Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2024

NGÀY TA BỎ NÚI - Vương Mộng Long

Lời giới thiệu: Hồi ký “Ngày Ta Bỏ Núi” đã được viết cách đây 16 năm. Nhưng khi phổ biến, nó đã bị cắt xén và che giấu nhiều điều. Tác giả Thiếu tá Vương Mộng Long đã bỏ công nhuận sắc lại toàn bộ bài viết này. “Ngày Ta Bỏ Núi” với đầy đủ chi tiết từng ngày, từng sự kiện diễn ra trong suốt cuộc lui binh, kể cả những bí mật mà trước đây bị che đậy và giấu nhẹm.Người dân tộc Jarai gọi Pleiku là Trà-Ku.Tôi ở Pleiku lâu rồi, tuy không nói được tiếng Jarai nhưng nghe biết nhiều tiếng thường dùng của họ. Khi nhắc tới Trà-Ku, không ai cố ý khơi chuyện buồn. Nhưng bỗng nhiên thầy trò chúng tôi cùng ngước nhìn nhau, rồi cùng nhìn về phương Bắc, rưng rưng…
<!>
Hướng Nhơn-Cơ có chạm súng, vì ở cuối gió nên tôi nghe rõ tiếng đạn đại liên, đạn đại bác, và đạn súng cối nổ đì đùng.

Trên máy truyền tin có giọng Thiếu tá Khánh, Chi khu trưởng Chi khu Nhơn-Cơ và Thiếu tá Mẫn, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân gọi nhau. Thiếu tá Mẫn báo cáo với bộ chỉ huy liên đoàn rằng Cộng Quân đang tấn công vào khu xưởng cưa cách quận đường Nhơn-Cơ hai trăm mét về hướng Ðông.

Hai khẩu đại bác 105 ly Biên phòng của tôi phải trở ngược nòng về hướng Ðông, yểm trợ cho Thiếu tá Mẫn suốt đêm.

Sáng hôm sau có nhiều phi tuần A37 đánh tiếp cận cho quận Nhơn-Cơ.
Cuộc giao tranh có vẻ kéo dài cầm chừng cho tới trưa 19 tháng Ba.

Trong khi đó thì tình hình vùng tôi chịu trách nhiệm cũng có nhiều chỉ dấu đang biến chuyển. Nửa đêm về sáng chúng tôi thấy nhiều đốm lửa di động vùng Nam Kiến-Ðức, có cả tiếng động cơ.

Những toán chống tank đã được gởi đi nằm phục trong rừng.
Ở đây, tôi không ngán tank Việt-Cộng một chút nào, vì tôi đã trấn giữ cái đồn này gần nửa năm.
Tôi đã nghiên cứu, thám sát và nắm chắc địa hình vùng này.

Chỉ có hai hướng xe tank có thể áp sát đồn Kiến-Ðức. Cả hai ngả đều có bãi mìn chống tank của tôi. Mỗi bãi chôn bốn mươi quả mìn đĩa. Mỗi quả mìn đĩa được kèm theo một đầu đạn 105 ly.
Quan trọng nhất là việc bảo vệ bãi mìn. Bãi mìn không người bảo vệ coi như vứt đi, vô dụng.

Kinh nghiệm trong quá khứ, tháng 8 năm 1973 khi nhảy toán Biên Vụ (Viễn Thám) vùng Ðông căn cứ Plei Djereng tôi đã thấy xe tank địch chạy phoong phoong trên bãi mìn của Quân Ðoàn II đặt gần Plei De Chi hướng Tây Pleiku mà chẳng nghe mìn nổ. Công Binh của Quân Ðoàn II đã bỏ công sức hàng tháng trời để thiết lập bãi mìn chống tank này. Vậy mà sau đó nó bị bỏ thí, không người canh gác.

Công Binh Việt-Cộng chỉ cần hai hàng bangalore là mở được một hành lang rộng cho tank đi qua.
Ở Kiến-Ðức, mỗi bãi mìn chống tank của tôi, khi hữu sự, được bảo vệ bằng một đại đội Biệt Ðộng Quân. Ðại đội này không có nhiệm vụ đánh tank mà đánh những tên cán binh Cộng-Sản đi dò, dọn đường cho tank.

Sáng 20 tháng Ba năm 1975, Trung tá Liên đoàn trưởng ra lệnh cho tôi bứt những cái chốt của Việt-Cộng trên Tỉnh lộ 344 để link-up (bắt tay) với một đại đội thuộc Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân của Thiếu tá Trần Ðình Ðàng. Ðại đội này đang trấn giữ một ngọn đồi bên cái cống xi măng trên tỉnh lộ.

Tôi thu Ðại Ðội 4/82 của Thiếu úy Phạm Văn Thủy từ hướng Bắc về hợp lực với một đại đội của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân tăng phái để giữ đồn Kiến-Ðức. Ðại Ðội 4/82 giữ đồi Tây, Ðại Ðội của Tiểu Ðoàn 63 phòng thủ ngọn đồi chính và chốt giữ cầu Dak Blao.

Tôi dặn dò Ðại úy Tiểu đoàn phó về sự quan trọng của hai bãi mìn chống tank. Bất cứ giá nào cũng phải giữ. Vì nếu tôi đang đánh nhau ở phía trước, mà bị tank địch tập kích từ đằng sau thì không tài nào trở tay.

Ðại úy Hoàn chần chừ một lúc rồi gãi đầu xin tôi cho đi nhổ chốt,
– Thái Sơn cho tôi đi khai thông con đường có được không?

Quả thực, từ xưa tới nay, từ đại đội tới tiểu đoàn, tôi chưa bao giờ sử dụng người phụ tá của mình làm nỗ lực chính bao giờ.

Nhiệm vụ của những ông phó cho tôi là yểm trợ cho tôi, và sẵn sàng thay thế tôi, nếu tôi nằm xuống.

Ðại úy Ngũ Văn Hoàn đã phục vụ dưới quyền tôi gần nửa năm. Ông chỉ thuần túy làm công việc yểm trợ chứ không bị tôi đưa lên tuyến đầu lần nào.

Thấy tôi ngần ngừ, ông ta nài nỉ,
– Giữ đồn nặng hơn bứt chốt. Thái Sơn cho tôi đi bứt chốt đi!

Nghe ông Hoàn nói có lý, tôi gọi hai đại đội trưởng trách nhiệm nhổ chốt là Trung úy Phước (ÐÐ 3/82) và Trung úy Ðăng (ÐÐ 2/82) lên dặn dò, chỉ bảo họ đường đi, nước bước, cách đánh nào thích hợp nhứt trong tình huống này.

Bộ chỉ huy nhẹ Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của Hoàng Long cùng hai đại đội tác chiến lên đường lúc 10 giờ sáng ngày 20 tháng Ba. (Hoàng Long là danh hiệu truyền tin của Đại úy Ngũ Văn Hoàn)
Trong khi tôi đang theo dõi diễn tiến hành binh của Ðại úy Hoàn thì tổ báo động hướng Bù-Binh báo cáo có tiếng xe tank địch.

Ðể tiện quan sát, tôi cùng toán hộ tống leo lên đỉnh đồi Tây, nơi Thiếu úy Phạm Văn Thủy (ÐÐT/ÐÐ 4/82) trấn giữ.

Từ đỉnh đồi, tôi có thể quan sát tới khúc quanh nơi cái cống sập cách Kiến-Ðức gần hai cây số về hướng Nam.
Khẩu SKZ 57 ly của tiểu đoàn lúc nào cũng sẵn sàng trên đỉnh đồi Tây. Ống nhắm của khẩu súng đã điều chỉnh chính xác ngay cái cống sập. Nếu SKZ bắn hụt thì tổ chống tank núp sẵn trên triền đồi sẽ làm nhiệm vụ tiếp tay.

Khi thằng Thọ (B2 Thọ nấu cơm) trao ly cà phê cho tôi vừa trở gót xuống đồi thì tiếng 12.7 ly nổ rền hướng Nhơn-Cơ.

Lúc đó là giữa trưa. Máy truyền tin các cánh quân của Ðại úy Tiểu đoàn phó gọi nhau cuống quýt.

Tôi nghe Delta và An Bình báo cáo đang chạm địch nặng. Delta đang bị đại liên địch dồn xuống khe suối bên trái đường lộ.
Delta yêu cầu An Bình giữ an ninh bên phải giùm anh ta để anh ta rút về con dốc đầu chữ “S”.

Tôi không nghe tiếng Hoàng Long trên máy.
Tôi vào máy hỏi Delta và An Bình sao không nghe Hoàng Long, thì hai anh đều không rõ ông Ðại úy Tiểu đoàn phó ở chỗ nào.

Tình hình có vẻ nghiêm trọng. Tôi giao cho Thiếu úy Thủy lo vụ chống tank rồi tụt xuống đồi.
Nhảy lên chiếc xe Jeep, tôi phóng nhanh tới cái nút chặn hướng Ðông của Ðại Ðội 1/82. Từ đây tôi và toán cận vệ chạy bộ lên chỗ Ðại Ðội 3/82 và Ðại Ðội 2/82 đang chạm địch.

Quân của Trung úy Phước (ÐÐ 3/82) đang nằm trong rừng, bên phải lộ. Phước chiếm được ngọn đồi cao, nằm dài theo hướng Ðông Tây.

Còn Trung úy Ðăng ở bên trái con đường. Ðại liên Việt-Cộng từ hai hướng Nam Bắc con lộ đang bắn tới tấp vào bên trái dốc chữ “S” nơi đơn vị của Trung úy Ðăng bị sa lầy.
Ðại đội của Trung úy Ðăng đang kẹt trong rừng khọt (cây dầu rái) lơ lửng giữa con suối và con đường.

Tôi cho pháo binh và cối 81 ly bắn cản trước mặt đại đội của Trung úy Ðăng để đơn vị của anh bò từ từ lên cao, bắt tay với Ðại Ðội 3/82.

Khi Ðại Ðội 2/82 bắt tay được Ðại Ðội 3/82, tôi ra lệnh cho hai đại đội quây tròn trên đỉnh đồi bên phải tỉnh lộ.
Tôi sử dụng pháo từ Kiến-Ðức bắn ngay mặt lộ để ngăn địch truy kích. Nhưng tiếng súng của địch đã êm. Như thế là chúng không chủ tâm giao chiến, hoặc chúng chưa có lệnh giao chiến với Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.

Chỉ nhìn thoáng qua trận địa, tôi đã hiểu ngay chủ đích của địch là nhử quân ta tiến sát khu chữ “S” rồi chúng dùng hai khẩu 12.7 ly kềm chân quân ta. Sau đó bộ binh địch bao vây chia cắt hậu quân của ta.

Bao vây chia cắt là chiến thuật cổ điển, nhưng rất hữu hiệu khi chặn đánh một đoàn quân đang khai lộ.

Trung úy Ðăng báo cáo với tôi rằng khi đơn vị anh còn cách cái xác của Thượng sĩ Ngon chừng một trăm thước thì đại liên địch khai hoả. Ðại úy Tiểu đoàn phó hăng hái xông lên với trung đội đi đầu của Ðại Ðội 2/82.

Ông Hoàn nói với Ðăng,
– Kỳ này mình lấy cây 12.7 ly về cho Thái Sơn giải buồn!

Nhưng chỉ năm phút sau, từ con suối bên trái trục tiến quân, địch vừa bắn vừa ào ạt xung phong lên cắt đơn vị anh thành ba phần. Chuẩn úy Nguyễn Hữu Ðức và trung đội đi đầu của Ðại Ðội 2/82 bị mất liên lạc; ông tiểu đoàn phó đã đi theo đoàn quân của ông chuẩn úy này.

Xế trưa, tôi cho quân cuốn chiếu, rút lui từ từ về hướng Kiến-Ðức.
Chiều đó chúng tôi bắt tay được tiếp điểm Ðông của Ðại Ðội 1/82.
Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày tôi nghe tiếng Hoàng Long trong tần số nội bộ của Delta. Ông tiểu đoàn phó nói rất nhỏ, có lẽ ông ta đang bị địch bám sát.
– Tôi đi với đứa con đầu của thằng Delta. Tôi bị đánh bọc hậu mất liên lạc với đằng sau. Hiện tôi ở trên triền một ngọn đồi hướng Bắc con đường, nhưng không xác định được tọa độ. Chúng nó (Việt-Cộng) đang đuổi theo tôi.
– Rồi! Bình tĩnh! Anh còn bao nhiêu người cho tôi biết đi?
– Tôi còn sáu chục người!
– Sáu chục thì đủ mạnh để đánh mở đường về với tôi rồi. Cứ hướng bốn nghìn tám trăm mà phóng đi! Càng nhanh càng tốt! Giữ liên lạc với tôi!

Có tiếng bấm ống nghe “xẹt! xẹt!” rồi tiếng Hoàng Long thì thào,
– Thái Sơn ơi! Tôi còn có sáu người thôi! Tôi ngụy thoại thành sáu chục đó (!) Tôi với năm thằng lính của Delta là sáu. Tụi tôi bị chúng nó (Việt-Cộng) cắt ngang từ phút đầu. Cái máy truyền tin này là của trung đội đầu của thằng 2!

Thực là dở khóc, dở cười. Tuy vậy tôi cũng an tâm là ông Hoàn vẫn còn sống. Tôi ôn tồn,
– Thôi được rồi! Bây giờ làm theo tôi chỉ. Ði thẳng hướng sáu nghìn tư cho tới con suối hướng Bắc ngọn đồi anh đang đứng. Sau đó quẹo trái, ngược dòng con suối, đi riết về hướng Tây. Hết suối là về tới chỗ tôi. Làm ngay đi!
– Tôi nghe 5! Thái Sơn nhớ báo cho tụi thằng Hồng Hà (Thiếu úy Học) tránh ngộ nhận tôi đó nhe!
– Ừ! Thôi! Lẹ lên!

Từ đồn Kiến-Ðức, Thiếu úy Thủy báo cáo rằng, nơi cái cống sập, chiếc tank từ hướng Bù-Binh bò lên đã hiện nguyên hình là cái máy cày cài cành lá ngụy trang. Ba tên cán binh Việt-Cộng trên xe, đã vứt xe, nhảy xuống đường định chạy thoát thân khi trái hỏa tiễn XM202 xé nát đầu chiếc máy cày.

Hai băng M16 đốn ngã 3 tên giặc. Ba khẩu AK 47 và một khẩu phòng không 12.7 ly cháy theo chiếc xe tank dỏm.

Chiếc xe máy cày bị bắn cháy đã trở thành chướng ngại vật cản trở xe tank nằm giữa đường Bù-Binh, Kiến-Ðức.
Gần tối hôm đó Ðại úy Tiểu đoàn phó và năm người lính theo ông về tới tiền đồn Bắc của Ðại Ðội 1/82.

Trước đó vài phút, trung đội của Chuẩn úy Nguyễn Hữu Ðức chui ra khỏi rừng hướng Nam con lộ và liên lạc được toán tiếp đón của Ðại Ðội 1/82.
Người mang máy PRC 25 cho Ðại úy Hoàn có mặt trong trung đội của Chuẩn úy Ðức. Cái máy truyền tin của ông tiểu đoàn phó đã bị bắn bể từ phút đầu tiên.

Tính tới 5 giờ chiều, Ðại Ðội 2/82 còn thiếu 14 người.

Ðêm xuống, sương mù dày đặc, trăng thượng tuần có cũng như không. Các tiền đồn không dám gài mìn bẫy vì sợ quân bạn thất lạc trở về vướng bẫy.
Gần sáng, Trung tá Liên đoàn trưởng cho lệnh tôi bỏ Kiến-Ðức, tìm mọi cách rút về Nhơn-Cơ.

Sáng 21 tháng Ba năm 1975, tôi chuẩn bị đánh một trận nhổ chốt thần tốc.
Tôi xin pháo binh của tiểu khu một hỏa tập thu gọn trong ô vuông mỗi chiều một cây số từ đầu tới cuối khúc đường chữ “S”.

Pháo 105 ly Nhơn-Cơ bắn không ngừng từ khi tôi xuất quân, và chỉ được phép chấm dứt khi tôi yêu cầu.

Về phần Trung Ðội Pháo Binh Biên Phòng Biệt Ðộng Quân ở Kiến-Ðức thì 500 quả đạn nổ 105 ly được chất lên xe. Hai khẩu đại bác được hai toán Biệt Ðộng Quân đẩy bằng tay di chuyển trên hai bên bìa đường.

Tôi cho đại bác trực xạ ngay sát mép rừng hướng trước mặt. Quả đạn sau nổ chỉ cách quả đạn trước hai chục thước.
“Ðùng! Ðoàng!”- “Ðùng! Ðoàng!” ra khỏi nòng một, hai giây là đạn nổ.
Khẩu súng bên trái bắn vào rừng bên phải; khẩu bên phải bắn vào rừng bên trái.

Sở dĩ phải bắn như thế vì bắn mục tiêu ở bên lề đường đối diện dễ hơn bắn mục tiêu cùng phía với súng.
Cứ thế, “Ðùng! Ðoàng!”- “Ðùng! Ðoàng!” hai họng đại bác thay nhau tiến lên, bắn liên tục.

Ðàng sau lưng tôi là khẩu 81 ly của tiểu đoàn và bốn khẩu 60 ly của các đại đội.
Tôi cho cối 81 ly bắn đạn thời nổ chậm (delay) trong khi cối 60 ly bắn đạn chạm nổ.
Tầm bắn di động từ gần ra xa dần theo hướng tiến quân. Sau mỗi đợt pháo, tầm xa lại hạ xuống một vòng tay quay.

Vòng tay quay nằm bên phải nòng súng, dùng để điều chỉnh tầm xa của điểm đạn sẽ rơi. Tầm đạn rơi gần nhất là khi nòng súng được đặt ở độ dốc 90 độ so với mặt đất, và được bắn không có thuốc bồi, còn gọi là thuốc bồi KHÔNG.

Ðặt nòng súng với góc 45 độ so với mặt đất, và đuôi đạn được gắn 4 vỉ thuốc bồi thì đạn sẽ rơi trên mục tiêu xa nhất.
Tiếng cối depart “kinh! kinh!” –”kinh! kinh!” liên hồi kỳ trận, âm vang dội trong khe núi.
Ðạn cối nổ “ùm! ùm!” –”ùm! ùm!” Cây cành gãy răng rắc.

Mưa đạn cối đang rơi hai bên đoạn đường ngắn ngủi hơn một cây số rừng rậm.

Thêm vào đấy là tiếng đại liên, trung liên, M79, lựu đạn, và tiếng quân ta reo hò, la hét. Khói và bụi cuồn cuộn trước mặt.
Biệt Ðộng Quân hàng ngang trong rừng, song song với hai khẩu đại bác ngoài đường.

Những người lính miệng hô “Biệt Ðộng! Sát!” vừa bước tới, vừa bóp cò.
Quân đằng trước vừa hết đạn thì dừng lại, thay băng đạn mới; quân đằng sau lên thay, tiếp tục vừa bắn vừa tiến.

Người thì thay phiên nhau bắn, nhưng đạn không ngừng nổ rền trời.
Theo thế sâu đo, Biệt Ðộng Quân tiến ào ào, khí thế như nước vỡ bờ.

Ðây là một trận đánh chớp nhoáng nhưng lại rất thảnh thơi, thoải mái, lớp lang.
Mỗi cánh quân hai bên đường có sáu toán an ninh cạnh sườn. Sáu toán trang bị mìn Claymore và M79 bắn đạn chài, đạn nổ, làm nhiệm vụ chống bao vây chia cắt. Gặp đường mòn, triền dốc, những toán này dừng lại gài mìn bố trí chờ.

Ra quân lần này tôi đã tận dụng tất cả hỏa lực có trong tay đánh phủ đầu không cho địch kịp ngóc lên thở. Khẩu 12.7 ly của Việt-Cộng bên hướng Nam con lộ chỉ bắn được vài viên là câm họng.


Lời giới thiệu: Hồi ký “Ngày Ta Bỏ Núi” đã được viết cách đây 16 năm. Nhưng khi phổ biến, nó đã bị cắt xén và che giấu nhiều điều. Tác giả Thiếu tá Vương Mộng Long đã bỏ công nhuận sắc lại toàn bộ bài viết này. “Ngày Ta Bỏ Núi” với đầy đủ chi tiết từng ngày, từng sự kiện diễn ra trong suốt cuộc lui binh, kể cả những bí mật mà trước đây bị che đậy và giấu nhẹm.

Ðúng như tôi đã dự đoán. Khi quân của tôi vừa chạm đỉnh dốc đầu chữ “S” nơi cái xác của Thượng sĩ Ngon đang bốc mùi, thì hai khẩu phòng không Việt-Cộng đặt trong khu mả của dân Thượng bên trái đường khai hỏa.

Dưới khe bên trái lộ, mìn Claymore bắt đầu nổ. Ba toán Biệt Ðộng Quân ngăn chặn lực lượng bao vây chia cắt đã phát giác địch và cho mìn kích hỏa.

Những chuyên viên chiến thuật bao vây chia cắt của Cộng-Sản Bắc-Việt đang gặp khắc tinh!
Hôm nay các mũi xung kích của địch chưa kịp phóng viên B40 nào thì các xạ thủ đã bị bắn vỡ sọ. Tiếng rên la đau đớn, tiếng quát tháo chửi bới lẫn nhau om sòm dưới khe suối bên trái con lộ. Tiếng Bắc xen Nghệ Tĩnh.

Lúc này đạn M79 của ta bắt đầu tới tấp câu xuống khe.

Tôi đang chỉnh đạn 105 ly của Chi Khu Nhơn-Cơ rơi trên trục nghi ngờ có khẩu phòng không di động của địch thì trong tần số hỏa yểm nghe có tiếng người gọi tôi từ trên trời,
–Thái Sơn cho mục tiêu, tôi phụ một tay! Bắc Bình mới xin tôi lên làm việc với Thiếu tá đây!

Bắc Bình là ông Thiếu tá Trần Văn Bường (K18 VB), Tham mưu phó hành quân của Tiểu Khu Quảng-Ðức.
Tiếng nói trong máy hỏa yểm là tiếng nói quen thuộc của một hoa tiêu máy bay L19 mà trong nửa năm hành quân ở đây, tôi đã nhiều lần ngồi ghế sau anh ta, bay bao vùng khu vực Nhơn-Cơ, Kiến-Ðức. Tôi và anh phi công này đã nhiều lần đánh phối hợp rất ăn khớp và tương đắc.

Tôi hướng dẫn để anh phi công quan sát cái nghĩa địa Thượng nơi ngã ba đường xe be. Tôi nhờ anh triệt hạ giùm hai khẩu phòng không di động đang trụ ở điểm này.

Tôi sơ lược tình hình bạn địch cho anh ta rõ. Hướng đề nghị cho máy bay oanh tạc ra vào là Nam-Bắc, vì quân tôi tiến theo trục Tây-Ðông.

Chiếc thám thính cơ L 19 đảo sát ngọn cây một vòng. Khẩu phòng không đổi góc bắn lên trời, đuổi theo đuôi chiếc L 19.
– Okay! Tôi thấy rồi! Một cái xe bò cài lá ngụy trang có khẩu phòng không. Tôi chơi ngay!

Một trái khói phụt xuống sát bên khu Mả Thượng.
– Ðược chưa? Thái Sơn!
-Ðược rồi! Cứ từ đó dài về hướng 360 độ là địch, đánh tự do!

Sau câu trả lời “Okay! Do!” chiếc quan sát cơ bay tránh sang hướng Ðông.

Tôi che mắt tìm những chiếc máy bay oanh tạc.

Trời trong xanh. Có hai chiếc A 37 đang lượn rất cao. Hai chiếc tàu lấp lánh trong nắng. Hai chiếc tàu nhỏ tí ti. Có tiếng “rè rè!” phát đi từ A 37, hay L 19,
– Bom đi! Pass số 1! Chỉnh!

Tôi trả lời,
– Nhận!

Tôi đã trả lời “Nhận!” nhưng tôi phải che mắt để quan sát xem bom tới từ hướng nào.

Ðời tôi đã có hàng trăm lần được Không quân Mỹ, Việt yểm trợ tiếp cận. Ðây là lần đầu tiên tôi thấy máy bay yểm trợ cho tôi đã thả bom ở tầm cao quá sức là cao! Có lẽ bom được thả từ trên cao độ mười ngàn bộ (feet) có dư!

Mắt tôi thấy một chấm đen từ trên thăm thẳm hướng Ðông đang bay về phía mình. Chấm đen tới gần, nó vẫn giữ hình thù một cái chấm.
Bom tới sát lắm rồi, mà vẫn chỉ là cái chấm!
Thôi bỏ mẹ! Bom bay mà chỉ thấy một cái chấm, không thấy chiều dài của nó tức là nó đang nhắm vào đầu mình rồi!

Tôi la thất thanh,
– Nằm xuống! Nằm xuống!

Vừa xô thằng Bích xuống cái rãnh khô bên đường, tôi vừa nói với các ông phi công,
– Sáng nay các anh đã giết một Tiểu đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân rồi đó! Các anh ơi!

Tôi chỉ kịp nằm úp mặt trên đường nhựa thì quả bom đã chạm đất.
“Ầm!”

Bụi, đất, sỏi, đá, cây cối bay tung, phủ trùm một vùng.
Quả bom rơi cách tôi và khẩu đại bác đi đầu chừng chục mét. Nó rơi ngay trên cạnh Bắc của con đường, sát bờ suối, đàng sau một mô đất.

Mô đất cao hơn đầu người và cây cối mọc trên đó đã bị sức công phá của quả bom dọn sạch ngay sau tiếng “Ầm!” vừa rồi.
Chưa rõ tổn thất quân bạn ra sao, chưa rõ chính tôi có bị thương hay không, tôi quơ cái máy truyền tin:
“Check Air! Check Air!”

Tôi nghe anh phi công L19 đang cự nự anh phi công A 37,
– Ð.M! Toa làm ăn như con c…c!

Rồi anh hỏi tôi,
– Sorry! Sorry! Thái Sơn có sao không?
– Cám ơn anh! Thôi! Cho họ về đi! Tôi không cần họ nữa!

Tôi ném cái ống nghe của máy Không Lục xuống đường.

Ðoàn người mình mẩy đầy đất cát lồm cồm đứng dậy. Không kịp phủi bụi trên đầu tóc, họ tiếp tục chuyển đạn, nạp đạn, giựt cò.
“Ðùng! Ðoàng!”- “Ðùng! Ðoàng!”

Chỉ một khẩu đại bác bên trái đường còn nguyên vẹn. Khẩu súng bên phải đường bị mảnh bom đánh xẹp bánh.
Có một người chết vì quả bom là Binh nhứt Ðức Ðiếc. Ðức Ðiếc bị vỡ sọ. Xác của Ðức Ðiếc được kéo sang lề đường để tạm trên cỏ.

“Ðùng! Ðoàng!”- “Ðùng! Ðoàng!”
“Tiếp tục!” – “Còn một khẩu, ta chơi theo một khẩu! Tiến lên đi! Anh em ơi! Biệt Ðộng! Sát!”

Toán viễn thám của Hạ sĩ Mom Sol và toán viễn thám của Hạ sĩ Nguyễn Tuấn được gom lại thành một đội xung kích. Họ vượt suối, băng ngược lộ trình rút lui của ông tiểu đoàn phó ngày hôm qua.

Khi tới điểm hẹn, Hạ sĩ Mom Sol xin tôi ngừng tác xạ pháo binh trên khu Mả Thượng để hai toán viễn thám tiến sát địch.
Thỏa mãn yêu cầu của Mom Sol, tôi cho pháo binh tạm ngừng.

Tới khi Mom Sol đã sẵn sàng tại vị trí, tôi cầm ống liên hợp gọi Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn trưởng để xin tiếp tục yểm trợ thì nghe đầu máy bên kia có tiếng một người lạ, người này nói giọng Bắc,
– Anh hãy báo cáo mục tiêu cho tôi một cách thật chi tiết, tôi sẽ cứu xét đơn xin hỏa yểm cho anh!

Quả thực từ ngày đi lính tới giờ này, tôi đã từng gọi máy xin pháo yểm cả trăm lần, chưa lần nào tôi nghe ai đó làm khó dễ như cái giọng nói lạ hoắc kia.

Tôi la lên,
– Tôi đang đụng địch rất nặng, yêu cầu yểm trợ ngay! Tôi không có thì giờ để giải thích dài dòng! Yêu cầu thoả mãn hai chục tràng đạn hỗn tạp trên mục tiêu! Nghe rõ chưa?

Có tiếng lè nhè đáp lại,
– Anh cãi lệnh tôi hả? Nếu anh không báo cáo cho tôi rõ tình hình địch, tôi sẽ cúp pháo binh! Không cho anh một viên đạn nào nữa!

Tôi nổi cơn điên,
– Ð! Mẹ mày! Mày là thằng nào? Mày cứ cúp pháo binh đi! Tao mà thoát chết trận này thì mày sẽ biết tay tao! Tao sẽ bắn nát óc mày!

Ðầu máy bên kia đột ngột tắt tín hiệu. Một giây kế đó là tiếng ông Liên đoàn trưởng,
– Thái Sơn đây Hai Lẻ Bảy! Người vừa nói chuyện với chú là ông phó của anh. Ông ấy mới tới đơn vị, nên chưa biết chú. Thôi! Bỏ qua đi! Pháo binh đã bắt đầu bắn lại rồi đó!

(Hai Lẻ Bảy= 207 là danh hiệu truyền tin của Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân)

Không lâu sau đó thì đạn đại bác từ Nhơn-Cơ lại theo nhau xé gió, rơi trên khu Mả Thượng. Hết hai mươi tràng pháo yểm, tôi ra lệnh,
– 821!825! Ðây Thái Sơn! Lên đi!

Rồi tôi nghe M72 nổ. Tiếp đến là M16. Sau cùng là lựu đạn.

Bẵng đi một lúc, có tiếng Mom Sol reo trong máy,
– Báo cáo Thái Sơn xong rồi! Hai cây phòng không. Một trên xe bò, một trên gò mả. Tụi tui chờ Thái Sơn nơi ngã ba.

Ðoạn giữa cái eo chữ “S” là nơi địch đắp mô. Lá cờ nửa xanh nửa đỏ, sao vàng của Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam đã rách tả tơi nhưng còn bay phần phật bên lộ.
Ðại Ðội 1/82 ào lên. Ðạn của ta réo như mưa bão.

Từ bìa rừng bên phải đường, một tên Việt-Cộng, có lẽ là cấp chỉ huy, nhảy ra giữa đường; tay nó giơ cao khẩu K 54 bắn chỉ thiên:
“Các đồng chí! Giữ vững…”

Hắn chưa hô dứt câu thì, “Cành! Cành! Cành! Ðùng! Ðùng! Ðùng!” thân hình hắn đã gập xuống; khẩu K54 rơi trên mặt đường; đạn ghim kín người hắn.

Từ ven rừng phía Nam con lộ, nhiều cán binh Việt-Cộng phóng nhanh qua đường tìm cách nhào xuống suối.
Súng cứ nổ giòn giã, hiệu lệnh của cuộc hành quân hôm nay là “Giết!”
Bất cứ cái gì nhúc nhích trước mặt đều là mục tiêu!

“Giết!” Hôm nay chúng tôi xuất quân với tất cả lòng căm hờn.
Chúng tôi đã tiến tới cuối đoạn cua chữ “S” hướng Ðông.

Ðại đội của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân trấn giữ ngọn đồi trên tỉnh lộ gần con suối Bắc Nhơn-Cơ thấy hỏa lực của chúng tôi kinh khủng quá, họ sợ chúng tôi ngộ nhận, bắn càn, nên vội vàng bỏ vị trí, rút về bên kia suối.

Tiếng súng tạm yên thì hai cánh quân hai bên đường được lệnh bung sâu vào rừng kiểm soát an ninh hai hông phải và trái chiến địa.
Chúng tôi hoàn tất cuộc nhổ chốt trong vòng chưa đầy hai giờ đồng hồ.
Ngay sau khi con đường được khai thông, tôi ra lệnh cho tiểu đội cận vệ trở lại Kiến- Ðức hộ tống số dân Thượng tị nạn và gia đình binh sĩ di chuyển về quận Nhơn-Cơ chờ xe.

Tổng kết trận này, quân bạn có sáu chết, một mất tích, mười ba bị thương vừa nặng, vừa nhẹ.

Con số địch bị giết vào khoảng trên dưới một trăm. Vũ khí chúng tôi tịch thu được hôm đó có lẽ nhiều hơn số địch bị giết.
Ông Ðại úy Trần Dân Chủ. Trưởng Ban 3 Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân ra lệnh cho Chuẩn úy Lê Văn Phước, Sĩ quan Ban 3 của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân phải gửi gấp cho ông ta một bản tổng kết số nhân mạng địch bị giết và số chiến lợi phẩm tịch thu được.

Sự hứa hẹn khen thưởng vì chiến công không hấp dẫn chúng tôi trong lúc này.
Ban Mê Thuột đã rơi vào tay giặc. Lon lá, huy chương, những lời ủy lạo, những câu nói khích tướng của thượng cấp đâu còn ý nghĩa gì đối với những con người đã mất tất cả như chúng tôi hiện nay?

Tôi nói với chú Phước hãy trả lời phiên phiến cho qua, việc cần yếu hiện thời là yêu cầu liên đoàn mau mau cung cấp phương tiện chuyên chở thương binh cùng với số dân chúng tị nạn và gia đình binh sĩ rời khỏi nơi đây càng nhanh càng tốt.

Tôi vào quận đường Nhơn-Cơ và chỉ gặp Thiếu tá Khánh, Quận trưởng, không thấy ông Thiếu tá Mẫn vì vừa nghe tôi báo cáo khai thông xong con đường, liên đoàn đã cho Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân của Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn rút về Gia-Nghĩa.

Trung tá Liên đoàn trưởng cho lệnh tôi vào đồn đóng quân chung với Ðịa Phương Quân của Thiếu tá Khánh và đặt ông Khánh dưới sự chỉ huy của tôi.

Tôi không chịu đóng quân trong quận lỵ. Tôi tin chắc rằng, sau khi hai bãi mìn ở Kiến-Ðức rơi vào tay Cộng Quân thì chỉ cần hai chiếc T54 là địch đủ sức san bằng cái đồn Nhơn-Cơ tí teo.

Ðồn Nhơn-Cơ chỉ có một cổng ra vào hướng tỉnh lộ từ Kiến-Ðức về. Sau lưng đồn, sát hàng rào là một cái đập nước rộng và sâu. Chui vào đồn là chui vào rọ.
Ðại úy Tiểu đoàn phó Ngũ Văn Hoàn, được lệnh gom quân đang giữ Kiến-Ðức, cuốn chiếu qua mặt tôi, rồi leo lên con dốc hướng Ðông của quận đường Nhơn-Cơ.

Tôi giao cho ông Hoàn nhiệm vụ đốt cái đồi Kiến-Ðức trước lúc rút đi.
Chuẩn úy Bảo, một sĩ quan Trung đội trưởng của Ðại Ðội 4/82 là người sau cùng rời Kiến-Ðức.

Những quả mìn cơ động do Bảo gài lại nơi điếm canh hướng Ðông của căn cứ là những cái bẫy sau cùng, đón chờ những cán binh Trung Ðoàn 271/ T10/ CSBV khi họ vào tiếp thu đồi Kiến-Ðức.

Hai đại đội tăng phái của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân đã theo tôi từ trước Tết Âm Lịch, giờ này được tôi trả lại Gia-Nghĩa cho Thiếu tá Trần Ðình Ðàng.

Khẩu đại bác 105 ly bị bể bánh đã được phục hồi. Cả hai khẩu pháo binh biên phòng đều được kéo về nơi dự trù đóng quân của ông Tiểu đoàn phó cùng Ðại Ðội 2/82 và Ðại Ðội 4/82, trên khu chứa gỗ trước xưởng cưa Nhơn-Cơ cách tôi chừng hai cây số về hướng Gia-Nghĩa.

Trưa 21 tháng Ba tôi bố trí Bộ chỉ huy tiểu đoàn và hai Ðại Ðội 1/82 và 3/82 ngay ngã ba đường xe be, nơi đầu khúc cua hướng Ðông của đoạn đường chữ “S”.

Chiều hôm ấy, cách Kiến-Ðức hơn bốn cây số, tôi nghe tiếng đạn cháy nổ “Ùm! Ùm! Lép! Bép!” vọng về. Ngọn khói đen bốc lên cao dần.

Tôi đứng bên con đường nhựa, cạnh những ngôi mộ mới. Bên lề tỉnh lộ này, chúng tôi đã chôn những người bạn vừa chết hôm qua và hôm nay.
Lù lù giữa Tỉnh lộ 344 là một đống vũ khí chiến lợi phẩm tịch thu được của địch.

Bên đường là một rờ-mọt (remorque) súng dư dùng của ta.
Một núi súng ta, súng địch, gom lại, chỉ cần hai quả lựu đạn lân tinh là cháy tiêu hết!

Sương chiều dâng, rừng núi mờ dần, lòng tôi tê dại, dửng dưng…
Sáng sớm 23 tháng Ba năm 1975, tiền đồn hướng Tây báo cáo có tiếng hô “Xung phong!” trên đồi Kiến-Ðức.

Pháo binh đã chuẩn bị yếu tố. Hai chục tràng đạn bay đi để chào mừng những người chủ mới đến tiếp thu ngọn đồi này.
Tiếp đó là một tiếng “Ùm!” từ hướng Tây vọng lại. Như vậy là bãi mìn chống tank đã nổ! Không rõ tank địch đã vô ý cán lên bãi mìn, hay bangalore của Công Binh Cộng- Sản Bắc-Việt đã phá hủy nó?

Và cũng từ ngày này tôi bận tâm suy nghĩ phải làm gì để đương đầu với xe tank địch trong những ngày sắp tới?
Ngày 25 tháng Ba năm 1975, khoảng 9 giờ sáng tôi vào quận để thăm ông Thiếu tá Khánh. Tôi không gặp được ông Khánh. Mấy ông lính Ðịa Phương Quân cho tôi hay, từ mấy ngày trước, ông quận trưởng đã ra Gia-Nghĩa và ở lại ngoài đó không về.

Tôi đi ngang hầm truyền tin thì nghe loa khuếch âm oang oang, tiếng Thiếu tá Khánh ra lệnh cho lực lượng đồn trú:
“Các anh chuẩn bị bỏ đồn, rút về Tiểu Khu. Nhớ vặn nhỏ volume kẻo ông Thiếu tá Biệt Ðộng Quân nghe được thì rầy rà!”

Người chuẩn úy trực Chi Khu thấy tôi đứng trước hầm, anh ta luống cuống phân bua,
– Trình Thiếu tá, không phải lỗi em!

Tôi xua tay,
– Ðừng ngại! Cứ thi hành lệnh đi! Tôi sẽ gặp sếp của anh!

Tới hầm súng cối, tôi tần ngần nhìn khẩu cối 4 chấm 2 (cối 4.2 tức cối 106 ly), đạn còn nhiều quá!

Tôi gọi chiếc GMC của tiểu đoàn vào chở khẩu súng này lên cho ông Ðại úy Hoàn. Thượng sĩ Năng là chuyên viên bắn 106 ly của tôi, khi chúng tôi còn ở Pleime.
Thượng sĩ Năng chắc phải vui lắm khi nhận được khẩu cối này.

Trước khi Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân Nhơn-Cơ ra khỏi đồn, tôi nghe trong máy, tiếng Thiếu tá Trần Văn Bường, Tham Mưu Phó của Tiểu Khu Quảng-Ðức ra lệnh cho Sĩ quan Pháo Binh Diện-Ðịa đồn Nhơn-Cơ bắn hết số đạn dự trữ tại ụ súng, sau đó phá hủy tất cả súng đại bác 105 ly của đơn vị này.

Tôi đứng quan sát những pháo thủ Nhơn-Cơ bắn cả ngàn quả đạn về hướng Kiến-Ðức, trong đó có những viên đạn phostpho.
Sau cùng, họ đã thả từng quả lựu đạn màu đỏ vào nòng súng, hủy từng khẩu pháo.
Tôi nhìn cách phá súng của họ và học lóm được cách tháo ống thủy điều cho chất nước đỏ chảy ra, nòng súng thụt xuống không sử dụng được.

Chừng nửa giờ sau thì quận đường Nhơn-Cơ trống trơn.
Tôi cho lệnh đốt quận đường rồi giựt mìn phá hủy cái cống bắc ngang suối Nhơn-Cơ.

Sau đó tôi cho quân rút lên đỉnh dốc giữa đường Nhơn-Cơ, Gia-Nghĩa.
Nửa tiểu đoàn quây quanh khu vườn rộng sau cái miếu Thổ Ðịa nơi đầu dốc. Hai khẩu 105 ly biên phòng hướng về phía Tây sẵn sàng đạn chống tank.

(còn tiếp)

Không có nhận xét nào: