Hàng ngàn năm trước, bên Trung Hoa, đời nhà Đường, vua Đường Minh Hoàng (713 Đường Minh Hoàng -741 Tây Lịch), nhớ Dương Quí Phi đã qua đời, thành đi dạo chơi vườn Ngự Uyển, vào một đêm Rằm tháng Tám. Nhìn mặt trăng to và đẹp, ông Vua ngắm trăng, mê thích quá và tự nhiên buột miệng nói ra ước muốn được đi thăm mặt trăng. Tình cờ một ông Tiên (có chỗ nói là Đạo sĩ La Công Viễn và có chỗ lại là Pháp Sư Diệu Pháp Thiện) nghe được và đã dùng cầu vồng nối lên mặt trăng cho vị Vua được lên Cung Trăng. Ở trên Cung Trăng, nhà Vua được xem các Tiên Nữ hát và múa “Tây Thiên Điệu Khúc.” Trong đám tiên nữ múa, nhà vua nhìn thấy cả hình ảnh Dương Quý Phi. Khi quay về lại quả đất, vua nhớ lại và họp thêm “Khúc Hát Bà La Môn” do Trương Kính Thuật, Tiết Độ Sứ Tây Lương, vừa triều tiến cùng lúc, để chế thành thành “Khúc Nghê Thường Vũ Y” (Nghê là cầu vồng, Thường là xiêm váy). Rồi thương nhớ Dương Quí Phi, vua mở tiệc có cung nữ múa hát. Và để nhớ lại dịp được đi thăm mặt Trăng, nhà vua đặt ngày Rằm Tháng Tám mỗi năm là ngày Tết Trung Thu cho mọi người cùng vui mừng đón và ngắm trăng. Cũng vì vậy, ngày Tết này còn được gọi là Tết Trông Trăng.
Một chuyện khác cũng hay được nhắc và cho là nguồn gốc Tết Trung Thu. Ngày xưa ở Trung Hoa, thời Tây Hán, đang lúc chiến tranh, hết lương thực, Lưu Tú phải cầu xin nhờ Thượng Đế, thành quân lính tìm được khoai môn và bưởi để ăn trong dịp rằm tháng tám. Về sau Lưu Tú dẹp được giặc, lên làm vua Quang Võ, nhà Hậu Hán và ông đã nhớ tổ chức lễ tạ ơn mỗi năm vào ngày này.
Dần dần Tết Trung Thu thành ngày lễ lớn ở Trung Hoa. Đó thường trùng với dịp gặt lúa thành cũng là dịp mừng vui hàng năm của các nông gia. Sau một thời gian bỏ hết thì giờ và công sức cực nhọc gặt lúa, đây là lúc bỏ thì giờ làm lễ tạ ơn trời phật, thần tiên mặt trăng.
Tết Trung Thu của Việt Nam thì khác vì trở thành một ngày lễ chính của trẻ em và cũng là lúc người lớn để ý săn sóc đến con cái còn nhỏ. Tuy nhiên, người lớn cũng có những thú vui cùng dịp. Họ sửa soạn thức ăn, thức uống rượu hay trà, để làm tiệc ngắm trăng. Sau khi trẻ con đi ca hát, rước đèn Trung Thu về thì “phá cỗ” lúc mặt trăng lên cao nhất.
Nguời ta tin là nếu màu trăng vàng thì năm tới sẽ trúng mùa màng tốt, và do đó có câu:
“Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng Rằm Tháng Tám.”
Khi trăng màu xanh thì sẽ bị thiên tai. Và, nếu trăng màu cam thì đất nước sẽ thanh bình.
Một trong những loại đèn Trung Thu đáng kể nhất là đèn kéo quân, loại đèn có hình ảnh của quân sĩ và tướng tá quay quanh trục đèn. Bài dân ca “Đèn Cù” có thể bắt nguồn từ cái đèn kéo quân.
Những ngày gần đến Tết, trẻ em đã được thắp đèn ở nhà. Một hai tối trước và đúng tối ngày Rằm tháng Tám, các trẻ em rủ nhau đi rước đèn Trung Thu. Các em cầm đèn Trung Thu có ngọn nến thắp sáng ở giữa, đi thành từng đoàn ngoài ngõ khắp đường phố, vừa đi vừa đồng ca hát, thật là náo nhiệt.
Trước 1975, đèn Trung Thu nổi tiếng sản xuất từ Phú Bình, quận 11 của Sài Gòn. Những người làm đèn Trung Thu ở đây là dân di cư năm 1954 từ làng Báo Đáp, tỉnh Nam Định, Bắc Việt. Họ đã làm đèn Trung Thu bán cho cả nước.
Đáng kể nhất là Ông Tiến Sĩ Giấy là một đồ chơi bằng giấy làm thành người đàn ông, trông có vẻ có… học thức cao. Ông Tiến Sĩ Giấy thường được để vào chỗ giữa và cao nhất trong mâm cỗ Trung Thu gồm những món ăn uống ngon nhất là bánh trái, hoa quả của ngày lễ. Chữ “tiến sĩ giấy” dùng sau này, để ám chỉ những người muốn “lòe” người khác, tự cho mình có bằng cấp, mà thật không có bằng, là từ đây mà ra.
Những đồ chơi cho trẻ con đặc biệt khác trong dịp Trung Thu làm bằng giấy bồi, có đủ thứ và đươc chế thành các hoa quả, đình chùa, người…
Rồi phải kể đến các con giống, tức là thú vật kể cả con thiềm thử… nặn bằng bột và được tô đủ màu.
Xong đến các mặt nạ giả những nhân vật trong truyện xưa nổi tiếng của Trung Hoa, như Tôn Ngộ Không (khỉ), Trư Bát Giới (heo)… trong truyện Tây Du Ký hay Quan Công, Trương Phi… trong truyện Tam Quốc Chí.
Dĩ nhiên còn rất nhiều đồ chơi khác nhau như súng phun, trống bỗi, chong chóng, dao kiếm bằng nhựa… và không thể nào kể hết được.
Ngày nay, bánh Trung Thu gồm hai loại bánh dẻo có nhân đậu, hạt sen hay bánh nướng có nhân thập cẩm. Khi làm vỏ bánh Trung Thu phải đổ bột vào khuôn để bánh có hình mặt trăng, mặt trời, hoa quả… và cần thợ làm bánh khéo tay.
Bánh dẻo màu trắng, tượng trưng cho mặt trăng. Bánh dẻo có vỏ làm bằng bột nếp. Nhân hạt sen hay đậu xanh, vỏ cam… Bánh dẻo ngọt và thơm.
Bánh nướng màu vàng, tượng trưng cho mặt trời. Bánh nướng có vỏ là bột mì. Nhân bánh nướng thường thập cẩm như lòng đỏ trứng muối, thịt heo, lạp xưởng, hạt dưa… Bánh nướng hương vị mặn mà.
Bánh Trung Thu mua để cho gia đình ăn, nhưng cũng là quà mọi người mua biếu họ hàng, người thân hoặc để biếu các người ân nhân hay “ân nhân.”
Tạm kể thêm vào chỗ này một món ăn ngon mùa Thu, không thể thiếu trong dịp Trung Thu ở ngoài Bắc, là cốm thơm dẻo và ngon, nhất là cốm làng Vòng.
Bên Trung Hoa, không có múa lân nhưng có điệu múa rồng (Dragon Dance).
8. HÁT TRỐNG QUÂN
Ở miền Bắc, ngày xưa, vào dịp Tết Trung Thu, thanh niên thanh nữ thường rủ nhau hát Trống Quân. Hai bên nam nữ hát đố, đối đáp với nhau, nhiều khi là những câu hát hò ứng khẩu, nhưng vẫn có ý tưởng và theo vần, thường theo thể thơ Lục Bát. Họ hát và đập vào sợi dây gai hay dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, thành ra những tiếng động giống như tiếng trống làm nhịp, thường là ba nhịp “thình thùng thình” cho câu hát.
Truyện cổ tích Trung Hoa về mặt trăng hay được nhắc đến trong dịp Tết Trung Thu là chuyện Hậu Nghệ-Hằng Nga. Hằng Nga (có chỗ gọi là Thường Nga) là vợ Hậu Nghệ và cả hai đều là thần tiên sống trên trời. Lúc đó có Ngọc Hoàng Thượng Đế có 10 người con là 10 mặt tròi, chiếu sức nóng quá độ xuống quả đất. Để cứu dân khỏi sức hủy hoại của sức nóng, Hậu Nghệ đã bắn cung làm rơi 9 mặt trời chỉ để lại một. Vì vậy Hậu Nghệ và Hằng Nga bị Ngọc Hoàng đầy xuống trần gian. Hậu Nghệ gặp và được tiên Tây Vương Mẫu cho viên thần dược, trường sinh bất tử, uống vào là bay lên trời, lại thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không uống vì muốn ở dưới trần với vợ yêu Hằng Nga và Hậu Nghệ đưa thuốc cho Hằng Nga giữ. Bồng Mông là người xấu, tấn công Hằng Nga để lấy viên thuốc. Hằng Nga sợ thuốc lọt vào kẻ gian đành tự nuốt viên thuốc. Sau khi uống thuốc, Hằng Nga biến thành tiên bay lên mặt trăng, xa cách với Hậu Nghệ mãi mãi. Trên mặt trăng Hằng Nga sống ở Cung Quảng Hàn, gặp và làm bạn với một con thỏ trắng đẹp gọi là Thỏ Ngọc (Ngọc Thố).
Một trong những chuyện cổ tích khá nổi tiếng là chuyện Cá Hóa Long, chuyện của một con cá chép nhờ sự cố gắng mà đã được biến thành rồng. Câu chuyện thường dùng để khuyến khích trẻ em học tính chuyên cần cố gắng, để được thành công trong tương lai.
Chuyện cổ tích về chú Cuội như sau. Ngày xưa nhà Cuội có cây đa. Một hôm chú Cuội đi vắng nhà, không biết sao, cây đa bật gốc bay lên trời. Chú Cuội vừa về đến, nhảy lên bám rễ đa níu lại nhưng không được và bị cuốn theo lên mặt tăng luôn. Nhìn lên mặt trăng, người ta dường như thấy có bóng cây đa và bóng người ngồi dưới gốc coi như là Chú Cuội.
Ca dao hay được nhắc đến trong dịp Trung Thu:
Bài hát này, từ xưa vẫn biết của nhạc sĩ Văn Thanh. Tuy là gần đây có nghe nói nhạc sĩ Văn Thanh cải chính cho biết bài này do Vân Thanh cũng là nhạc sĩ Đức Quỳnh (tác giả bài nhạc luân vũ Thoi Tơ phổ thơ Nguyễn Bính) sáng tác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét