông, có thổi từ vùng Siberia (cao áp) đến Việt Nam, đem theo không khí lạnh .. Dưới ngòi bút của nhà văn nữ Trần Mộng Tú:

Gió Mùa Ðông Bắc. Có không biết bao nhiêu thi sĩ, bao nhiêu nhạc sĩ đã xúc động về những cơn gió này và viết ra bao nhiêu tác phẩm làm thăng hoa đời sống con người để ngay cả khi đang sống trong một hoàn cảnh khó khan nhất, con người vẫn tìm ra cái đẹp của nơi mình đang sống. Khí hậu của tháng Mười Một và tháng Chạp âm lịch là khí hậu lạnh và đẹp nhất trong năm của miền Bắc. Gió hay trở lạnh đột ngột như một người đi xa bỗng trở về không báo trước. Có thể mới buổi sáng trời còn rất ấm không có gì báo hiệu là một ngày lạnh, nhưng đến trưa gió ở đâu bỗng kéo về chật phố. Gió chen chúc vào đám đông đang đi trên đường, gõ cửa những ngôi nhà, hang quán, ngồi sát vào những người buôn bán hai bên vỉa hè rất là hồn nhiên.

Chẳng cần nói năng gì cả. Chỉ cần có mặt, tôi đến, tôi ngồi xuống và tôi ở lại. Giống như Caesar ngày trước I came, I saw, I conquered. Thế là mọi người chạy ùa đi mua áo ấm để ngồi chung với gió.

Mùa thu ở Việt Nam, thường có gió heo may, một loại gió hơi lạnh và khô. Trong bản nhạc « Mưa Sai Gòn, mưa Hà Nội’ của nhạc sĩ Phạm Ðình Chương có nói về loại gió này: Mưa hoàng hôn,Trên thành phố buồn gió heo may vào hồn..

hoặc: Lìa xa thành đô yêu dấu,một sớm khi heo may về lòng khách tha hương vương sầu thương (Giấc mơ hồi hương của nhạc sĩ Vũ Thành)

Gió Nam, còn gọi là gió Nồm thổi vào mùa hè từ phía Ðông Nam, từ Ấn độ dương đem theo hơi ẩm từ biển vào và tạo mưa ở Thái lan, Miến Ðiện, Châu thổ Cửu Long, Cao Miên, từ tháng 6 đến tận tháng 10:Tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt (thơ Nguyên Sa)

Gió Tây hay gió Lào (gió fơn,foehn):Gió hình thành từ vịnh Thái Lan , di chuyển theo hướng Tây Nam - Ðông Bắc qua Campuchia và Lào. Vì gió ẩm khi thổi đến dãy Trường Sơn thì bị núi chặn lại, bốc lên cao, để lại một lượng ẩm lớn (dưới dạng mưa) ở sườn Tây (phía Lào). Khi vượt đỉnh núi, sang sườn Ðông, luồng không khí bị mất ẩm do quá trình theo sườn núi đi xuống thấp nên không khí trở nên khô và nóng. Gió thường xuất hiện từ đầu tháng Tư đến giữa tháng Chín, thường bắt đầu thổi từ 8-9 giờ sáng cho đến chiều tối, thổi mạnh nhất từ khoảng gần giữa trưa đến xế chiều. Gió Lào tạo ra khô nóng miền Nghệ An, Hà Tĩnh cho đến Quảng Trị. Dãy núi càng cao thì khi xuống núi, mức gia tăng nhiệt độ càng lớn và càng khô. Gió foehn cũng gặp nhiều nơi khác trên thế giới (British Columbia)

C/ theo vị trí địa lý : gió núi, gió thung lũng, gió biển, gió đất

-Tại các vùng có thung lũng và núi, có một loại hình gió mà ta gọi là gió núi và gió thung lũng. ban ngày, không khí trên núi nóng nhanh hơn dưới thung lũng nên gần đỉnh núi có hạ áp.Và vùng hạ áp này sẽ hút không khí từ dưới thung lũng, tạo ra gió thổi lên từ thung lũng lên núi.Loại gió này gọi là gió thung lũng. ban đêm trên núi nhiệt độ thấp, không khí lạnh và vì lạnh nên nặng, tạo ra cao áp do đó không khí này chảy theo sườn núi xuống thung lũng sinh ra gió núi.

-Tại các vùng gần biển, có một loại hình gió thường gọi là gió biển và gió đất. ban ngày mặt đất mau nóng hơn biển nên không khí nóng bốc lên cao (nóng, nhẹ) tạo ra vùng hạ áp còn không khí mặt biển còn lạnh nên nặng vì nóng chậm hơn mặt đất, tạo ra cao áp. Như vậy, có khác biệt nóng nhẹ (trên đất ) và lạnh nặng (trên biển) nên không khí nặng lạnh trên biển sẽ thổi vào đất để thế chỗ không khí bốc lên cao: ta gọi đó là gió biển (sea breeze, brise de mer ) thường thổi từ gần trưa đến xế chiều. Vào xế chiều thì không còn gió vì lúc đó cả áp suất lẫn nhiệt độ của mặt đất và mặt biển ngang đều nhau. ban đêm thì vì biển nóng hơn đất, nên không khí phía biển nhẹ bốc lên cao, tạo vùng hạ áp ở mặt biển, còn phía đất liền vì lạnh nên không khí nặng, rơi xuống đất, tạo ra cao áp ở mặt đất nên gió thổi từ đất (cao áp) ra biển (hạ áp) : ta gọi đó là gió đất (land breeze)

4. Không khí, hơi thở và tỉnh thức. Nói về gió, tức là nói về không khí vì gió là không khí chuyển động. Con người cũng như bao sinh vật khác không thể sống nếu không có không khí . Người ta thường nói ta có thể sống nhịn ăn 3 tuần, nhịn uống 3 ngày, nhưng chỉ có thể nhịn thở 3 phút .. Trong 4 chất đất, nước, gió, lửa thì ta có thể thấy được đất, nước và lửa chứ không khí ta chỉ cảm nhận vì không khí dễ biến thiên từ cơn gió thoảng đến cơn bão lốc; ta cảm nhận gió qua con diều bay, qua thưởng thức gió mát mùa hè, chiếc buồm căng gió.

.Không khí có hai chất hơi là oxy (21%) và nitơ (79%).Hô hấp (hít thở) không khí đóng một vai trò quan trọng nhất, trong sự sống con người. Ta thở vào để lọc qua lá phổi và thở ra giúp tống khứ hôi hám trong buồng phổi ra ngoài. Nói cách khác, thở vào là đem vào cơ thể các tư tưởng tích cực như từ, bi, hỉ, xả còn thở ra là để tống đi các tư tưởng tiêu cực như ghét, ghen, hờn, giận. Các tư tưởng tiêu cực gọi chung là nội kết (kết= ràng buộc).

Nội kết là gì? Ðó là những lo âu, phiền buồn, tiêu cực do lâu ngày không chuyển hoá được, kết lại thành khối trong bề dày của tâm thức. Ði thiền, ngồi thiền chính cũng là để kiểm soát và tự chủ được hơi thở, bước đầu kiểm soát được thân và tâm, nghĩa là để cuộc đời được thanh thoát, để gặp gỡ lòng khiêm nhường, để cuộc đời bớt hành trang thế tục, để thấy được nhu cầu của tha nhân, cảm thông chia sẻ với người còn bất hạnh, để không khởi lên một niệm tham, sân, si nào.Khi thở không khí thiên nhiên, hương đồng cỏ nội, “Người ngồi đây ngó mây trời biền biệt,Lơ thơ bay loáng thoáng cánh chuồn chuồn”(Bùi Giáng) khi dòng chảy của tâm thức bắt nhịp được và hoà nhập vào thiên nhiên thì mọi nội kết cũng sẽ bị ‘cuốn theo chiều gió’, thì hạnh phúc của ta không thể nghĩ bàn. Thiên nhiên trời cao mây rộng cũng giúp con người xả bỏ mọi bực nhọc, mọi phiền toái, quên đi mọi buồn phiền để sống an vui, xả bỏ để tạo phước lành.Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gong cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu, nhiều thời gian hơn để thư giãn và thực hiện những điều mình yêu thích, nhiều thời gian hơn để chia sẻ giúp đỡ người khác.

5. Các chức năng của gió

5.1. giúp di chuyển. Từ xa xưa, con người đã tận dụng sức gió trong các chuyến hải hành . Thương mại quanh bờ Ðịa Trung Hải nhờ các thuyền buồm, Christophe Colomb khám phá Mỹ Châu nhờ di chuyển trên tàu có cột buồm đón gió; các di dân đầu tiên đến bờ đông nước Mỹ cũng đến bằng thuyền buồm. Chúa Nguyễn từ miền Gia Ðịnh tấn công quân Tây Sơn ở

Bình Ðịnh, Phú Xuân cũng di chuyển bằng thuyền buồm nhờ sức gió:
Lạy trời cho chóng gió nồm
Cho thuyền chúa Nguyễn xuôi buồm chóng ra
Sửa sang buồm gió lèo mây
Khuyển, Ưng lại chọn một bầy côn quang
Dặn dò hết các mọi đường
Thuận phong một lá vượt sang bến Tề (truyện Kiều)
Tục ngữ ta cũng có câu: thuận buồm xuôi gió

5.2.tạo năng lượng. Gió là một tài nguyên tái tạo và trong sạch, không tạo ra khí nhà kính . Gió làm quay các cánh quạt, tạo ra điện năng và càng ngày các nước tận dụng sức gió để sản xuất ra điện

5.3.tâm linh.Trong Tiểu-Bộ Kinh 1 , Ðức Phật ở kinh Ẩn sĩ, có khuyên ‘giải thoát các trói buộc, không hoang vu, lậu tận’, ‘không phóng dật’ như ‘gió không vướng lưới, như sen không dính nước’ .. Hình ảnh ‘gió không vướng mắc, khi thổi qua màn lướí’ cũng được Ðức Phật nhắc lại trong kinh

Như tê-ngưu một sừng.

Ðức Phật cũng dùng hình ảnh Gió để khuyên đệ tử Rahula:Này La Hầu La, con hãy học cách cư xử của GIÓ: Gió có thể tiếp nhận, thổi và chuyển hoá mọi mùi hương .. dù thơm, dù thối, mà không bị vướng mắc, tự hào, buồn khổ, hay tủi nhục... Tại sao? Tại vì gió là phong đại có dung tích rộng lớn, có khả năng di động phi thường.Nếu tâm con có khả năng chuyển hoá và di 1 Thiện Nhựt Huỳnh Hữu Hồng Tìm Hiểu và Học Tập 2008 động, thì con cũng có thể tiếp nhận và chuyển hoá tất cả mọi bất công và oan ức..mà kẻ khác trút lên con và những thứ ấy không thể làm xáo trộn được sự bình an và hạnh phúc trong con.Con lại cũng nên học hạnh của không khí. Không khí thổi đi các thứ mùi, mà vẫn không cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường.

Thực vậy, nếu tâm không phân biệt, tâm không kỳ thị, tâm không vướng mắc thì tâm có thể tiếp nhận và chuyển hoá được mọi thứ một cách tự nhiên:

Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động không sầu
Không uế nhiễm, an ổn,Là điềm lành tối thượng

Trong Tăng-Chi-Bộ kinh, trong Kinh những câu hỏi lớn, có đoạn:. Một thời, Thế Tôn ngụ tại tịnh xá Cấp-cô-độc (Anathapindika), rừng Kỳ đà (Jetavana), nước Xá vệ (Savatthi), giảng kinh NHỮNG CÂU HỏI LỚN, dạy các Tỳ kheo cách trả lời các câu hỏi của du sĩ ngoại đạo

Nghe các Tỳ kheo trình lại, các du sĩ ngoại đạo nói: ‘Tu sĩ Cồ đàm (Gotama) dạy các đệ tử hãy thắng tri tất cả các pháp và hãy an trú, chúng tôi cũng dạy như thế thì có gì là đặc thù, khác với nhau đâu?’. Thế Tôn bảo:’ Này các Tỳ kheo, nghe nói như vậy, các Thầy nên trả lời như vầy: Một câu hỏi cần một câu trả lời; hai câu hỏi, hai câu trả lời …, mười câu hỏi thì mười câu trả lời. Như thế, họ sẽ bối rối vì các vấn đề đó vượt ra ngoài địa hạt của họ.Thế Tôn lại bảo:’Này các Tỳ kheo, thế nào là một câu, hai câu hỏi ..mười câu hỏi cần một câu trả lời, hai câu trả lời, mười câu trả lời?

Câu hỏi về một pháp: ‘tất cả chúng sanh tồn tại đều nhờ thức ăn. Trong một pháp này, Tỳ kheo nào chơn chánh nhàm chán, ly tham, giải thoát và ngay trong hiện tại thấy được ý nghĩa cùng cứu cánh là người chấm dứt được mọi khổ đau.

Câu hỏi về hai pháp: ‘Danh và Sắc’ .Trong hai pháp này, Tỳ kheo nào chơn chánh nhàm chán, ly tham, (như trên )..là người chấm dứt được mọi khổ đau
Câu hỏi về ba pháp: Ba thọ (khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ).
Trong 3 pháp này, Tỳ kheo ..(như trên)..mọi khổ đau.

Câu hỏi về bốn pháp: ‘bốn loại thức ăn’ (đoãn thực, xúc thực, thức thực, tư duy thực). Trong 4 pháp này, Tỳ kheo ..(như trên)..mọi khổ đau.
Câu hỏi về năm pháp: ‘năm thủ- uẩn’ (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) . Trong 5 pháp này, Tỳ kheo… (như trên)....khổ đau
Câu hỏi về sáu pháp: ‘sáu căn’ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Trong 6 pháp này, Tỳ kheo… (như trên)....khổ đau

Câu hỏi về tám pháp, còn gọi là bát phong…Bát phong là một thuật ngữ Phật học, nói theo ngôn ngữ thông tục là tám ngọn gió tượng trưng cho tám dao động trong lòng người hay tám trở lực đối với người tu chính, rèn luyện tu dưỡng nhân cách đạo đức và nói cách rộng hơn là các chướng ngại trên con đường giác ngộ giải thoát.

Tám ngọn gió đó là:
- Lợi (praise) Khuynh hướng chuộng danh lợi, thu vén, vun đắp lợi ích cho cá nhân mình, hay tham lam, thích chiếm hữu.
- Xưng (acclaim/gain) Tâm lý ưa thích tâng bốc, khen ngợi, muốn ta là người hoàn hảo, nổi tiếng đình đám.
-Dự (benefit): ưa chuộng địa vị, tôn vinh quyền thế.-
-Cơ (ridicule): ưa thích dèm pha, cạnh khóe đối với người khác. dựng sự

việc giả để nói xấu người

-Hủy (destruction) là sự hủy nhục, khinh rẻ, sự chê bai
-Suy (loss bad repute) là sự tổn hại, thiếu may mắn, suy sụp.
-Khổ (suffering): gặp những ngang trái, bất hạnh, đau khổ, gặp cảnh nghịch duyên. chướng duyên nghịch cảnh, thân tâm bị bức bách, khổ não,
-Lạc (happiness): trạng thái hưng phấn, gặp được duyên tốt, thuận cảnh, thân tâm vui vẻ, hân hoan hoan hỉ khi gặp thuận duyên và trở nên kiêu căng, tự mãn.

Cuộc sống của con người chẳng mấy khi được bình an, vì luôn bị tám ngọn gió này chi phối. Do vậy, muốn thiết lập hạnh phúc và an vui trong đời sống chúng ta phải giữ vững tâm ý khi tiếp xúc, đối diện với tám ngọn gió này.
Con người thường giao động, thể hiện cảm xúc vui buồn rõ rệt trước những hoàn cảnh thuận nghịch của cuộc sống.

Khi được lợi (lợi) thì vui mừng hớn hở, ngược lại khi bị mất mát, tổn hại (suy) thì buồn bã, tiếc nuối.Khi bị chê bai, chỉ trích (hủy) cảm thấy rất khó chịu nhưng khi được khen ngợi (dự) thì vui thích, hài lòng. Khi được mọi người xưng tán, tung hô (xưng) thì hả hê, ngất ngây hạnh phúc ngược lại khi bị chế diễu, vu khống (cơ) thì hậm hực, bức xúc không yên.Khi những điều không như ý ập đến (khổ) thì đau khổ, thở than và ngược lại khi mọi việc đều thuận lợi như ý (lạc) thì mừng rỡ, vui vẻ.

Vậy bát phong bao gồm những đam mê dục lạc, danh vọng, tiền tài, lợi lộc, đố kỵ, ganh ghét, sân hận, hơn thua, được mất và như vậy, câu hỏi là làm sao chế ngự được bát phong ? Phải quán sát liên tục để thấy rõ bản chất của tám ngọn gió đời ấy tuy thường xuyên thổi đến nhưng thực chất chỉ là ở bên ngoài, bởi vì mình đeo bám, bị dính mắc nên mới bị chúng chi phối.

Phải thường xuyên tự nhắc nhở là bát phong vốn vô thường, có đó rồi không đó nên khi được cũng không quá mừng, lúc mất cũng không quá buồn, được khen không kiêu, bị chê không giận vì không có gì trường cữu thì có thể chế ngự được bát phong. v.v.Thì cũng như mây trời, có tụ, có tan, mây ra mưa, mưa vào sông suối, chảy về biển cả và bốc hơi lại thành mây.

Phải vô trụ nghĩa là không bám víu vào khen chê, danh vọng để có thể sống vững chãi và thảnh thơi trong vô vàn biến động thuận nghịch của cuộc đời.
Phải vô ngã, tập tính khiêm hạ . Sống vững chãi và thảnh thơi trong vô vàn biến động thuận nghịch của cuộc đời là điều có thể thực hiện được nhờ thực tập và thành tựu tuệ quán về ba sự thật Vô thường- Khổ-Vô ngã của vạn pháp.

Phải quán sát liên tục để thấy rõ bản chất của tám ngọn gió đời ấy tuy thường xuyên thổi đến nhưng thực chất chỉ là ở bên ngoài, bởi vì mình đeo bám, bị dính mắc nên mới bị chúng chi phối. Ðại thừa vô sanh phương tiện môn (Ðại chính 85, 1247 hạ) chỉ rõ: “Nếu thân tâm vắng lặng an ổn thì tám gió thổi không động”. Cũng như chuyện “gió động hay phướng động”, thì ra tâm người động chứ gió và phướng chỉ là chuyện bên ngoài. Những giao động của tâm thức như là sóng nhưng bên dưới sự ầm ào đó là yên lặng.

6. Kết luận.Như vậy, gió/không khí là một yếu tố quan trọng của Tứ Ðại. Ngày nay, không khí càng ngày càng ô nhiễm vì xe cộ, nhà máy, cháy rừng, núi lửa phun toả lên bầu trời nhiều khí gây ra biến đổi khí hậu.

Ngoài ô nhiễm khí hậu lại thêm ô nhiễm tâm linh với bạo lực, nghèo về tình thương, nghèo về đạo đức. Muốn phục hồi lại các giá trị cao cả của con người thì cần khôi phục lại niềm tin. Niềm tin là hơi thở, là ngọn gió lành cho cuộc sống xô bồ hôm nay, là cầu nối giữa Thân và Tâm. Nhiều danh từ như prana (tiếng Sanskrit), pneuma (tiếng Hi Lạp), spiritus (tiếng Latin), ruach (tiếng Do Thái), đều chuyên chở liên hệ giữa hai yếu tố hồn/tinh thần và hơi thở/gió. Một cơn gió nhẹ đưa người về dĩ vãng, chở theo hồn về, như Nguyễn Du đã cho nàng Kiều thốt ra khi dặn em là Thuý Vân:Trông ra ngọn cỏ lá cây,Thấy hiu hiu gió thì hay chị về, Hồn còn mang nặng lời thề

.Trong Chinh Phụ Ngâm cũng có câu: Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Có niềm tin, may ra chúng ta mới có thể xua tan cái nhá nhem nơi ngõ ngách tâm hồn mình, xua đêm nhập nhằng nơi cõi nhân sinh và xua đi cả u minh cuồng si đang trùm phủ nhân loại.Không bám víu vào những thứ
vô thường, những thứ mong manh phù phiếm; hãy để gió cuốn đi các ràng buộc, các dính mắc, để cho tâm tự tại vì tự tại là sự tự do bên trong và đó là chân hạnh phúc, là hạnh phúc ba la mật, là thực sự ‘hành
thâm’ và đó là sự sống.

Thái Công Tụng
Kính chuyển

Không có nhận xét nào: