Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024

Chupao Nhuộm Máu Quân Thù - Trần Văn Bường,


Hằng năm, cứ vào Ngày Quân Lực, 19 tháng 6 đến, tôi lại nhớ đến trận chiến thập tử nhất sinh xảy ra đúng vào ngày lễ trọng đại này, vào năm 1972 tại căn cứ 41A nằm sát chân Đèo Chupao trên QL14 từ Pleiku đến Kontum. Tôi tưởng đâu mình đã ngồi trên bàn thờ “ngắm gà khoả thân” rồi, nhưng may mắn thay trong “Sổ Phong Thần” chưa có tên về chầu Diêm Vương nên đơn vị tôi đã phản công một cách ngoạn mục gây thiệt hại nặng nề cho quân đặc công Cộng Sản phải “bỏ của chạy lấy thân” để lại nhiều vũ khí giá trị và nhiều xác “đồng chí, đồng rận” mặt mày còn non choẹt.
<!>
Những ai đã từng sống hoặc hành quân ở cao nguyên Vùng 2 Chiến Thuật thời VNCH trước đây chắc đã hơn một lần nghe đến tên Đèo Chupao, trải dài theo Quốc lộ 14 nối dài từ Pleiku đến Kontum. Đèo này quanh co khúc khuỷu đầy nguy hiểm với núi cao chạy dài theo hai bên quốc lộ. Lợi dụng địa thế, Việt Cộng thường đóng chốt nhiều nơi hẻo lánh dọc chân đèo hầu chận đường tiếp tế và gây tổn thất lẻ tẻ cho quân ta trong giai đoạn Mùa Hè Đỏ Lửa (1972).

Đóng quân trong căn cứ hoả lực 41A lúc đó gồm Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 22 BĐQ Biên Phòng của Trung Tá Dương Đức Mại, pháo đội 105 ly gồm 6 khẩu đại bác trực tiếp yểm trợ cho liên đoàn này trong các cuộc hành quân giữ và mở đường. Tiểu Đoàn 71 BĐQ Biên Phòng cùng chung liên đoàn, do Thiếu Tá Đồng Đăng Khoa, Khóa 19 Võ Bị làm tiểu đoàn trưởng, ban ngày hoạt động mở đường, đêm phòng thủ trong căn cứ. Gần căn cứ có đoạn đèo khá ngoằn ngoèo và độ dốc hơi cao. Từ hơn tháng nay, mỗi khi xe nhà binh hay xe cứu thương muốn vượt qua khúc eo này thường phải chạy nhanh tránh địch bắn sẻ nên dễ gây tai nạn. Nếu chạy chậm thì xe sẽ làm mồi cho B40 hay B41. Xe đò đương nhiên không dám chạy. Khi tài xế bị thương xe có thể bị lật và xe sau thắng không kịp (hay không dám thắng gấp) có thể gây thêm tai nạn cho người từ xe trước bị văng ra, nên ta có thể nói người chết hai ba lần thịt da nát tan là vậy. Dù biết chỗ đó nguy hiểm nhưng ta không đủ quân bảo vệ (?). Pháo binh trong căn cứ
thường lai rai bắn yểm trợ quân bạn đang mở đường về hướng Kontum suốt ngày đêm.
Pháo đội B của Tiểu Đoàn 233 Pháo Binh của tôi từ Phan Rang (Ninh Thuận) vừa mới vào căn cứ này thay thế pháo đội A (cùng TĐ233 PB) vào lúc 4 giờ chiều ngày 17 tháng 6 năm 1972. Đoàn quân chúng tôi vừa vào cổng căn cứ liền đón nhận những tràng đạn pháo kích “chào mừng” của địch quân. Rất may pháo đội tôi không bị sứt mẻ gì. Chúng tôi chỉ thay người, còn súng đại bác để lại tại chỗ. Từ lúc đó tôi trực tiếp chỉ huy 6 khẩu đại bác 105 ly tại căn cứ này. Hằng ngày cứ mỗi lần pháo binh bắn yểm trợ quân bạn, Việt Cộng lại pháo vào vị trí của pháo đội không ngoài mục đích giới hạn khả năng yểm trợ quân bạn của pháo đội một cách tự nhiên theo nhu cầu, khiến pháo thủ ta không thể đứng mãi một chỗ trống bắn, mà chỉ bắn mấy tràng rồi chạy vào hầm núp chờ sau khi địch pháo kích xong ta lại ra bắn tiếp. Tình thế đó suốt ngày này sang ngày khác, pháo binh ít có thời giờ ngơi nghỉ và chôn bỏ thuốc nạp thừa.
Rút được kinh nghiệm chống đặc công trước đây tại Vùng 4 Chiến Thuật, cứ mỗi lần di chuyển súng đến vị trí mới tôi cho lệnh thuộc cấp kéo dây kẽm gai vòng (concertina) ngang dọc trong vị trí hầu ngăn cản địch không thể di chuyển dễ dàng, nếu chúng đã vượt qua được những lớp hàng rào kẻm gai bên ngoài do bộ binh bảo vệ. Chính thuộc cấp tôi cũng khó khăn khi di chuyển trong đêm. Mỗi vọng gác thường có 2 người để yểm trợ lẫn nhau và bắt đầu gác đôi từ 1 giờ khuya đến 4 giờ sáng.

Đêm đó (18/9/1972), Trung Úy Nguyễn Văn Anh và tôi ngủ chung trong một hầm nổi (trên mặt đất) được những tấm tôn cong hình bán nguyệt bao che, sắp theo hình chữ L có lớp bao cát chất quanh chống đạn pháo kích. Trung Sĩ Nguyễn Văn Quang và Hạ Sĩ Thạch trực trong đài tác xạ (đài tính yếu tố cho súng bắn) gần đó. Hầm này được đào sâu ngang mặt đất. Khác với nhiều đêm trước đây địch thường pháo kích lai rai vào căn cứ, đêm nay chung quanh im lặng khác thường. Từ lúc màn đêm buông xuống, căn cứ chìm trong cảnh vắng lặng điu hiu bên sườn đồi trống trải đầy mùi tử khí hòa lẫn mùi thuốc súng bốc lên ngột ngạt. Yên lặng đến nỗi những tiếng cóc nhái, ễnh ương hòa lẫn những tiếng rên rỉ của các loại côn trùng, than khóc cho số kiếp không được làm người, tạo thành những điệp khúc ai oán bên tai dễ đưa người vào giấc ngủ sau nhiều ngày bận rộn yểm trợ, hành quân mở đường. Ðặc biệt hơn nữa, đơn vị bên ngoài cũng không yêu cầu Pháo Binh yểm trợ như thường lệ. Tôi nghĩ thầm, hôm nay Việt Cộng sao tử tế quá không đánh phá các tiền đồn nào cả. Tuy nhiên, tôi vẫn nhắc nhở thuộc cấp canh gác cẩn thận, rồi chìm dần vào giấc ngủ lúc nào không biết. Bỗng dưng khoảng hơn 3 giờ rưỡi sáng, những tiếng nổ đồng loạt nhiều nơi trong căn cứ và ngay cả các ụ súng đại bác, đánh thức chúng tôi một cách đột ngột. Chỉ mấy mươi giây đồng hồ tỉnh táo lại sau giấc ngủ dở dang, tôi biết ngay đó là tiếng thuốc nổ bêta chứ không phải pháo kích. Tại sao không có tiếng súng nhỏ nào của phe ta phản ứng? Biết địch đã lọt vào vị trí nhưng chúng tôi chưa vội nhảy xuống đài tác xạ ngay vì sợ lính mình tưởng địch bắn lầm bỏ mạng vô lý.
Tôi liền gọi anh Thạch (truyền tin):
- Mang máy lên, Thạch.
Tiếng kêu vừa dứt, tôi được trả lời bằng mấy quả bêta từ đâu nhá lửa trước miệng hầm chúng tôi ngủ; khói bụi bay mù mịt. Tôi bị choáng váng tưởng bị thương nặng nên than với Trung Úy Anh:
- Tao chết rồi, Anh ơi!
Trung Úy Anh đẩy tôi vào trong và ra sát cửa hầm thế tôi chờ nhảy xuống đài tác xạ. Chưa đầy 15 giây lại bị
nhiều quả bêta nữa nổ tiếp chỗ cũ, lúc này chính Anh lại rên:
- Tôi chết rồi, Ðại Úy ơi!
Khi nghe Trung Úy Anh than chết, tự nhiên tôi cảm thấy hơi khoẻ lại. (Hầm chỉ có 2 người còn chờ ai lo cho mà làm nũng)! Vì những trái bêta rớt kế ngoài miệng hầm không đủ sức ép gây giết người bên trong nên sau chừng một phút tỉnh lại, rờ khắp người không thấy bị sứt mẻ gì, tôi liền quyết định phải nhảy xuống đài tác xạ thúc giục lính ra chiến đấu chứ không thể núp trong hầm này chờ chết, hay đưa hai tay cho địch còng.
Bên ngoài vẫn yên tĩnh không nghe tiếng súng nhỏ nào,
ngoại trừ những tiếng chân chạy thình thịch. Thế rồi cả 2 anh em chúng tôi liều mạng (để tự cứu mình) vừa chạy xuống hầm vừa la lớn (vì sợ phe ta dưới hầm tưởng địch bắn lầm):
- Tao xuống hầm đây. Quang đừng bắn!
Tôi vừa chui vào trong hầm cách nơi ngủ chừng mươi thước, lại một loạt tiếng nổ ầm ầm phía sau, bụi đất văng tứ tung. (Nhờ nhanh chân chứ chậm chạp như tuổi này là lên bàn thờ cả rồi). Vào trong hầm đài tác xạ chừng mươi giây đồng hồ để nhận xét tình trạng ngoài các ụ súng, Trung Úy Anh và Trung Sĩ Quang liền nhảy ra các khẩu đại bác hô hào lính ra phản công bằng đủ loại súng, trong đó đại bác bắn trực xạ với loại đạn “bi-hiu” (beehive) và đạn nổ cao ghi sẵn ‘2 giây’ về hướng địch. Loại đạn ‘bi hiu’ khi nổ, 2 ngàn mũi tên nhọn như cây đinh lớn chứa bên trong bay ra tứ phía. (Quả đạn này cũng tự động nổ khi ra khỏi nòng súng 2-3 giây đồng hồ; dùng để phòng thủ chống biển người rất hiệu quả). Từ các vọng gác tự động cũng như những pháo thủ tại các khẩu đại bác (vừa bị bất khiển dụng vì đặc công), đều dùng vũ khí cá nhân sẵn có trực tiếp chiến đấu với địch, một cách can trường.
Trong khi đó, tôi báo cáo rõ tình hình lên Pháo Binh Sư

Đoàn 23 xin pháo binh nơi khác tiếp tục yểm trợ bên ngoài bờ rào, nghi nơi địch xuất phát. Chính Ðại Úy Cảnh, sĩ quan liên lạc Liên Ðoàn 22 BÐQ vừa làm việc này sau khi nghe tiếng bêta của địch. Sau khi nghe tiếng tôi báo cáo rõ ràng tình hình, từ đầu máy bên kia Trung Úy Từ Ðức Tài (K.22TĐ) đang trực Pháo Binh Sư Đoàn 23, hối thúc pháo đội của Đại Úy Phạm Văn Sáu (K20TĐ) và Đại Úy Bùi Minh Ngọc (các bạn thời trung học tại Phan Thiết), đóng tại căn cứ Pleimerong: “Bắn nhanh lên kẻo địch tràn ngập vị trí Bắc Bình (danh hiệu của tôi).” Báo cáo vắn tắt xong, tôi để Hạ Sĩ Thạch tiếp tục yêu cầu bắn các điểm cũ, phần tôi ra chỉ huy các khẩu đội phản công mãnh liệt hơn.
Trước nguy hiểm mà có bạn bè đồng hương và đồng môn của tôi (như Từ Đức Tài, Phạm Văn Sáu và Bùi Minh Ngọc) tận tình bắn yểm trợ từ xa, tinh thần chiến đấu của mọi người càng tăng lên, quên cả mạng sống. (Thương thay Đại Úy Bùi Minh Ngọc sau này đã hy sinh trong trận mở màn Chiến Dịch Mùa Xuân 75 của Cộng Sản tại Quận Ðức Lập, thuộc tỉnh Quảng Ðức ngày Chủ Nhật 9 tháng 3, 1975, trước một ngày tỉnh Ban Mê Thuột bị tấn công và thất thủ.) Khi đó, ngoài nhiệm vụ Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh kiêm Tham Mưu Phó Hành Quân Tiểu Khu và cũng đang xử lý thường vụ Tham Mưu Trưởng tỉnh này, tôi đang bay trực thăng chỉ huy với Đại Tá Tỉnh Truởng Phạm Văn Nghìn, trên vùng Đại Úy Ngọc mà chẳng cứu được bạn hiền.
Bị phản công chính xác bất ngờ bằng mọi loại súng, dồn địch vào thế bị động. Khi biết pháo binh phản công, lính BĐQ/ BP của Thiếu Tá Ðồng Văn Khoa, bị VC bắt giữ từ đầu trận thoát, chạy vào vị trí tôi run sợ nói lớn:
- Tụi em Biệt Ðộng Quân đây, Đại Úy đừng bắn.
Tôi liền quát:
- Trời tối, tao không thể phân biệt đuợc ai. Ra ngồi đằng sau kia hết, chạy bậy bắn chết chịu.
Đúng như vậy, trời tối thui chỉ thấy bóng dáng lờ mờ làm sao phân biệt được. May họ là BĐQ chứ Việt Cộng thì mình kể như xong vì gần quá. Phản công một lúc, tiếng nổ bêta, B40, B41, và AK47 mỗi lúc thưa dần khi căn cứ được pháo binh từ xa soi sáng. Nhắm chịu không nổi địch đành ‘chém vè’ lủi tứ tung tìm đường thoát thân. Màn sương tan dần, bầu trời mỗi lúc một rõ hơn. Nghe im tiếng súng, 2 tên đặc công Cộng Sản núp nơi nào đó trong vị trí pháo binh bỗng chạy ra nhưng đã trễ rồi. Sau ba tiếng kêu “đứng lại”, chúng ngoan cố tiếp tục chạy, anh pháo thủ gác trên hầm đạn bắn tiếp một loạt trung liên BAR. Cả 2 về với “bác”.
Trời vừa hừng sáng, tôi cho thu dọn chiến trường, tịch thu đuợc 14 khẩu súng phần nhiều là AK47 bá xếp, 2 khẩu K54, 2 máy truyền tin Trung Cộng, và nhiều khối thuốc nổ bêta. Không những chúng chỉ bỏ của chạy lấy thân mà còn để lại những 19 xác chết, hầu hết mặc quần đùi, mặt còn non choẹt đáng thương hại. Không biết chúng đã mang đi bao nhiêu xác.
Tôi cho lệnh thuộc cấp đem xác địch chôn ngoài bờ rào căn cứ sáng đó. Riêng phần đơn vị tôi bị hư hại 3 khẩu đại bác 105 ly vì thuốc nổ bêta và B40 hay B41. (Khi chúng tôi ra phản công đã thấy bị hư 2 khẩu rồi).

Có một điều huyền diệu không ngờ về nhân mạng; đơn vị tôi chỉ có 1 pháo thủ hy sinh. Đó là người bạn học của tôi từ thời khố rách, Trung Sĩ Nguyễn Văn Quang. Quang đã hy sinh vì tổ quốc, cứu đuợc nhiều đồng đội. Đặc biệt hơn, chính anh Quang và Trung Úy Nguyễn Văn Anh cùng nhiều đồng đội khác đã góp phần bẻ gẫy đà tấn công của VC hôm đó. Quang đã trúng nguyên quả đạn B41 ngay lúc tay đang giựt cò đại bác trực xạ mấy quả đầu tiên. Phần tổn thất của Biệt Động Quân ít thôi không đáng kể.
Thường đối phương thấy chắc ăn mới tấn công ta, đặc biệt hôm đó lại là Ngày Lễ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (19 tháng 6 năm 1972). Có lẽ chúng nghĩ ngày đại lễ chúng ta lo ăn nhậu no say, lơ là nhiệm vụ, nên đánh là chắc thắng. Nhưng chúng đã lầm đành chuốc lấy thảm bại, đau thương khi đụng phải một đơn vị nhanh nhẹn, gan dạ, và cấp chỉ huy biết lo xa cho tính mạng thuộc cấp, cũng như cho chính bản thân. Chính những vòng dây kẽm gai phòng ngừa bao quanh vị trí pháo binh như nói trên đã hạn chế VC di chuyển tấn công nhanh, đã góp phần không nhỏ ngăn cản địch, bảo vệ chúng tôi.
Khoảng 7 giờ sáng, khi mặt trời lên hơi cao, khi những màn sương rải rác lờ lững lúc hừng sáng đã tan hẳn trên trận địa, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai (Chỉ Huy Trưởng lãnh thổ Quân Khu 2) bất ngờ đáp trực thăng xuống căn cứ. Địch quân lại pháo bằng súng cối 82 ly (vì thấy trực thăng đáp tức phe chúng chém vè hết rồi). Tôi đội mũ sắt, áo giáp ra đón và hướng dẫn ông đi quan sát chiến trường. Ông rất oai nghi can đảm, đang pháo kích như vậy, ông chỉ đội cái beret nâu cầm cây ‘baton’ đứng quan sát mặt trận tỉnh bơ rất lâu không quan tâm địch đang pháo kích.
Tôi nghĩ thầm: “Là tướng ông không sợ chết, mình ăn thua gì.” Vì vậy tôi yên chí hướng dẫn ông đi quan sát tận nơi địch cắt hàng rào kẻm gai, chỗ nào địch bị bắn ngã trên những vòng kẽm gai tròn và chỗ nào địch chết vì đạn beehive bắn trực xạ.
Từ hầm BCH/LĐ22/ BĐQ, Trung Tá Dương Ðức Mại đến gặp Tướng Hai và ca ngợi hành động chiến đấu anh dũng của pháo binh khi hôm và nhận trách nhiệm không chu toàn bổn phận phòng thủ của đơn vị Biệt Ðộng Quân đêm rồi. Tôi còn nhớ lời ông trình với Chuẩn Tướng Trần Văn Hai:
- Thưa Thiếu Tướng, đêm qua pháo binh phản ứng rất nhanh. Nếu pháo binh không phản ứng chính xác và kịp thời, địch đã tràn vào Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn rồi.
Ông cũng đề nghị cấp trên ân thưởng đơn vị tôi. Cố vấn Mỹ của Liên Đoàn 22 BĐQ sang bắt tay cám ơn đơn vị tôi. 1 tháng sau tôi nhận được một Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao bạc do Đại Tướng Westmoreland ký.

Tôi khâm phục thái độ trung thực của cấp chỉ huy dám chịu trách nhiệm như Trung Tá Mại. Lúc đó nếu pháo binh không phản ứng nhanh lại lo núp mãi trong hầm chờ người khác cứu mình thì chắc chắn toàn đơn vị nếu không chết cũng sẽ bị hốt trọn cả đám. Trong một tình thế quá bất lợi khi địch đã âm thầm tràn đầy vị trí sát nách mình, vậy mà chúng tôi đã mạnh bạo không chần chứ rời vị trí tạm cho là an toàn (an toàn chờ địch bắt sống) ra đối diện địch trong tình thế dường như thừa chết thiếu sống, vì địch thấy ta mà ta không thấy địch. Nào ngờ khi đơn vị pháo binh của tôi bắt đầu nổ súng khiến địch mất tinh thần, hàng ngũ bấn loạn, và chẳng bao lâu sau địch chỉ làm bia cho pháo binh thực tập và kết quả cuối cùng như vừa nêu trên.
Khoảng 10 giờ sáng hôm đó (19/6/72), nói khác đi, sau
khi Chuẩn Tướng Hai thị sát xong mặt trận, tôi được lệnh về Pleiku nghỉ ngơi vì có người khác lên thế; còn đại bác hư chờ tối chở về. Lợi dụng cơ hội rảnh rỗi này tôi vào nhà xác Quân Y ViệnPleiku viếng và cầu nguyện cho linh hồn anh Nguyễn Văn Quang sớm siêu thoát.
Cũng buổi sáng hôm đó, tình cờ tôi gặp Thiếu Tá Quân
Cảnh Trương Văn Cao, người bạn cùng Khóa 18 ĐàLạt với tôi, đang lảng vảng trong BCH/QĐ2. Sau vài năm không tin tức gì nay lại gặp nhau một cách bất ngờ nơi cao nguyên sương mù quanh năm này. Lúc bấy giờ anh Cao đã đeo lon thiếu tá, làm trưởng trại tù binh Cộng Sản tại Pleiku. Vừa gặp nhau Cao hỏi:
- Mầy chuyển đến đây hồi nào?
Vì bạn cùng khóa, dù cấp bậc kém hơn Cao, tôi cũng xưng hô một cách thân thiện:
- Đơn vị tao vừa được chuyển lên căn cứ 41A chưa tới 2 ngày lại bị Việt Cộng tấn công tơi bời hồi khuya này.
Th/Tá Trương Văn Cao à lên một tiếng rồi lại tiếp:
- Tao nghe thấy súng nổ rực trời tưởng căn cứ đó đã xong rồi nào ngờ có mầy ở đó và bây giờ hiên ngang nơi đây. Chúc mừng bạn “Người về từ cỏi chết”.
Cũng chính bạn Trương Văn Cao đã tổ chức buổi tiệc gọi là ‘rửa lon’ cho tôi trong văn phòng trại tù Cộng Sản Pleiku, đãi vài vị thượng cấp và bạn bè của chúng tôi. Tiếc thay nay anh Trương Văn Cao không còn nữa, để lại gia đình và bạn bè nhiều thương tiếc. Riêng 2 chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm đặc biệt từ lúc còn là SVSQ, thời gian phục vụ tại Pleiku và gần nhất là những ngày giờ cuối cùng của đời anh tại Houston, Texas.
Xin mở dấu ngoặc nơi đây để nhắc lại một kỷ niệm khá đặc biệt khác trong dịp này. Một tuần lễ sau trận thắng này tôi được lệnh lên Kontum gắn lon thiếu tá. Chiếc xe jeep chỉ có tôi và anh tài xế khởi hành từ Pleiku trực chỉ Kontum. Khi ghé vào thăm căn cứ cũ (41A, nơi tôi hụt chết tuần rồi), hầu hỏi thăm tình hình đoạn đường sẽ đi qua. Nào ngờ tôi lại gặp Đại Úy Phạm Văn Cẩm, người bạn cùng khóa 18 Đà Lạt, đang đứng trước hầm chỉ huy, tôi hỏi Cẩm:
- Ủa! Mới gặp mầy ở vùng 4 năm nào nay lại xuất hiện ở đây?
Cẩm cho biết là anh đang làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 45SĐ23BB, vừa vào thay LĐ22 BĐQ bảo vệ căn cứ này 1 tuần nay.
- Nghe nói pháo binh mầy vừa thắng trận phản công tại đây. Ngon lành quá mà.
- Ngon lành thì có, nhưng chắc nhờ may mắn không ít. Tôi trả lời một cách khiêm nhường như vậy rồi lại tiếp:
- Nhờ chiến thắng oanh liệt đó nên hôm nay tao được gọi lên Kontum gắn lon thiếu tá đặc cách mặt trận.
Sau mấy phút mừng vui tao ngộ nơi chiến địa hôm nào,
Cẩm cho tôi biết tình hình đường đi Kontum từ ngày VC thất bại đến nay rất yên tĩnh.
- Hình như chúng rút hết cả rồi không còn khả năng bám phá đây nữa. Xe đò đã di chuyển lại bình thường và lính tao vẫn hiện diện tại những khúc quanh khá nguy hiểm rồi. Mầy yên tâm!
Rồi Cẩm lại đùa thêm câu:
- Nếu có gì xảy ra biết liền, đừng lo.

Dứt ly cà phê được Cẩm đãi, thầy trò tôi từ giã lên xe “dọt lẹ” lên Kontum để kịp dự lễ gắn lon. Lần đầu tiên chỉ một chiếc jeep lon ton vượt qua đoạn đường khúc khuỷu, quanh co, nhiều chỗ sát chân núi hẹp. Sau khi đến nơi được gắn cặp lon mai bạc sáng chói trên hai cổ vai áo, người tôi cảm thấy sung sướng làm sao! Vội cầm tờ công lệnh xem, tôi rất ngạc nhiên vui thầm khi thấy có tên ngườibạn mình cùng được thăng cấp chung trong danh sách với mình mà anh ta chắc chưa biết. Đó chính là người bạn vừa mới tiễn chân mình hồi sáng - Phạm Văn Cẩm. Tôi vội vàng ra phố Kontum tìm mua thêm cặp lon thiếu tá mới “cáu cạnh” nữa để đem về tặng Cẩm. Tình cờ (lại tình cờ nữa), tôi gặp vợ chồng bác sĩ Tạ Kim Điện đang dạo phố. Tạ Kim Điện là bạn học cùng lớp với tôi tại Sài Gòn. Sau khi tôi vào học trường VBĐL thì anh cũng vào trường Quân Y.
Về sau này chính thân phụ anh (Bác Nam Việt) đã đại diện ba má tôi trong lễ cưới của chúng tôi vào đầu Thu năm 1968 tại Sài Gòn và chính Tạ Kim Điện trong vai trò “rể phụ”. Anh ra trường Quân Y lúc nào và phục vụ ở đâu tôi không biết, lại bất ngờ gặp nhau nơi cao nguyên đèo heo hút gió này. Anh cho biết đang phục vụ tại Bệnh Viện Kontum từ lúc ra trường Quân Y đến nay. Vợ chồng anh liền mời tôi dùng bữa cơm trưa khá thịnh soạn tại một nhà hàng gần đó.
Bác sĩ Tạ Kim Điện hiện nay vẫn còn “ôm” phòng mạch ở Denver (Colorado) sau khi qua Mỹ (tháng 4/75) đến giờ. Gia đình anh giúp đỡ tôi nhiều từ khi ra khỏi nhà tù Cộng Sản, cũng như lúc chân ướt chân ráo đến Mỹ. Người ta thường nói “họa vô đơn chí”,riêng trường hợp tôi vừa kể trên có thể nói “cái hên không chỉ đến một lần”. Từ giã vợ chồng Tạ Kim Điện tôi trở về gặp Cẩm. Trên đường về tôi nghĩ trong đầu tìm cách nào vui để đùa Cẫm chơi, trước khi tặng cặp lon thiếu tá cho đương sự. Đến nơi (căn cứ 41A) tôi vội bước vào gặp
Phạm Văn Cẩm, nói có vẻ vừa đùa vừa thật:
- Chào thiếu tá đi, mầy.
Cẩm nhoẻn miệng cười một cách gượng gạo; mấy giây sau tôi lại tiếp:
- Đứng nghiêm tao gắn lon thiếu tá cho.
Câu nói đùa này khiến Cẩm có vẻ không được vui; tưởng tôi chọc quê bạn bè.Vì chính anh không ngờ anh đã được cấp trên đề nghị thăng cấp sau trận SĐ23 BB có công đánh bại Cộng quân tại Kontum sau khi SĐ22 BB thất thủ tại Tân Cảnh (Kontum). Không đùa giai, tôi liền lấy cặp lon thiếu tá mới tinh trong túi ra và không quên đưa tờ công lệnh cho Cẩm xem. Xem xong anh ta mới nhận thấy lời đùa vừa rồi là sự thật. Chừng 1 năm sau tôi tình cờ gặp vợ chồng Cẩm tại Ban Mê Thuột (có thể đương sự đang đi phép), nhắc lại kỷ niệm bất hủ này, hai đứa tôi cùng cười đắc ý. Từ đó cho đến ngày “sập tiệm” và mãi đến khi ra hải ngoại này, chúng tôi
mới gặp nhau trong lần họp khóa 18ĐL. Cách nay vài tháng (tháng 3/2019) lúc trò chuyện qua điện thoại tôi đùa Cẩm:
- Còn nợ tao cặp lon thiếu tá tại Đèo Chupao, mầy nhớ không?
Cẩm lại hỏi ngược tôi:
- Vậy là mầy cho tao cặp lon đó hả?
- Chính niên trưởng mầy đây chứ ai. Mầy giả bộ già hay quên, hả mầy?
Tôi trả lời như vậy. Cả hai cùng cười tôi lại đùa thêm:
- Vậy là mầy còn thiếu tao một chầu nhé!
Câu chuyện trên có vẻ riêng tư nhưng với tôi đó là một thời kỷ niệm giữa bạn bè thời chinh chiến hiểm nguy không bao giờ quên.
Sau khi được thăng cấp thiếu tá chừng 3 tuần (tháng 7/72), tôi được chỉ định làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 69 Pháo Binh đóng tại Ngã Tư Biển Hồ (Pleiku) và được điều chỉnh thiếu tá thực thụ ngày 1/4/73. Cuối tháng 11 năm 1973, với nhiệm vụ sĩ quan phối hợp hoả lực Pháo Binh QĐ2, tôi tháp tùng Đại Tá Nguyễn Trọng Luật tham dự mặt trận tại Buprang, thuộc tỉnh Quảng Đức. Chẳng may, Thiếu Tá Nguyển Hữu Nghĩa, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh hy sinh trong trận này. Thượng cấp chỉ định tôi thay Thiếu Tá Nghĩa ngay từ hôm đó. Mấy tháng sau, ngoài chức vụ Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh, tôi còn kiêm chức Tham Mưu Phó Hành Quân tiểu khu Quảng Ðức, rồi xử lý thường vụ Tham Mưu Trưởng vài tháng trước ngày rút bỏ khỏi Tiểu Khu này (23/3/75).

Dù cuộc chiến đấu quân sự đã chấm dứt kết quả không theo ước vọng của ta nên hầu hết chúng ta cùng chịu chung phận tù đày gian nan đói khổ, tưởng như không có ngày về; gia đình cũng như dân chúng sống trong đau khổ, tủi nhục, thiếu tự do.
Nay sống xa quê hương những nửa vòng trái đất, đôi lúc hồi tưởng lại cảnh cũ người xưa, những chiến hữu thuở nào, tôi cảm thấy bùi ngùi tủi hổ, vui ít buồn nhiều.
Với trách nhiệm và thành tích của cá nhân lúc đương thời, nếu không nói là đáng tự hào, ít ra tôi cũng không xấu hổ với lương tâm, với ân nhân, và với những người nằm xuống cho mình được sống. Dù sức khoẻ không còn như xưa nhưng tôi không đến nỗi dửng dưng trước đau khổ của đồng bào mình, đặc biệt là những người hiện ‘quên mình’ dám đứng ra đòi hỏi quyền làm người cho dân tộc Việt Nam trước những đàn áp, bắt bớ, hành hạ tù đày của bạo quyền Cộng Sản Việt Nam, đang rước Tàu Cộng về cướp nước nhà.

Trần Văn Bường, 
K18 - Cựu CHT/ PB kiêm Tham Mưu Phó Hành Quân/ Tiểu Khu Quảng Đức.
Chú thích:
Để chống đặc công VC xâm nhập, các đơn vị bộ binh, trong đó có BĐQ, thường phòng thủ căn cứ bằng cách quây dây kẽm gai (concertina) trên mặt đất ngăn cách các các đơn vị phòng thủ. Khi chúng tấn công, các binh sĩ nằm yên, quan sát, bắn vào tất cả cái gì đang di dộng trên mặt đất. Chiến thuật này tỏ ra hữu hiệu và ngăn chặn được tổn thất.

Không có nhận xét nào: