Đêm nay sương lạnh mờ Hậu Nghĩa
Cũng một màu sương của đất trời
Theo quân di tản, lòng tan nát
Hẹn một ngày về Hậu Nghĩa ơi!
Ph. thân yêu,
Mặc dù chúng ta đã xa nhau ngàn trùng kể từ lần cuối em lên thăm anh ngày 20/4/1975, 10 ngày trước khi miền Nam bị cộng sản xâm chiếm. Gần 2 tháng sau đó, anh bắt đầu biền biệt trong các trại tù cộng sản và em thì biệt xứ mãi tận trời xa. Chúng ta chưa một lần gặp lại kể từ ngày ấy. Mong rằng ở một phương trời xa xôi nào đó, em sẽ không buồn trách nếu có dịp phải đọc lại những kỷ niệm cũ anh đang viết. Xin em cho anh được gọi lại tên em một lần như những ngày xưa cũ.
<!>
Không biết em có còn nhớ hay đã quên. Sau hơn 1 năm dưỡng thương ở Tổng Y Viện Cộng Hòa, anh rời chiến trường, trở lại ngành và về Đại Đội CTCT Tiểu Khu Hậu Nghĩa cho đến ngày mất miền Nam 1975. Những ngày cuối tháng 4, lãnh thổ miền Nam thân yêu mỗi ngày một co cụm dần trước sự tấn công hung hãn của cộng sản miền Bắc. Đồng minh Hoa Kỳ không hiểu đã đi đêm như thế nào trong ván cờ chính trị với cộng sản quốc tế, đã đơn phương rút quân ra khỏi miền Nam và cắt toàn bộ viện trợ dân sự lẫn quân sự vốn dành cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Sự phủi tay của chính phủ Hoa Kỳ đã làm cho chính quyền và quân đội miền Nam dần dần bị thất thế trước cộng sản phương Bắc. Thủ Đô Sàigòn nóng như cận kề cơn bão lửa. Tin tức thất lợi về quân sự dồn dập đến với mọi người từng giờ, qua tin tức truyền thông ngoại quốc và truyền hình trong nước.
Buổi trưa, dưới cái nắng như thiêu đốt của đất trời Hậu Nghĩa, anh đang cùng anh em trong đơn vị sửa sang hệ thống phòng thủ thì nghe người lính thân cận báo tin có em lên thăm. Mừng vui nhưng kinh ngạc, lo âu và thắc mắc. Đó là tâm trạng của anh lúc ấy. Anh ngạc nhiên hỏi em, đường đi rất nguy hiểm sao em lên mà không báo trước. Em trả lời. Em nghe Ba nói Sài Gòn có thể sắp mất, cả nhà chuẩn bị rời đất nước để sang Hoa Kỳ trong vài ngày tới. Nghĩ đến anh, em lo quá nên nói dối Ba Mẹ sang chơi nhà bạn rồi thuê xe lên đây. Chỉ có mình anh Khánh biết là em đi lên tìm anh. Em muốn anh về với em hôm nay để cùng đi với gia đình. Em không muốn xa anh, cũng không muốn đi một mình nếu không có anh. Mà nếu trốn Ba Mẹ để ở lại với anh thì em cũng không đành lòng. Nhất là Mẹ em mấy tuần nay không được khoẻ, Mẹ đang cần em săn sóc. Anh nói đi, em biết làm sao bây giờ.
Ph. ơi! Anh nhớ lúc đó, anh chỉ biết thở dài, đánh trống lãng và tìm cách an ủi em mà thôi. Anh biết em lo lắng cho anh nên em mới liều lĩnh lên đây, bất chấp những nguy hiểm dọc đường. Nhưng em biết không? Những chuyện em kể càng làm anh thêm phân vân và khó xử vô cùng. Cho đến hôm nay, chuyện đã qua hơn 30 năm. Chúng ta đủ tỉnh táo để nhìn lại dòng trôi của lịch sử và việc chúng ta làm. Nếu như bây giờ có người hỏi anh, giả sử cho anh quay lại sống với quá khứ hơn 30 năm về trước, anh có ước muốn gì? Anh sẽ trả lời ngay không một chút đắn đo, không một chút suy nghĩ. Anh vẫn muốn làm người lính trận của năm xưa. Thế thôi. Rất đơn giản. Người khác có thể trả lời cách khác tùy theo nhận định và cảm tính của mỗi người. Nhưng anh thì chỉ đơn giản có vậy.
Cuối tháng Tư, Hậu Nghĩa nắng nóng như thiêu đốt vạn vật. Nhìn đồng đội đang nhể nhại mồ hôi ôm từng bao cát chất thêm cho chắc các lô cốt phòng thủ. Anh thương em, anh thương đồng đội và thương từng tấc đất miền Nam đang bị đối phương cấu xé, giành giựt từng ngày. Làm sao anh có thể bỏ đồng đội, làm sao anh có thể bỏ anh em giữa lúc tình thế nghiêng ngã như thế nầy để tìm sự an toàn cho riêng mình. Bởi vì cho đến giờ phút ấy, họ vẫn tin tưởng vào anh, trông chờ vào anh và chưa một người lính nào bỏ đơn vị, ngoại trừ những anh em đang nhận sự vụ lệnh đi công tác chưa về. Anh thương em nhưng không thể bỏ đồng đội, bỏ đơn vị được Phượng ơi. Anh không thể sống hèn và tự làm hoen ố màu áo trận mà anh đã thề nguyện dưới cờ. Mất em là điều anh chưa từng nghĩ đến bao giờ. Nhưng nếu mất nước thì đó là điều bất hạnh lớn nhất của cả 1 dân tộc. Một dân tộc có lịch sử chống ngoại xâm bền bỉ và ngoan cường. Nhứt là với giới sĩ phu, một khi mất nước thì còn gì để nói, còn gì để biện minh cho thất bại.
Thực sự anh chưa xứng tầm với ý nghĩa đích thực của hai tiếng sĩ phu, nhưng ít nhất anh cũng là một sĩ quan hiện dịch được đào luyện nhiều năm trong Trường Đại Học CTCT Đà Lạt của chính quyền Quốc gia thì làm sao anh dám nghĩ đến việc bỏ đơn vị, bỏ anh em. Nếu thương anh, em hãy cầu nguyện cho đất nước được bình yên. Em nên đi cùng gia đình để săn sóc cho Bác gái. Anh sẽ luôn cầu nguyện cho em an lành, may mắn và bình yên. Nếu duyên phận chúng ta còn gắn bó với nhau thì chúng ta sẽ còn gặp lại nhau dù bất cứ nơi đâu. Đừng khóc em ạ, mấy chú lính đang nhìn chúng ta kìa.
Suốt 1 tuần, sau ngày em về. Cả tỉnh lỵ Khiêm Cương oằn mình chịu pháo dưới áp lực bao vây ngày càng nặng nề của địch quân. Đại đội CTCT của anh đóng ở trại Phạm Như Ấn nằm sát ngã tư chính của tỉnh lỵ Hậu Nghĩa trên tỉnh lộ số 8 dẫn về Củ Chi cũng chịu chung số phận. Ngày 23/4 anh nhận được tin từ một người bạn ở Trung tâm hành quân báo qua điện thoại là Tiểu Đoàn 2/46 thuộc SĐ25/BB cùng với Chi Đoàn Chiến Xa 3/10 được Quân Đoàn tăng phái để bảo vệ vành đai Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Hậu Nghĩa. Anh rất mừng vì sắp gặp lại bạn cũ cùng khóa Phạm Đức Thắng sau nhiều năm xa cách. Tiểu Đoàn 2/46/SĐ25 được tăng phái cho Hậu Nghĩa với trách nhiệm án ngữ vành đai phía Đông Bắc BCH/Tiểu Khu, trong đó có Đại Đội 3 của Phạm Đức Thắng cùng với các Đơn vị ĐPQ cấp Tiểu Đoàn và Đại Đội Trinh sát là Đơn vị đầu tiên của anh lúc mới ra trường.
Từ ngày rời quân trường Đà Lạt, anh và Thắng chưa gặp lại bao giờ. Chỉ nghe các bạn nói, Thắng cũng về SĐ25/BB nhưng mỗi đứa một Tiểu Đoàn khác nhau nên thỉnh thoảng mới gặp lại nhau. Thắng đã xin xuất ngành, nhận ám số chuyên nghiệp 240 và nắm Đại Đội Trưởng tác chiến từ lâu. Lần nầy nghe tin đơn vị Thắng về tăng phái cho Hậu Nghĩa, anh rất vui và háo hức chờ bạn. Tuy thế, anh và Thắng chỉ liên lạc được vài lần qua điện thoại mà chưa gặp mặt nhau để uống cà phê như lời hẹn vì sáng 25/4/1975, kho đạn chính của Tiểu Khu đặt trong căn cứ Phạm Như Ấn, là nơi đồn trú của đơn vi anh, bị pháo địch đánh trúng, nổ tung suốt 2 ngày đêm. Các loại đạn dược nổ văng loạn xạ trong căn cứ, phá hủy khu gia binh, đánh sập 2 lô cốt phòng thủ của đại đội CTCT nằm phía Nam gần kho đạn. Thắng nghe tin, gọi anh nhiều lần qua điện thoại nhưng không liên lạc được vì đường điện thoại hữu tuyến bị cắt đứt sau vụ nổ. Cả hai chỉ còn biết hỏi tin tức nhau qua Trung tâm Hành quân.
Địch gia tăng cường độ pháo kích khắp nơi và suốt ngày đêm để uy hiếp, cầm chân các đơn vị phòng ngự. Khuya 27/4 rạng ngày 28, một người bạn đang trực ở Trung Tâm Hành Quân báo tin cho anh biết là lực lượng án ngữ phía Bắc hướng ngã tư Tân Mỹ đang bị Việt cộng pháo hỏa tập nặng nề. Binh sĩ thương vong nhiều và Đại Đội Trưởng Tango của ĐĐ3/2 đơn vị tăng phái bị tử thương vì 1 trái hỏa tiễn của Cộng quân đánh trúng hầm chỉ huy. Anh sững sờ cả người. Tango là tên gọi của Thắng trong liên lạc truyền tin nội bộ. Sáng 28/4, anh nghe tin, xác của Thắng được đưa tạm về Bệnh viện Tiểu Khu chờ thân nhân đến nhận.
Cuối tháng Tư, cuộc chiến trong cơn khốc liệt một mất một còn nên Quân Đội đã không còn đủ phương tiện để đưa thi hài tử sĩ về tẩn liệm ở quê nhà theo đúng Lễ nghi Quân cách như thời gian trước được nữa. Bệnh viện nơi đang quàn thi hài Đại Úy Phạm ĐứcThắng chỉ cách đơn vị anh chừng 400 mét, khoảng cách còn trong tầm nhìn mà không thể nào vượt qua hỏa lực của địch để vào thăm và chào vĩnh biệt bằng hữu lần cuối được. Trước đó mấy ngày, Việt cộng đã tràn qua căn cứ Trà Cú, uy hiếp Giang Đoàn 54 của Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Thìn (Nhạc sĩ Trường Sa) và áp sát vành đai Hậu Nghĩa, uy hiếp các đơn vị đồn trú. Sơn pháo của địch đặt ngay sát ngã tư Bàu Trai, trục lộ huyết mạch của tỉnh lỵ Khiêm Cương và chúng bắn trực xạ vào bất kể mục tiêu nghi ngờ nào. Con lộ lúc đó là ranh giới của tử thần.
Chiến sự bùng nổ dữ dội và khốc liệt. Quân ta và việt cộng vờn nhau trong thế trận cài răng lược, ghìm nhau từng mô đất, từng căn nhà. Đến chiều 28/4, hầu như tất cả các lô cốt và công sự phòng thủ nổi trong đơn vị của anh đều bị sơn pháo trực xạ của địch đánh sập, chỉ còn lại hệ thống giao thông hào quanh trại. Mặc dầu địch chưa thể tràn ngập doanh trại vì nhiều lớp hàng rào phòng thủ được gài mìn dày đặc, nhưng tình thế lúc ấy đã trở nên vô cùng nguy hiểm. Hệ thống liên lạc điện thoại hữu tuyến đã bị cắt đứt hoàn toàn.
6 giờ sáng ngày 29/4, anh và Đại Úy Thịnh đang bàn thảo kế hoạch phòng thủ đơn vị trong căn hầm nhỏ xíu sát bên văn phòng BCH/ĐĐ. Tự dưng anh cảm thấy có điều gì rất kỳ lạ. Tiếng pháo địch bỗng dưng im lặng hoàn toàn, gần như ngưng hẳn. 15 phút sau, Đại Đội nhận lệnh từ Trung Tá TMT/TK qua hệ thống điện đàm nội bộ. Giọng nói mệt mỏi có lẽ do thức trắng nhiều đêm, ông ra lệnh cho Đại Đội tiêu hủy ngay hồ sơ đơn vị, hồ sơ cá nhân và chuẩn bị nhận lệnh mới. Anh linh cảm ngay đến những cuộc hành quân di tản chiến thuật từng xảy ra mấy tuần nay từ miền Trung nên ra lệnh cho 2 Trung Đội Chính Huấn và Tâm Lý Chiến Dân Sự Vụ chuẩn bị chờ lệnh và sẵn sàng tác chiến.
6 giờ rưỡi sáng 29/4, Trung tâm Hành Quân ra lệnh lần cuối cho các Đơn vị trực thuộc thiêu hủy toàn bộ hồ sơ đơn vị, phá nổ các hệ thống điện đài truyền tin. Các đơn vị cuối cùng còn lại tại Tiểu Khu Hậu Nghĩa nhận lệnh mở cuộc hành quân băng qua Đức Hạnh, Đức Lập để tiến về Tân Phú Trung và Hóc Môn. Đó là lệnh hành quân cuối cùng mà anh nhận được trong cuộc đời binh nghiệp. Anh dẫn Trung Đội Chính Huấn và toán Dân Sự Vụ rút quân mà lòng quặn thắt khi nghĩ đến thân xác của người bạn cùng khóa Phạm Đức Thắng đang quàn tại Bệnh viện Tiểu Khu. Không biết gia đình Thắng đã kịp hay tin để lên nhận xác đưa về Long An chôn cất hay chưa? Còn ai ở đó để chăm sóc cho thương binh và còn ai để giữ gìn thân xác tử sĩ. Ôi chiến tranh, đau đớn và tàn nhẫn.
Trên tỉnh lộ số 8 hướng về Củ Chi và BTL/SĐ25 Bộ Binh có Chi Đoàn chiến xa 3/10 mở đường và yểm trợ hỏa lực. Buổi trưa, dưới ánh nắng thiêu đốt của tháng Tư, các đơn vị hành quân băng đồng, vượt Bưng Mũi Lớn, vượt kênh An Hạ để về Hóc Môn trong đêm trước khi rút quân về Sài Gòn. Tối 29/4, khi anh cập bờ Hóc Môn thì được tin toàn bộ Hóc Môn, Bà Điểm, Thành Ông Năm, Trung Chánh đã mất về phía Cộng quân. Riêng Chi Đoàn Chiến xa 3/10 do Trung Uý Đoàn Kim Bảng tạm quyền chỉ huy, đã cố đưa Chi Đoàn bẻ tắt qua Tân Thông để tránh đụng độ trực tiếp với đoàn Chiến xa T54 của Việt cộng đang vượt qua Củ Chi tiến về SG. Qua Tân Phú Trung, Chi Đoàn 3 cố vượt qua Cầu Bông trên QL 22 và kênh An Hạ để về Hóc Môn theo lệnh của BCH/Thiết Đoàn 10 nhưng không thành vì bị bao vây bởi trận địa pháo của địch ngay sát bờ kênh. Đó là một trong những trận đánh oai hùng của Thiết Kỵ Việt Nam Cộng Hòa trong ngày cuối cùng ở mặt trận Đông Bắc. Chi đoàn 3/10 Thiết Kỵ tả xung hữu đột trong vòng vây hãm của địch và bị tan rã chiều 29/4/1975.
Sáng 30/4/1975, toàn bộ các đơn vị nhận lệnh tan hàng trong nước mắt tức tưởi sau lịnh ngưng bắn và lịnh bàn giao vũ khí cho đối phương của Tuớng Dương Văn Minh, Tổng Thống kiêm Tổng tư lệnh cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, phát qua hệ thống truyền thanh Quốc gia lần cuối tại Đài Phát thanh Sài Gòn. 10 ngày sau, kể từ ngày mất miền Nam. Nghĩ rằng không còn gì để mất, với 1 căn cước dân sự, anh trở lại Hậu Nghĩa để tìm lại cảnh cũ, người quen. Tất cả đã trở thành xa lạ. Chỉ mới 10 ngày, mọi sinh hoạt của người dân đã bị đảo lộn hoàn toàn. Cuộc sống bắt đầu đi xuống một cách thê thảm. Đi ngang cầu Bông, thấy những chiến xa M41, M113 một thời oanh liệt của Thiết Đoàn 10 Kỵ Binh vẫn còn nằm rải rác im lìm, cô đơn và buồn bã trong ruộng lúa hai bên bờ Tân Phú Trung mới thấy thấm thía nỗi đau của kẻ bại trận sau ngày tàn chinh chiến.
Cuối năm 1981, anh được ra tù với một bản án đi kèm cũng thê thảm không kém. 2 năm quản chế tại địa phương. Ra tù, về lại căn nhà xưa để đau xót thấy Cha Mẹ già thêm với mái tóc bạc phơ, suốt ngày ngồi lượm bông cỏ trong mấy ký gạo quốc doanh ẩm mốc mà trước đó phải xếp hàng chầu chực cả ngày để mua bằng tem phiếu. Sau nhiều tháng lang thang dọ hỏi, cuối cùng thì anh cũng được biết ít nhiều tin tức về em. Một người quen thân trong gia đình em còn ở lại Việt Nam cho anh biết em đã lập gia đình 1 năm trước, sau gần 6 năm chờ đợi, dò tìm tin tức của anh trong vô vọng vì bặt vô âm tín.
Thoạt đầu nghe tin, anh buồn lắm vì thương nhớ kỷ niệm và cuộc tình ngày tháng cũ. Nhưng nhìn cuộc sống vật vã đau thương của người dân SàiGòn sau hơn 10 năm đổi đời và nhìn sự thất thế của chính mình, anh mới thấy việc em lập gia đình là đúng và anh thật lòng cầu mong cho em hạnh phúc. Anh chỉ buồn cho riêng mình mà tuyệt nhiên không hờn trách em bao giờ. Mãi mãi anh vẫn cầu mong cho em hạnh phúc và an bình.
Anh đã về lại Sài Gòn và đã sống nhiều năm âm thầm, lặng lẽ trong chính thành phố thân quen của mình giờ đã thành xa lạ. Thành phố ấy, với anh, đã ghi dấu biết bao kỷ niệm tuổi thanh xuân. Kỷ niệm đã theo con sông buồn trôi về biển cả và rồi vĩnh viễn mình sẽ không bao giờ tìm lại được dòng nước mát của bến sông xưa. Sài Gòn những năm đầu sau ngày đổi tên đã tàn tạ trong tay những gã đồ tể. Sài Gòn sống nhọc nhằn, nhịn nhục giữa một đám chủ mới thâm độc, gian tham và đầy thói cướp giựt. Chúng được giáo dục một thứ triết lý cực đoan và phản đạo đức. Em sẽ hỏi sao anh không liên lạc với em dù em đã bao lần nhắn tin về qua địa chỉ người thân của em còn ở lại. Không, “Ta về như bóng chim qua trễ. Cho vội vàng thêm gió cuối mùa. Ai đứng trông vời mây nước đó. Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ” (Thơ Tô Thùy Yên) nên anh đã quên và cố tình quên. Đừng trách anh và đừng hỏi vì sao!
Ngày xưa em là nguồn hạnh phúc của anh, bây giờ biết em có cuộc sống hạnh phúc là anh vui và mãn nguyện. Em đã sống gần 6 năm chờ đợi một người tù chưa biết khi nào trở về. Cũng không có bất cứ tin tức nào, không biết sống chết ra sao thì đã là một chịu đựng và thử thách quá lớn rồi. Nhứt là giữa anh và em chưa có một sự ràng buộc nào thì chờ đợi nhau đến bạc đầu để làm gì. Khi nghe tin em có gia đình, dĩ nhiên là anh rất buồn, nhưng anh nghĩ mình càng nên sống yên lặng và kín đáo. Đừng để viên sỏi rơi vào mặt hồ tĩnh lặng vì gợn sóng sẽ làm giao động tất cả hình ảnh yên bình. Đó cũng là lý do tại sao anh đã không liên lạc với em.
Hơn 10 năm sống vật vờ trong thành phố đầy dẫy kỷ niệm tàn phai. Rồi anh cũng có gia đình riêng cho Ba Má anh yên lòng. Mấy lần vượt biên đều không thành. Lần vượt biên cuối năm 1987, anh bị bắt tại Nhà Bè, bị nhốt ở trại giam Tân Quy với bản án 2 năm tội danh vượt biên trái phép. Mấy năm sau, vận may rồi cũng đến với anh. Tháng 5/1994 anh cùng gia đình sang Hoa Kỳ theo chương trình H.O dưới sự bảo trợ của Chánh phủ Hoa Kỳ.
Rồi chúng ta có gặp nhau lần nữa không em? Anh nghĩ là có, mặc dù hoàn cảnh chúng ta đã đổi thay sau ngày sụp đổ của miền Nam. Quả đất vẫn mãi tròn, phương tiện liên lạc và gặp gỡ ngày càng dễ dàng và thuận lợi, thì chuyện gặp lại nhau không phải là khó. Nhưng nhiều khi anh vẫn tự hỏi, có nên gặp nhau không và gặp nhau để làm gì? Em đã yên bề gia thất với cuộc sống gia đình hạnh phúc, yên bình. Anh cũng đã có gia đình riêng. Sau mấy năm theo đuổi chương trình Đại Học ở Hoa Kỳ, anh ra trường và rồi cũng tạo dựng cho mình một cuộc sống riêng như bao người khác. Câu hỏi đã có câu trả lời nhưng sao lòng vẫn mãi phân vân. Không biết tại sao! Thôi thì cứ để mọi việc diễn tiến theo lẽ tự nhiên. Chúng ta chưa từng nghi ngờ có cuộc chia ly đẫm nước mắt mùa xuân năm nào, thì ai biết được sẽ còn một lần gặp gỡ bất ngờ trong tương lai phải không em?
Lê Tấn Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét