NẾU ĐI HẾT BIỂN, 196 trang, gồm một số bài phỏng vấn do người viết Trần văn Thủy thực hiện, ấn hành ở Hoa Kỳ Tháng 12 năm 2003, nhà “Thời Văn” xuất bản, trang 3 trong sách có hàng chữ “Chương trình nghiên cứu của University of Massachusetts Boston.” Trần văn Thủy là người từ Hà Nội đến Mỹ do lời mời của Trung Tâm William Joiner thuộc Đại Học Massachusetts Boston, là đạo diễn hai phim “Hà Nội trong mắt ai” và “Chuyện tử tế“. Việc thực hiện “Nếu đi hết biển” và xuất bản ấn phẩm ấy được Trung Tâm William Joiner chi tiền.
<!>
Một người Việt Nam ở Mỹ là ông Nguyễn Hữu Luyện được nhiều người Việt ủy thác đứng ra kiện Trung Tâm William Joiner vì Trung Tâm ấy không vô tư trong việc nghiên cứu cộng đồng người Việt sống ở Mỹ để viết sách. Vụ kiện đang tiến hành.
Những người trả lời phỏng vấn của Trần văn Thủy trong “Nếu đi hết biển“: Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nhật Tiến, Cao Xuân Huy, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong, Trương Vũ, Wayne Karlin, Tuyết và Chris.
Kewin Bowen, Giám đốc Trung Tâm William Joiner Nghiên Cứu về Chiến Tranh và Hậu Quả Chiến Tranh, Đại Học Massachusetts Boston, Nghiên Cứu Trưởng Chương Trình Rockefeller Nghiên Cứu về Tiến Trình “(Tái) Xây Dựng Diện Mạo và Quê Hương của Người Việt ở Nước Ngoài” 2000-2003, viết lời giới thiệu “Nếu đi hết biển“. Bài giới thiệu bằng tiếng Anh đi kèm bài được dịch ra tiếng Việt, trong đó có đoạn:
Những tác giả phỏng vấn là những nhà văn, những nhà tư tưởng sâu sắc đáng kính, với những tiếng nói đa dạng và phong phú. Nhà văn Nhật Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Trương Vũ, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Hoàng Khởi Phong, vv…đã trình bày một cách thẳng thắn và công khai về một số đề tài cấm kỵ (ta-bu) trong sinh hoạt chính trị ở hải ngoại cũng như Việt Nam, và ảnh hưởng của chúng trong lãnh vực sáng tác.”
“Những tác giả phỏng vấn.. ” là câu dịch sai. Bản Anh ngữ “Those interviewed include the esteemed and profound of Vietnamese thinkers and writers..”: “Những người được phỏng vấn..”. “Những nhà văn, những nhà tư tưởng sâu sắc đáng kính” trong “Nếu đi hết biển” chỉ trả lời những câu hỏi. Cũng trong Lời Giới Thiệu có đoạn:
Chúng ta mang một niềm tri ân sâu sắc với những cá nhân đã dũng cảm đứng đầu gió để tham dự vào cuộc đối thoại này.
Trả lời vài câu hỏi, dù người hỏi có là người nước Bắc Cộng, mà người trả lời đang sống ở Mỹ Quốc cũng phải có “dũng khí ” ư ? Đao to, búa lớn quá dzậy? Mà “cuộc đối thoại” nào? Ai đối thoại với ai? Trong “Nếu đi hết biển“, những “nhà văn, những nhà tư tưởng sâu sắc” chỉ trả lời những câu hỏi của anh Cán Cộng, nếu có đôi lời nói qua, nói lại thì cũng chỉ quanh quẩn trong đề tài được người hỏi đưa ra; đây là “cuộc phỏng vấn”, gọi đây là “cuộc đối thoại”, qua nhận xét ngu dzốt của tôi, tôi e không đúng. Cũng không hẳn là cuộc phỏng vấn, nó như cuộc ông thầy xét bài học trò, đàn anh xét hỏi đàn em. Tôi sẽ kể ra vài đoạn trong Nếu đi hết biển để chư quí vị độc giả thấy những “nhân vật dũng cảm” đã trả lời phỏng vấn như thế nào, và những chuyện được hỏi trong “Nếu đi hết biển” là những chuyện gì mà gọi là những “đề tài cấm kỵ trong sinh hoạt chính trị ở hải ngoại?”
..................
Chương Bẩy "Nếu Đi Hết Biển" -Nđhb. Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Trang 79, 80.
Trần Văn Thủy (TVT): Xin chị nói cho đôi điều về tiểu sử của chị?
Hoàng Bắc (HB): Anh cần “lý lịch” hay là “trích ngang”?
TVT: Chị vui tính thật, nhưng đừng gây sự với tôi. Độc giả muốn biết về chị, đôi chút cũng được.
HB: Theo anh, tôi nên bắt đầu từ lúc nào đây? Bắt đầu từ cái mốc năm 75 nhé, vì trước đó ba mươi năm, cuộc đời tôi cũng na ná như tất cả mọi người khác: sinh ra, lớn lên, học hành, làm việc, lập gia đình, sinh con, đẻ cái.. vv.. có lẽ.. cái cuộc đời nhàm chán! Tháng Ba năm 75, tôi đang dậy học ở Nha Trang thì xẩy ra cái gọi là biến cố năm 75. Sau đó người miền Nam đặt tên là ngày “Quốc Hận”, miền Bắc gọi là ngày “Giải Phóng”.
TVT: Tôi nghĩ có lẽ không hẳn là như thế. Tôi thấy có nhiều người gốc miền Bắc gọi là ngày “Quốc Hận”. Thí dụ những người nổi tiếng như ông Nguyễn Cao Kỳ, Trần Kim Tuyến, Cao Văn Viên, Vũ Văn Mẫu, Phan Huy Quát, Lê Nguyên Khang, Trần Văn Tuyên. Ngược lại có nhiều người gốc miền Nam gọi là ngày “Giải Phóng”. Thí dụ ông Lê Duẩn, ông Tôn Đức Thắng, ông Phạm Văn Đồng, ông Phạm Hùng, ông Huỳnh Tấn Phát, ông Nguyễn Hữu Thọ, ông Võ Văn Kiệt, ông Phan Văn Khải, ông Trần Văn Giàu, ông Trần Bạch Đằng.. Đó là những “anh Hai” thứ thiệt.
Tác giả Nđhb chơi chữ khi nói đến những tiếng Quốc Hận, Giải Phóng và người Nam, người Bắc. Người hỏi và người trả lời đã không thấy, hay làm như không thấy, không có, tình trạng sau năm 1954 thực sự có hai nước Việt Nam: Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa và nước Bắc Cộng, văn huê lòng thòng lỏng thỏng là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Những người Quốc Gia VNCH gọi ngày 30 Tháng Tư 1975 là ngày Quốc Hận; bọn Huỳnh Tấn Phát, Phạm Hùng, Nguyễn Hữu Thọ ..vv.. sinh trưởng trong miền Nam nhưng bám đít bọn Bắc Cộng, những tên ấy bị nhân dân Quốc Gia VNCH khinh bỉ, bị ngay cả bọn Bắc Cộng cũng khinh bỉ, những tên đó không đáng được nói đến. Những nhân vật Quốc Gia VNCH chỉ được tác giả Nđhb “cho” một tiếng “ông”: “…như ông Nguyễn Cao Kỳ..” rồi sau đó kể tên trống không: “..Trần Kim Tuyến, Cao Văn Viên, Vũ Văn Mẫu.. vv..” Các nhân vật nước Bắc Cộng được kính trọng gọi bằng “ông“, mỗi trự đều có tiếng “ông” đi trước tên: “..ông Lê Duẩn, ông Tôn Đức Thắng, ông Phạm Văn Đồng..” Và còn chỉ rõ: “.. Đó là những “Anh Hai” thứ thiệt” để phân biệt với những nhân vật Quốc Gia VNCH mà tác giả cho là bọn “anh Hai” giả mạo. Trong số những nhân vật Quốc Gia VNCH kể tên trên đây có hai ông đã chết thảm trong lao tù cộng sản: ông Phan Huy Quát chết trong Nhà Tù Chí Hòa, ông Trần Văn Tuyên chết trong trại tù khổ sai ở xứ Bắc Cộng.
Bà Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc có cái may mắn không bị bọn Việt Cộng cho dzô tù ngày nào nên bà nói không đúng lắm về cái quái thai gọi là “lý lịch trích ngang” được dùng trong nhà tù Việt Cộng. Không có “trích ngang” suông mà có “lý lịch” và “lý lịch trích ngang”, tức khai vắn tắt.
Nđhb. Trang 81.
TVT: Thế chị qua đây bằng đường nào?
HB: Tôi thuộc diện vượt biển. Sau 1975, tôi được giữ lại dạy ở trường gọi là giáo viên lưu dụng, và vẫn luôn được nhắc nhở rằng, khi Hitler lên cầm quyền ở Đức đã ra lệnh sa thải và cầm tù hoặc giết tất cả các giáo viên chế độ cũ, tôi đã được nhà nước lưu dụng (nghĩa là không đuổi dạy, tha không bỏ tù, không giết!)
Ba mươi mùa cóc chín trước đây cô giáo đã được “Nhà nước”, tức Đảng, ưu ái tha không bỏ tù, không giết, cho dạy học tiếp tục! Ơn Đảng với cô như trời cao, biển rộng. Uổng quá. Được Đảng sương đến sế thao cô giáo không ở nại với Đảng, cô giáo nại xuống thuyền cô giáo vượt biên cô giáo sang Mỹ? Cô giáo đẻ bọc điều nên cô vượt biên an toàn, dễ dàng, cô một chuyến rời gót ngọc xuống thuyền bỏ nước ra đi là xong ngay, cô không bị bọn công an VC Nhà Bè, Phước Tỉnh, Vũng Tầu, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mâu nó tó, nó choàng cái bảng “Phản quốc” lên ngực cô, nó dẫn cô đi biểu diễn ở chợ, cô không bị nó tống lên Trại Đồng Xoài vài mùa sầu riêng trổ gai cho cô có dịp cải tạo cô thành người tốt, cô không phải thọc đôi bàn tay ngọc của cô vào thùng nhào cứt người với nước tiểu người cho nhuyễn để bón rau xanh; cô bềnh bồng vượt biển sang Mỹ, bọn Mỹ nó có mời cô dậy học, dậy hành chi đâu! Để rồi gần ba mươi mùa hoa li-ki-ma trổ bông sau người ta phải vất vả sang tận Mỹ Quốc tìm cô để phỏng vấn cô. Cái chuyện cô kể cô “vẫn luôn luôn được nhắc nhở rằng, khi Hitler lên cầm quyền ở Đức đã ra lệnh sa thải và cầm tù hoặc giết tất cả các giáo viên chế độ cũ..” nghe rùng rợn quá cô. Chuyện ấy chắc là do những cán bộ Bắc Cộng “lên lớp” các thầy cô giáo viên Quốc Gia VNCH, có phải không ạ? Chắc cô, với tư cách giáo viên Quốc Gia VNCH bại trận được lưu dụng, còn có dịp nghe các vị cán bộ Đảng ta dậy về hai nước Một Răng, Một Rắc đánh nhau chí tử, được cán bộ Đảng ta khuyên “Cái gì của Xê I A thì trả cho Xê I A!”, được cán bộ Đảng ta cho biết “trong thời gian lính Mỹ ở Sài Gòn, Sài Gòn có 500.000 – năm trăm ngàn – phụ nữ làm điếm Mỹ!”
Năm 1984, 1985, trong Nhà Tù số 4 Phan Đăng Lưu, Nhà Tù Chí Hòa, nhiều tổ chức chống Cộng bị bắt trong có tổ chức do ba ông Phạm Quang Cảnh, luật sư, ông Nguyễn Quốc Sủng, giáo sư, ông Lê Công Minh, kỹ sư, đứng đầu. Năm 1986 tổ chức ấy bị đưa ra tòa. Bọn chánh án tay sai xử án tử hình Luật sư Phạm Quang Cảnh, xử án chung thân Giáo sư Nguyễn Quốc Sủng, chung thân Kỹ sư Lê Công Minh. Trước toà, khi tên chánh án tay sai hỏi Lê Công Minh:
- Trước đây bốn năm, anh nói anh không sống chung với cộng sản. Nay anh nói thế nào?
Người tù chính trị Lê Công Mình trả lời:
- Nay tôi vẫn nói như thế!
Đã tuyên án Lê Công Minh chung thân khổ sai, nghe Lê Công Minh trả lời như thế, tên chánh án tay sai lập tức nâng án Lê Công Minh lên tử hình.
Sau khi xử tử Luật sư Phạm Quang Cảnh, chúng hạ án của Lê Công Mình xuống tù chung thân khổ sai. Năm 1985, 1986 Lê Công Minh và tôi cùng ở Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu, cùng ở Nhà Tù Chí Hòa nhưng không chung phòng. Năm 1989 tôi gặp Lê Công Minh ở Trại Tù Khổ Sai Z 30 A, tôi có dịp trò chuyện với Minh. Minh cho biết trong Tuyên Ngôn của nhóm anh có câu:
- Bọn phát-xít và bọn cộng sản khác nhau ở điểm bọn phát- xít quí trọng nhân dân nó, bọn phát-xít đàn áp, bóc lột, giết tróc nhân dân các nước khác, bọn cộng sản thù ghét nhân dân nó, bọn cộng sản đàn áp, bóc lột, giết tróc nhân dân của chính nó, bọn cộng sản giết đồng bào nó.
Khi Lê Công Minh nói câu đó, tôi lặng người. Chưa bao giờ tôi nghe lời kết tội bọn cộng sản đúng đến như thế. Tối mùa mưa ở trại tù cộng sản giữa rừng, trong tiếng gió từ núi Chứa Chan thổi tới, tôi bùi ngùi nói với Lê Công Minh:
- Các anh kể tội chúng nó đúng quá như thế, chúng nó phải giết các anh thôi!
Sau khi kể “Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa” không bỏ tù bà, vẫn để bà dậy học, bà Hoàng Bắc kể chuyện Hít-le Ria Cá Chốt khi lên cầm quyền ở Đức quốc, đuổi hết giáo viên Đức ra khỏi trường, bỏ tù và giết các giáo viên Đức! Người đọc bà có dịp thấy Hít-le Ria Cứt Mũi ác độc quá chời, “Đảng ta” đối xử nhân đạo quá chời với bọn giáo viên Ngụy. Nhưng thưa bà, nếu bọn Cán Cộng ngu dzốt kể chuyện Hít-le làm như thế mà bà tin đó là chuyện thật thì tôi phi-ní lô đia, tôi hết nước nói về sự hiểu biết của bà.
Trong “Nếu đi hết biển“, bà nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc nói như sau về cộng đồng người Việt ở Mỹ và về cuộc chống Cộng của người Việt ở Mỹ:
Nđhb. Trang 87, 88, 89.
TVT: Bây giờ nếu có thể được, ta nói chuyện một chút về Cộng đồng người Việt ở Mỹ. Thí dụ, chị có thể phác họa vài nét về Cộng đồng người Việt ở Mỹ, thí dụ chị có tham gia các Hội Đoàn, các sinh hoạt có tổ chức ở trong vùng chị ở, Virginia, hay trên nước Mỹ không? Chị thấy các sinh hoạt đó như thế nào? Đối với thế hệ chị và đối với thế hệ con em chị ở hải ngoại?
HB: Tôi đề nghị anh đọc Unbearable Lightness of Being của Milan Kundera (mà một người bạn của tôi là Trịnh Y Thư đã chuyển ngữ rất hay, sách vừa do NXB Văn Nghệ California phát hành dưới cái tên “Đời Nhẹ Khôn Kham”) để anh dễ thâm nhập và nhận diện bộ mặt của cộng đồng Việt ở hải ngoại.
Kundera viết quyển này lấy bối cảnh Mùa Xuân Praha năm 1968 và các nhóm di dân Tiệp vào thời điểm đó. Đến nay, trải qua mấy chục năm rồi, giọng điệu, ngôn ngữ, suy tư của đám di dân Tiệp vẫn còn có thể dùng để mô tả được chính xác hình ảnh các hội đoàn chống Cộng của người Việt rải rác và đầy rẫy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc, Canada. Lâu lâu lại phải đọc tuyên cáo này, tuyên cáo nọ, lên án bọn cộng sản trong nước và tay sai ngoài nước. Lâu lâu lại có vụ đốt một quyển sách hay hăm dọa một nhà xuất bản nào đó đã dám bày bán quyển sách thiên cộng kia, biểu tình mấy chục ngàn người để chống một tên tâm trí bất bình thường không đủ tiền và đủ sức để kinh doanh nghiêm chỉnh nên chơi nổi treo hình Bác Hồ và cờ Việt Cộng, lâu lâu lại có biểu tình lẹt đẹt vài người hay tự thiêu, ủi xe tăng vào Sứ quán Việt Cộng.
Tội nghiệp quá chừng! Cả chục ngàn người Việt mất nước sống nhờ ở Mỹ, ông bà già chỉ có mỗi tháng mấy trăm tiền SSI, anh chị trẻ khuân vác Giant, Safeway, chùi rửa cầu tiêu Mỹ lương 5 đô 50 xen một giờ, chắt chiu người 50, người 100 đô, gom góp làm thành khoản tiền để mướn luật sư Mỹ cãi cho mình ở trước tòa án Mỹ. Những người Việt khốn khổ ấy không có cách tự bảo vệ quyền lợi của mình nào khác ngoài việc trông mong ở pháp luật Mỹ. Họ chỉ muốn nói có một câu: “Thưa quí ông William Joiner, mấy ông viết sử về chúng tôi, chúng tôi cám ơn, nhưng làm sử về chúng tôi mà các ông nhờ bọn đảng viên đảng cộng sản viết thì oan chúng tôi lắm. Thưa quí ông, bọn đảng viên đảng Cộng sản Việt họ thù chúng tôi lắm, họ đã thẳng tay bỏ tù, giết chết nhiều anh em chúng tôi ở trong nước chúng tôi. Nhân dân chúng tôi khổ vì họ lắm lắm. Để họ viết về chúng tôi ở Mỹ, họ sẽ mô tả chúng tôi với những hình ảnh, những lời lẽ rất khốn nạn, rất bẩn thỉu, rất đểu giả. Con cháu chúng tôi khi đọc những sách sử các ông nhờ bọn cộng sản viết về chúng tôi, chúng sẽ khinh bỉ chúng tôi. Vì sợ như thế nên chúng tôi nhờ ba tòa quan lớn Mỹ đèn trời Mỹ soi xét dùm chúng tôi”.
Đáng thương cho họ hơn nữa là việc họ nhờ pháp luật Mỹ quốc bảo vệ bị bà nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc nhắc đến bằng lời lẽ khinh bỉ: “Trung tâm William Joiner tặng cái grant anh Thủy đang làm đó cũng gây ra một vụ kiện, đang đưa nhau ra ba tòa quan lớn Mỹ đấy, chắc anh có nghe rồi! Tôi cũng nghe, nhưng nghe qua rồi bỏ.”
Đau chứ! Bọn cộng sản nó thù ta, nó nói, nó viết những lời khinh thị ta, nó chửi ta, ta không đau, ta tỉnh queo, nhưng nghe những người cùng sống với ta, những người ta tưởng là cùng phe ta, nói những lời khinh bỉ ta, ta đau chứ. Nhưng thưa bà nhà văn, bà nói những người Việt tị nạn cộng sản chúng tôi trong những năm 2000 này giọng điệu, ngôn ngữ, suy tư giống y như những người Tiệp tị nạn cộng sản năm 1968, chúng tôi cũng làm những trò chống Cộng mà bà cho là nhảm nhí như những người Tiệp đã làm: lâu lâu ra một tuyên cáo kể tội cộng sản, đốt một quyển sách, hăm dọa một nhà xuất bản, biểu tình lẹt đẹt vài người, tự thiêu, ủi xe tăng vào sứ quán cộng sản…vv… Thưa vâng, bà nhà văn nói đúng, quả thật chúng tôi đã, chúng tôi đang, chúng tôi sẽ làm mãi những cái trò mà bà cho là nhảm nhí ấy, chúng tôi sẽ làm những trò ấy cho đến bao giờ bọn đảng viên cộng sản Việt bị nhân dân chúng tôi nhổ vào mặt, bợp tai, đá đít, đuổi đi. Cám ơn bà, được bà làm phúc nhắc cho chúng tôi lên tinh thần ra rít. Những người Tiệp tị nạn Tiệp Cộng phải bỏ nước đi sống lưu vong đã làm những cái trò bà coi là nhảm nhí ấy, vậy mà cuối cùng họ đã thực hiện được ước mơ vàng son một đời của họ: đuổi bọn đảng viện cộng sản Tiệp ra khỏi chính quyền, họ đã nhổ vào mặt, bợp tai, đá đít bọn đảng viên cộng sản trong nước họ, họ đã trở về đất nước của họ trong hạnh phúc và vinh quang, đất nước họ sạch boong không còn bóng thằng cộng sản nào, một người trong bọn họ bị bọn cộng sản bỏ tù nay là Tổng Thống của họ.
Ôi.. Ước gì chúng tôi sớm được hưởng cái hạnh phúc mà những người Tiệp chống Cộng đã được hưởng! Những gì đã xẩy ra ở Nga, Hung, Tiệp, Lỗ, Ba Lan sẽ xẩy ra ở Việt Nam quê hương chúng tôi. Nhất định thế! Ở Nga Lê-nin đã ra nằm ở bãi rác, ở Việt Nam Hồ Chí Meo sẽ ra nằm ở bãi rác. Chỉ có điều nhiều người trong chúng tôi không còn bao nhiêu thời gian sống nữa, chúng tôi người sáu bó, người bẩy bó, có nhiều người tám bó, chín bó, chúng tôi mong ngày hạnh phúc đó sớm đến, chúng tôi mong được thấy đất nước chúng tôi sạch bóng cờ đỏ, đất nước chúng tôi không còn thằng đảng viên cộng sản nào trước khi chúng tôi đi ra khỏi cõi đời này.
Nên tôi không mấy ngạc nhiên khi đọc các diễn văn, tuyên ngôn, tuyên cáo cùng các bài báo ở các loại báo biếu lá cải, các nhân vật cộng đồng tố cáo, mạ lỵ, chụp mũ tưng bừng lẫn nhau, người oan, kẻ ưng, cá mè một lứa. Trung Tâm William Joiner tặng cái grant anh Thủy đang làm đó cũng gây ra một vụ kiện, đang đưa nhau ra ba tòa quan lớn Mỹ đấy, chắc anh có nghe rồi! Tôi cũng nghe, nhưng nghe qua rồi bỏ. Anh có nhận xét gì không?
Đấy là lời bà nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc nói với ông bạn của bà là anh Việt Cộng Trần Văn Thủy, đăng trong tập phỏng vấn “Nếu đi hết biển“. Đêm đông, Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, lạnh dưới Không độ, phòng ấm, đèn vàng, yên lặng, an ninh năm chăm phần chăm, tiếng “Lá cải” bỗng gợi cho tôi thương nhớ ngày xưa. Tôi buông tập “Nếu đi hết biển” xuống và tôi thả hồn tôi về dĩ vãng
Thả hồn về dĩ vãng..! Nôm na là nhớ lại ngày xưa.. Một buổi sáng năm 1960 xanh mướt trong tòa soạn nhật báo Sàigònmới, số 32 đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, thủ đô Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa một thời oanh liệt, chú thiếu niên, anh cháu họ xa của ông Bút Trà, từ Quảng Nghĩa tránh loạn vào Sài Gòn, giữ chân chạy việc trong tòa soạn, nói với tôi:
- Báo mình là báo Sàigònmới, bà chủ mình có tờ báo nào là tờ Lá Cải đâu. Sao các báo họ cứ viết là “tờ Lá Cải của bà Bút Trà?”
Cái tội lớn nhất, và là tội duy nhất, mà nhật báo Sàigònmới, và bà Bút Trà, đã phạm với các ông chủ báo khác và quí anh ký giả những báo khác cùng thời là tội báo Sàigònmới bán quá chạy. Số người mua báo có hạn, người Việt chỉ có thể mỗi ngày mua một tờ nhật báo, nói rõ hơn người Việt những năm 1960 ít có ai một ngày bỏ tiền ra mua những hai tờ nhật báo. Nếu tờ báo này có nhiều người mua là những tờ báo kia có ít người mua. Thực ra thì cũng chẳng có chuyện thù ghét gì nặng nề, các ông chủ báo khác khi gặp bà chủ báo Sàigònmới vẫn hòa nhã, vui vẻ chị chị, tôi tôi, nhưng trên báo thì vẫn thỉnh thoảng móc lò nhau, chọc quê nhau cho vui. Báo Sàigònmới bị nhiều báo khác gọi là tờ “lá cải”. Tờ “Lá Cải” của bà Bút Trà là tờ Sàigònmới của bà Bút Trà.
Tiếng “Lá Cải” dùng để gọi tờ nhật báo tồi, báo dở, báo bệ rạc, xuất từ tiếng “feuille de choue” của giới ký giả nhật báo Pháp. Cách hôm nay hơn một trăm năm, khi ông Alexandre Dumas Père đang ngày ngày cho chàng hiệp sĩ D’Artagnan đánh kiếm chí chạt và yêu thương chí chát nàng Constance Bonacieux trong tiểu thuyết feuilleton LesTrois Mousquetaires, hay khi ông Alexandre Dumas Fils đang cho chàng công tử Armand yêu thương mùi mẫn mê ly hắt hủi nàng hoa khôi hoa nguyệt Marguerite trong tiểu thuyết diễm tình La Dame aux Camélias, giới ký giả Pháp gọi những tờ báo tồi là “feuille de choue“. Người Pháp mang nghề in, nghề làm báo vào nước ta. Những năm 1950, 1960 giới làm báo Sài Gòn dùng rất nhiều danh từ tiếng Pháp, như manchette là tiếng để gọi tờ báo, người không được phép ra báo muốn làm báo thì “mướn măng-xết”, tin vedette là tin quan trọng nhất trong ngày, bài fond là bài xã luận, xã thuyết, film du jour là chuyện thời sự có lời bàn Mao Tôn Cương, potin là tin đồn, tin không chính thức ..vv.. Ký giả Việt Nam chuyển danh từ “feuille de choue” thành Lá Cải.
Bây giờ những tiếng manchette, tin vedette, bài fond, film du jour đã biến mất trong ngôn ngữ của những người Việt Nam làm báo, riêng tiếng “Lá Cải” vẫn còn. Tâm viên, ý mã, tôi nghĩ lan man: dùng tiếng “Lá Cải” để gọi, một cách bất kính, một cách thô tục, nhưng ngụ ý hài hước, chọc quê, cho dzui dzui, tờ báo Việt Báo của bà chủ báo Nhã Ca, hay báo Sàigòn Nhỏ của bà chủ báo Hoàng Dược Thảo thì nghe được, nhưng gọi báo Người Việt của ông chủ báo Đỗ Ngọc Yến hay tờ Văn Nghệ Tiền Phong của ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng là tờ “Lá Cải” thì nghe hình như không ổn. Bởi vì các bà chủ báo dù có bận việc tòa soạn, văn bài, nghị luận chính chị, chính em, quảng cáo, chi thu… nhưng xuân thu nhị kỳ, năm thì, mười họa, chắc cũng có những lúc vào bếp nấu món này, nướng món kia, nên các bà biết Lá Cải là cái gì, mấy ông chủ báo thì lá cải với lá cồn các ông cho là giống nhau.
Buổi sáng thu vàng năm 1960 trong tòa soạn nhật báo Sàigònmới ở Sài Gòn, thủ đô Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, nửa đêm tuyết trắng năm 2004 ở Rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Đốn, tức Thành Hoa, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích..! Thấm thoắt dzậy mà đã 44 mùa cóc chín đi qua cuộc đời..! Cám ơn bà nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Tiếng “Lá Cải” bà dùng gợi cho tôi nhớ tuổi thanh xuân của tôi ở Sài Gòn, thành phố thủ đô yêu thương mà tôi đã không giữ được. Và tôi thầm nói trong tim tôi… Em yêu ơi.. Năm 1960 ở Sài Gòn đôi ta rất trẻ. Năm ấy em mới hai bó lẻ năm sáu que, anh ba bó chẵn, anh đang ở trên đỉnh cao phong độ nhất đời anh. Đêm nay, trong thời gian cuối của cuộc đời đôi ta, anh nhớ lại và anh cảm động. Anh đã yêu em nhiều lắm nhưng hôm nay anh tiếc: ngày xưa khi đôi ta còn trẻ, anh đã không yêu em nhiều hơn..! Ước chi anh trẻ lại bốn mươi tuổi..! Nhưng đó là một đề tài khác. Thôi, không than, không thở nữa.., chuyện ngày tháng qua nhanh, trai trẻ bao lăm mà đầu bạc, sáng như tơ xanh, chiều tuyết trắng…xưa hơn trái đất, ai cũng già đi, chẳng ai trẻ mãi…, người ta già đi thì hổng sao, cho là tự nhiên, mình già đi thì kêu lên oái oái, thở ngắn, than dài…! Anh trở lại với “Nếu đi hết biển“:
TVT: Tôi nghĩ chúng ta không nên xen chuyện tiền bạc trần tục vào câu chuyện nghiêm chỉnh như thế này. Chị là nhà văn. Chị đánh giá như thế nào về sự giao lưu văn học trong và ngoài nước?
HB: Tôi sinh hoạt trong giới những người làm văn nghệ ở hải ngoại nên thường theo dõi ở lãnh vực này. Việc giao lưu sách vở, báo chí trong và ngoài nước chưa hoàn toàn tự do thoải mái, nhưng trong những năm gần đây, một vài tác phẩm có giá trị ở ngoài nước đã được phép chính thức in lại trong nước, như tập trường thiên Sông Côn Mùa Lũ của anh Nguyễn Mộng Giác, một số truyện ngắn của tôi và các bạn khác đã do Nhà xuất bản Phụ Nữ TP. Hồ Chí Minh in lại trong một tuyển tập, và sốt dẻo nhất, tôi được Hoàng Ngọc Tuấn ở Úc cho hay, quyển Văn Học Hiện đại và Hậu hiện đại qua Thực tiễn Sáng tác và góc nhìn Lý thuyết sẽ được Trung tâm Ngôn ngữ & Văn hóa Đông Tây hợp cùng với Đại Học Sư Phạm in lại ở Việt Nam. Thật là một tin vui, bõ công chúng tôi hợp sức làm chung tạp chí Hợp Lưu 12 năm trước đây, với cố gắng làm một cây cầu giới thiệu văn học trong nước với người nước ngoài và ngược lại. Ở hải ngoại, nhóm Hợp Lưu bị chụp mũ là cộng sản, thì ở trong nước lại cho là một bọn xịa, hoặc là diễn biến hòa bình. Rõ chán mớ đời!
Ở Mỹ, hình như, không ai nói những ông bà làm tờ tạp chí Hợp Lưu là Việt Cộng, chỉ có người nói những ông bà ấy là bọn tay sai không công, không được mời của Việt Cộng, là những người không được Việt Cộng nhòm ngó gì đến mà vẫn tự nguyện bưng đít Việt Cộng. Như lời bà Hoàng Bắc nói trên đây, tuy các ông bà Hợp Lưu bưng đít Bắc Cộng nhưng vẫn bị chúng coi là bọn tay sai của CIA. Nhưng nói là nói thế thôi, các ông bà làm tờ Hợp Lưu vẫn phây phây, vẫn cứ bưng đít Việt Cộng dài dài.
Tôi không được đọc trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ của ông Nguyễn Mộng Giác nên tôi không biết trong tác phẩm lớn và giá trị ấy – giá trị theo lời bà Hoàng Bắc – ông có viết gì về những thống khổ của dân Việt dưới ách cai trị tàn nghiệt của bọn công sản hay không. Chắc là không, bởi vì nếu tác phẩm có nội dung lên án bọn Việt Cộng, dù chỉ đả động xa sôi, bóng gió, sức mấy chúng nó cho in và bán trong nước. Kể cũng hay. Và kể cũng “khỉ nắm”. Chỉ cần bọn cộng sản nó cho in lại vài truyện ngắn, truyện dài của mình là khen nó tốt, nó chơi được. Nó đàn áp nhân dân, nó làm nhân dân đói khổ, nó tham nhũng dzàng trời, tối đất, nó ăn cắp tiền của nhân dân công khai, nó cắt đất dâng cho Tàu, nó bỏ tù mút chỉ những người khác. Mặc. Nó cho in lại mấy cái truyện của mình trong nước là nó tốt dzồi.
“Việc giao lưu sách vở báo chí trong và ngoài nước chưa hoàn toàn tự do thoải mái..” Kính thưa bà Nhà văn kiêm nhà Tư tưởng sâu sắc của Trung Tâm William Joiner, bà viết như thế phải chăng tôi có thể hiểu bà muốn nói “Việc giao lưu sách vở báo chí Việt giữa Orange County với Sài Gòn đã có nhưng chưa hoàn toàn tự do..” Nếu bà cho việc quyển truyện Sông Côn Mùa Lũ của ông Nhà văn Nguyễn Mộng Giác, một truyện gì đó của ông Nhà văn Nhật Tiến, vài truyện ngắn của bà, tác phẩm của ông Nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn ..vv… được bọn Bắc Cộng cho in và bán trong nước là việc “giao lưu sách vở báo chí” thì thưa bà, sao bà dễ tính quá dzậy bà? Đừng nói đâu xa chỉ nói riêng ở Orange County, Cali thôi, đâu phải chỉ có ba ông Nguyễn Mộng Giác, Nhật Tiến, Hoàng Ngọc Tuấn, và bà – bà Nhà văn Nguyễn Hoàng Bắc – là những người Việt viết tiểu thuyết? Bộ mấy ông vừa kể và bà là đại diện cho giới người Việt làm văn nghệ ở Mỹ ư? Nếu bọn Bắc Việt Cộng không đăng mấy cái truyện ngắn của bà trong một tuyển tập xuất bản ở Sài Gòn thì phải chăng bà đã không nói như bà đã nói? Là người Việt Nam sống ở Sài Gòn, chắc bà cũng thấy bọn Bắc Cộng chúng nó giết người dã man, khủng khiếp ra sao trong trận Tết Mậu Thân ở Huế? Chắc bà cũng thấy trong Tháng Ba, Tháng Tư năm 1975 đồng bào của bà vì ghê sợ bọn cộng sản mà liều chết chạy trốn chúng nó ra sao? Dù gì bà cũng đã sống mấy năm giữa lòng Sài Gòn đầy cờ đỏ và những bảng đỏ, chữ vàng xốn mắt “Không có gì..”, chắc bà cùng phải thấy Sài Gòn điêu tàn, tang thương, thấy người Sài Gòn bị chúng bắt đi tù mút chỉ, thấy bọn Bắc Cộng hành hạ người Sài Gòn, người Sài Gòn thù hận, khinh bỉ bọn Bắc Công đến như thế nào chứ? Người ngoại quốc người ta còn thấy, người ta còn thương, người ta còn phẫn hận thay, huống chi bà..! Dù sao bà cũng là người Viêt Nam. Vì bà thấy sống với chúng nó bà khổ, nên bà liều mạng bà xuống tầu ra biển. Hai mươi mấy năm qua, mặc ai ở quê nhà khổ sở, sống dzở, chết dzở, bà sống bình yên trên đất Mỹ, chỉ vì bọn cộng sản cho in và bán ở trong nước mấy cái truyện ngắn vô thưởng, vô phạt của bà mà bà tự nhận bà là bạn của chúng nó! Có thể nào bà trâng tráo, bà chai đá đến cái độ bà thản nhiên nói: “Nó đánh chúng mày kệ mẹ chúng mày, nó bồ mí bà, bà bồ mí nó!”
(......)
Vì đây là bài viết về tập “Nếu đi hết biển” nên tôi không viết về những cái hèn mạt của bọn gọi là văn nghệ sĩ xứ Bắc Cộng, trong số có VC Trần Văn Thủy, “bạn” của những ông bà nhà văn Nhật Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Tính chất hèn mạt của những kẻ gọi là văn nghệ sĩ Bắc Cộng bị chính anh già Tổng Bí Nguyễn Văn Linh của họ phơi trần truồng khi anh ta tuyên bố “...Cởi trói cho văn nghệ sĩ..” Một số ký giả Pháp gọi nền báo chí Việt Nam cộng sản là “la presse Vietnamienne museleé“: “Cái báo chí Việt Nam bị rọ mõm“. Người ta không bị rọ mõm, chỉ chó mới bị rọ mõm, người mà bị rọ mõm thì người còn khốn nạn hơn chó! Lại mới đây có một người làm thơ trong xứ Bắc Cộng phóng lên Internet bài thơ về bọn văn nghệ sĩ Bắc Cộng mà người làm thơ ví với loài chó, bài thơ trong có mấy câu, tôi nhớ không đúng nguyên văn:
Bảo câm mõm là câm mõm
Bảo vào gậm giường là chui vào gậm giường
Bảo sủa là tranh nhau sủa
Bảo ăn cứt là tranh nhau ăn cứt…
Vậy mà ở Mỹ vẫn có vài người Việt tị nạn cộng sản lấy làm vinh hạnh ngồi với những của nợ bị rọ mõm và chuyên ăn cứt.
..........
(ngưng trích Hoàng Hải Thủy)
Kính thưa quý vị,
Vào ngày Thứ Bảy 16/8/2025, Nguyễn Thị Bé Bảy đến tham dự một buổi giới thiệu tác phẫm có tên là "Viết Bên Dòng Potonac" - VBDP - tại Arlington, Virginia.
Tác phẩm này có thể gọi là một tuyển tập với những bài văn, thơ và nhạc của "86 Khuôn Mặt Văn Nghệ" gồm có 86 tác giả "sống và viết bên dòng Potomac" và 12 tác giả là "những người bạn phương xa".
Trong số 86 khuôn mặt này, có những vị đã qua đời, trong đó có tác giả Hoàng Hải Thủy, biệt danh là "Công Tử Hà Đông". Ông có một trang nhà (web-site) tên "Hoàng Hải Thủy a.k.a. Công Tử Hà Đông" vẫn cón hoạt động, mặc dù ông đã qua đời vào năm 2020. Muốn đọc những tác phẩm của ông, quý vị cứ "gú gồ" Hoàng Hải Thủy là sẽ thấy.
Trong tác phẩm "Viết Bên Dòng Potomac -VBDP" quyển 1, trang 167-171 đăng 5 bài thơ của ông.
Ở đây, người viết Nguyễn Thị Bé Bảy không đào sâu vào 5 bài Thơ của Hoàng Hải Thủy, chỉ là có một chút chạnh lòng khi thấy ông đứng tên chung trong tuyển tập VBDP.
Có quý vị sẽ nói đây là một tác phẩm thuộc phạm vi văn học, không nên đề cập đến vấn đề ngoài phạm vi này, như ý thức hệ chính trị chẳng hạn!
Tuy nhiên, cố tác giả Phùng Nguyên trong bài "Văn Học Miền Nam 1954-1975- Đường Về Gian Nan" , Quyển 2, trang 152-175, cho thấy rõ yếu tố CHÍNH TRỊ KHÔNG HỀ TÁCH RỜI KHỎI VĂN HỌC!
Không biết, liệu ông Hoàng Hải Thủy có trăn trở dưới mộ hay không, nếu ông biết trong tuyển tập "Viết Bên Dòng Potomac" có tên ông cùng chung với những người khác chính kiến, hay nói như ông, đó là những người Việt tị nạn cộng sản lấy làm vinh hạnh ngồi với những của nợ bị rọ mõm và chuyên ăn cứt (sic)!
Trân trọng,
Nguyễn Thị Bé Bảy
Vrginia ngày 17/8/2025.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét