1. Văn Tế Bác
(3/9/1967)
Đêm thu, Hồ Gươm gió thổi rì rào,
Tháng bẩy, Hà Nội mưa dầm ướt át.
Nhớ Bác xưa:
Mắt sáng tai vênh,
Trán cao râu bạc.
Lúc trung niên gầy cà tong cà teo,
Khi già lão béo nục nà nục nạc.
Nhân tình nhân ngãi nhiều bà, không ai hay con cái ở mô tê,
Đổi tên đổi họ lắm lần, chẳng thể biết ngày sinh nào chính xác.
<!>
Chốn thâm cung sữa tươi thuốc ngoại, tuy rất mực xa hoa,
Trước công chúng cơm nắm muối vừng, vẫn ra điều mộc mạc.
Lắm tài đóng kịch, từng nhiều phen rơi lệ khóc Lenin,
Nhiều bận ngồi tù, vẫn một mực dốc lòng thờ Karl Marx.
Dung mộc y như dụng nhân, Bác có tài lập đảng,
lũ bầy tôi hết sức cúc cung,
Cứu cánh biện minh phương tiện, Bác không ngại ra tay,
phe đối lập thảy đều tan tác.
Thu phục tay chân bằng đặc quyền,
Diệt trừ địa chủ tận gốc gác.
Tả phù như chú Duẫn nhiều con lắm vợ,
việc Đảng Đoàn cật lực lo toan,
Hữu bật có chú Khu đấu mẹ tố cha,
cuộc Cải Cách tận tâm gánh vác.
Bác bạo tay thuổng văn Hoa Thịnh Đốn,
cho tuyên ngôn đượm vẻ Hoa Kỳ,
Bác mạnh lời chôm ý Tôn Trung Sơn,
để tiêu ngữ có mùi Đại Pháp. (1)
Anh dũng thật! Bác mượn lời ai nói,
mà nhận văn của chính mình,
Can đảm thay! Bác viết sách tự khen,
nhưng ký tên như kẻ khác.(2)
Bác ưa bài hát Kết Đoàn, trẻ già mỏi tay vỗ nhịp,
mà chẳng hay đâu chỗ phát sinh,
Bác khoe tập thơ trong ngục, đàn em líu lưỡi khen tài,
nhưng nào biết ai là nguyên tác. (3)
Vâng lời cụ Mác, đưa ngu dân lên chỗ quyền uy,
Học sách bác Mao, coi trí thức là đồ cỏ rác.
Hướng đến Thiên Đường Vô Sản, Bác không dung trí phú địa hào,
Đi lên Thế Giới Đại Đồng, Bác cứ phép tam vô nhị các.
Việc văn hóa không kém Tần Thủy Hoàng,
Thuật chính trị chẳng thua Tào Mạnh Đạt.
Nhưng thương ôi!
Bệnh hoạn luôn ngoài bẩy tháng năm Gà, (4)
Lâm chung lúc gần tám tuần tuổi hạc.
Tang lễ đầy ngũ sắc tinh kỳ,
Ma chay đủ bát âm nhã nhạc.
Khóc tiễn đưa bộ hạ bàng hoàng,
Chào vĩnh biệt đàn em ngơ ngác.
Đọc điếu văn giọng nhấm nha nhấm nhẳn ấy chú Đồng,
Chào mặc niệm mắt liếc dọc liếc ngang là chú Giáp.
Dù Bác còn ở trên dương thế, dẫu có ba đầu sáu cẳng,
nước chúng ta chẳng thêm chút đẹp tươi,
Nếu Bác chưa về chốn âm cung, hẳn với ngàn mẹo trăm mưu,
đời các cháu sẽ vạn phần hốc hác.
Bác chết đi, khi quốc gia nội chiến điêu linh,
Bác để lại, một chế độ độc tài bệ rạc.
Lũ đàn em chuyên thanh trừng đàn áp, nên kinh tế u u minh minh,
Bầy đồ đệ giỏi xuyên tạc lộng ngôn, mà văn hóa ù ù cạc cạc.
Ở trong nước thì thừa ngón gian tham,
Ra quốc tế chỉ giỏi nghề khoác lác.
Buổi chợ chiều lớn bé ráng bon chen,
Thời mạt vận nhỏ to lo kiếm chác.
Nặng tay áp bức người trí thức bất đồng,
Ngon ngọt dối lừa giới nông dân chất phác.
*
Nay nhân tiết Trung Nguyên giải trừ oan khuất,
hận Thăng Long mây cuốn âm u.
Vừa lúc mùa Vu Lan xá tội vong nhân,
lệ Ba Đình mưa rơi lác đác.
Hỡi hồn phách triệu người oan khuất, bị hành hình nơi đồng hoang
Châu Đốc, hoặc bỏ mình vì khủng bố, tù đầy, (5)
Hỡi anh linh thập loại chúng sinh, chịu chôn sống nơi rừng rậm Trị Thiên,
hay mất mạng vì thủ tiêu, tàn sát.
Thỉnh chư Phật và các vị Bồ Tát: Xin lấy lượng từ bi hỷ xả,
để giải oan nỗi hận còn vương,
Hãy vì đức đại độ khoan hồng, mà xá tội cho người đã thác.
Cầu Đức Thầy lãng quên chuyện cũ, để Bác thôi nằm ngục A Tì,
Xin cụ Phan tha thứ việc xưa, để Bác được về miền Cực Lạc. (6)
Ai tranh bá đồ vương bằng sắt máu, dẫu ướp xác muôn hoa
ngào ngạt, nhưng ngàn năm chẳng thể mạo tiếng thơm,
Ai hại dân phản nước vì hư danh, dù xây lăng trăm thước
nguy nga, thì vạn kiếp vẫn còn lưu tiếng ác.
Nếu còn anh linh, Bác nên tôn vinh Đức Chúa Trời độ lượng,
hầu về cõi vĩnh hằng,
Hoặc có khôn thiêng, Bác hãy nương nhờ cửa Phật Tổ từ bi,
để tìm đường đại giác.
Xác bày lăng đâu dễ được tiêu diêu,
Thân nằm hộp nên khó bề siêu thoát.
Mau thổ táng, cho hồn Bác thôi lưu luyến trần gian,
Hoặc hỏa thiêu, để linh Bác hết vấn vương thể xác.
Nay cháu có bài văn tế nôm na,
Xin bác thứ cho lời quê mộc mạc.
Với một nén nhang, nhân ngày giỗ Bác.
Ô hô! Thượng hưởng.
Ngày 22 tháng 7 Giáp Tuất
(3/9/1994)
Chú thích:
(1) Tuyên Ngôn mà ông Hồ đọc ngày 2/9/45 có mượn nguyên văn
tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ câu "Con người ta sinh ra đều bình
đẳng..." Tiêu ngữ "Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc" là mượn của chủ
nghĩa Tam Dân: Dân Tộc: Độc Lập; Dân Quyền: Tự Do; Dân Sinh:
Hạnh Phúc. Được ghi trên đầu các văn kiện giống như tiêu ngữ của Pháp Quốc
(Tự Do-Bình Đẳng-Bác Ái).
(2) Ông Hồ mượn văn Quản Trọng "vì lợi ích mười năm, trồng cây..." l
(3) - Ông Hồ đi thăm dân ở đâu cũng cùng hát bài Kết Đoàn, ca khúc Trung Hoa
dịch lời Việt, để gây ấn tượng trong lòng người, nhất là các thiếu nhi.
Nhiều nhà nghiên cứu văn học quả quyết văn mà là của một nhân sĩ tru
phong tập thơ trong tù không thể là của ông Hồ.
(4) Theo Đảng CSVN, ông Hồ mất ngày 22 tháng 7 năm Kỷ Dậu
(3/9/1969). Sau này Đảng CSVN đính chính lại ngày ông Hồ chết là 2/9/1969.
(5) Hàng ngàn tín đồ Hòa Hảo bị tàn sát ở Châu Đốc năm 1947.
(6) - Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ và vụ tàn sát Hòa Hảo.
- Cụ Phan Bi Châu bị ông Hồ và ông Lâm Đức Thụ báo cho nhà chức trách Pháp
biết chỗ cụ cư ngụ ở Trung Hoa để bắt giam và đưa cụ về Việt Nam xử tội.
NGƯỜI LÍNH GIÀ
(2010)
Có một người lính già:
Quân vụ mười chín rưỡi,
Niên tuế bẩy mươi ba.\
Con cả thẩy bốn đứa,
Vợ chỉ có một bà.
Bởi thẳng gối thẳng lưng, công danh suốt đời lẹt đẹt,
Vì cứng đầu cứng cổ, võ nghiệp mới cứ tà tà.
Một góc cuộc đời là quân nhân, vào lúc đứt phim tuổi xanh đã hơn ba giáp
Ngót hai mươi năm trong binh nghiệp, đến ngày sập tiệm mai trắng mới có một hoa.
Trong quân ngũ công việc vẹn toàn, để cho bạn bè không trách cứ,
Chốn gia đình bản bài đầy đủ, miễn sao mụ vợ chẳng rầy rà.
Nhiều lần phạm lỗi vặt, tổng cộng vài chục ngày trọng cấm vì ham chơi trốn việc
Đôi phen lập công quèn, trước sau ba bốn tấm huy chương khi lửa đạn xông pha.
Đã chút ít báo đền đất nước,
Từng phần nào trả nợ quốc gia.
Lương bổng ít oi, hí viện thanh lâu ít khi bén mảng,
Túi tiền rỗng tuếch, trà đình tửu điếm chẳng hay kề cà
Tuy vậy "Không cơm nào bằng cơm vợ,"
Xem ra "Chẳng của ai bằng của nhà."
Thời niên thiếu nhiều ước vọng cao, toan vận sức chuyển xoay sông núi,
Tuổi đôi mươi những xây mộng lớn, muốn ghé vai gánh vác sơn hà.
Nào ngờ đất nước mất nửa chừng, qua tám trại giam khi địch thắng,
Ai biết quân binh tan giữa độ, đã 7 năm tù lúc chúng tha.
Đời tranh đấu là trọn cơn ác mộng,
Cuộc chiến chinh thành một giấc Nam Kha
Dốc trọn tim gan vì quốc gia, thời trai trẻ đi khắp đó đây, kiếp lính tráng
thật giống dân du mục,
Đem hết hơi sức cho đất nước, lúc về già sống nơi viễn xứ, đời sĩ quan
không khác nghiệp cầm ca.
Suy cho cùng, bon chen lắm chẳng sống làm ông thánh,
Nghĩ lại kỹ, cựa quậy nhiều rồi chết cũng ra ma.
Cuối Thu Ất Mùi (1) theo bạn hữu vào Đà Lạt tòng quân,
khi mặt mũi còn ngô nghê, mồm miệng u ơ, lấc cấc một tên binh sữa,
Đầu Đông Canh Ngọ (2) cùng vợ con sang Hoa Kỳ tị nạn, lúc đầu óc đà lẩm cẩm,
chân tay chậm chạp, loạng quạng một anh lính già.
Thân hữu tản mát từ Paris, London qua New York,
Bạn bè lưu lạc khắp Sydney, Quebec tới Georgia.
Kẻ thèm thịt bò thì đi Texas,
Ai thích lắm vợ thì về Utah.
Người không sợ bão tuyết, người ở Massachussetts
Ta cóc ngán động đất, ta chọn California.
Hết tuổi trẻ trung, phong độï không còn ham le lói,
Đến hồi già lão, quần áo đâu có cần lụa là.
Ăn uống đơn sơ, thiếu giò lụa nhấm đỡ hot dog,
Khẩu vị giản dị, hết bánh bao dùng tạm pizza.
Thể xác tuy hơi ọp ẹp,
Trái tim còn khá đậm đà
Nhớ lại thuở thanh xuân, tình ái lăng nhăng lãng mạn,
Nghĩ đến thời niên thiếu, say mê lăn lóc trăng hoa.
Đôi khi trái gió trở trời, chợt nghĩ tiếc bệnh già sao đến sớm.
Những lúc đau vai nhức khớp, mới thấy buồn tuổi trẻ đã đi qua,
Nay lúc tuổi già:
Thường dậy con nơi đất mới phải noi gương tín nghĩa,
Vẫn răn cháu nhớ quê xưa cần giữ tính thật thà.
Thấy cộng đồng đầy rẫy tị hiềm, chung gốc gác mong có lòng độ lượng,
Vì đồng hương cực kỳ chia rẽ, cùng giống dòng nên tấc dạ xót xa.
Sao không để sức chống kẻ thù độc ác
Mà chẳng hết lòng trừ giặc cộng điêu ngoa?
Xem chúng làm, thấy rõ bọn mặt người dạ thú,
Nghe chúng nói, biết ngay quân khẩu phật tâm xà.
Phải tranh đấu nhiệt tình, để nhổ vuốt nanh bọn nó
Quyết thành tâm đoàn kết, chớ làm xấu mặt phe ta.
Nếu là bạn nên nhớ lời "đi với Phật, chớ vận áo giấy,"
Nếu là thù chớ quên câu "đi với quỷ đừng khoác cà sa."
*
Nhân năm mới thắp nén hương thành khẩn,
Dịp xuân sang nâng chén rượu khề khà.
Cầu cho đất nước mau thoát tay bạo quyền gian ác,
Mong sao dân tộc sớm dựng nền dân chủ hiền hòa.
Là người lính già không bao giờ chết, chỉ tan biến giữa cõi đời ô trọc,
Như ngôi sao sáng chẳng khi nào tàn, chỉ phai mờ trong vũ trụ bao la.
Đông Chí Kỷ Mão, 1999.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét