Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2022

Con đường của Bảo Ngọc - Kiên Đinh

Tranh màu minh họa "Hồng Lâu Mộng" của Tôn Ôn đời nhà Thanh
Trong gió tuyết to lớn, Bảo Ngọc từ biệt cha ở bến đò, cảm ơn công dưỡng dục của ông, rồi khoác lên mình chiếc áo choàng đỏ, đi xa vào trong mưa tuyết. Cá nhân tôi cảm thấy, việc Cao Ngạc bổ sung viết tiếp việc Bảo Ngọc xuất gia, cũng tựa như chiếc áo choàng đỏ này, tất cả đều là mánh lới của chủ nghĩa hình thức tươi đẹp, là một biểu tượng đẹp đẽ, nhưng không chút chân thành. Đây cũng chính là lý giải của ông với tu luyện. Trong những hồi Cao Ngạc bổ sung, Bảo Ngọc xuất gia khi còn trẻ. Lúc đó Bảo Thoa đang có thai, Bảo Ngọc và Giả Lan – con của anh trai mồ côi từ trong bụng mẹ cùng tham gia thi Hương Khôi, nộp xong bài thi đi ra, thì không tìm thấy người. Người nhà đi tìm khắp nơi, cũng không hỏi được tin tức
<!>
Sau đó, cha cậu là Giả Chính trở về từ Bắc Kinh sau khi ra ngoài làm quan, trên đường thủy trở về, tiết trời đang mùa đông, thuyền neo đậu tại một bến phà cổ, đột nhiên Bảo Ngọc xuất hiện trên bờ, với một chiếc áo choàng đỏ, đầu trọc chân trần, đứng trong tuyết hướng về phía thuyền của ông mà cúi đầu bái lạy. Giả Chính đi ra đầu thuyền, hỏi có phải Bảo Ngọc không, lúc này nét mặt Bảo Ngọc thể hiện vừa vui vừa buồn. Vừa khi đó có một tăng nhân và một đạo sĩ đi tới, kéo Bảo Ngọc đi và nói: “Đi thôi, đi thôi”. Đoàn người nhanh chóng rời đi một bí ẩn và biến mất, chỉ còn lại Giả Chính đứng ngẩn ngơ bàng hoàng.

Trong màn kịch này nhìn nhận từ hiệu quả thị giác, là thực sự rất đẹp – sông dài, bến phà cổ, trong tuyết trắng mênh mông mịt mù, Bảo Ngọc đột nhiên xuất hiện với một chiếc áo choàng đỏ, sau khi bái tạ cha, liền đi theo tăng nhân và đạo sĩ. Cảnh này luôn được những nhà nghiên cứu và hâm mộ bộ tiểu thuyết ca ngợi, ngay cả Trương Ái Linh cũng khẳng định như vậy. Người ta nói rằng tác giả Cao Ngạc viết tiếp những hồi sau của tiểu thuyết có ngàn vạn sai lầm, cảnh này miêu tả lại đẹp như tranh, thể hiện được tinh túy của Hồng Lâu Mộng. Tuy nhiên, chúng tôi đã dùng 4,5 kỳ để bàn về việc bổ sung viết tiếp này là không nên thực hiện, vì vậy trong kỳ này cũng không đổi đường dịch đạo, vẫn tiếp tục nói về màn Bảo Ngọc xuất ra mặc áo choàng đỏ là không nên được lập, và việc viết tiếp tu sửa này đã làm trái với tinh thần trong nguyên tác của Tào Tuyết Cần.

Trong 80 hồi nguyên tác của Tào Tuyết Cần, ý đồ của việc miêu tả thiên giới triển hiện tại thế gian của con người, phân thành nhiều tầng, cho thấy sự lĩnh ngộ của ông với Thiên ý là vô cùng thâm sâu. Trong trận đại hồng thủy, Nữ Oa vá trời là một tầng Thiên ý. Dưới đỉnh Thanh Ngạnh núi Đại Hoang, là nơi dài đằng đẵng, không sinh không diệt ở Thiên giới. Một vị tăng nhân một vị đạo sĩ kia, lại là một tầng Thiên ý, họ là sứ giả kết nối tiên giới với phàm trần, không nơi nào không có mặt. Còn chủ quản trăng gió thế gian, nam nữ si tình – Cảnh Ảo tiên tử, lại là một tầng Thiên ý. Đến tầng cách con người gần nhất, đó là Vinh Quốc công, Ninh Quốc công đã quá cố, tầng tổ tông này còn có quan hệ với con cháu đời sau. Mỗi một tầng thiên giới đều đối ứng với một tầng diện này của con người, sẽ có các loại biến đổi và thể hiện cụ thế.

Tuy nhiên, càng cao cách nơi nhân loại càng xa, ví như Nữ Oa vá trời, kỳ thực liên quan tới chúng sinh trong Tam giới, nếu không có Nữ Oa vá trời, cũng giống như trên đỉnh đầu ta không có ngói che đầu. Vì hồng thủy là sự chấm dứt cho một thời kỳ văn minh, trời cũng bị rò rỉ, vá xong rồi mới có thể bắt đầu một nền văn minh khác.

Tuy nhiên, những sự tích về nguồn gốc của những nền văn minh này, càng về sau càng bị lãng quên, trở thành một loại truyền thuyết xa vời gọi là “Thần thoại”, dường như không có liên quan gì đến hiện thực của nhân loại ngày nay. Vì kiếp nhân sinh của chúng ta chỉ ngắn ngủi trong mấy chục năm, cơ bản không có cơ hội nhìn thấy sự chuyển động, biến đổi lớn lao của Thiên và Địa; trí tuệ của chúng ta lại dễ bị giới hạn trong những gì nhìn thấy trước mắt, vì vậy mọi sự vật bao la mênh mông, dễ dàng trở thành thành thoại và truyền thuyết.

Một tầng Thiên ý khác, là hai vị Không Không đạo nhân và Diểu Diểu chân nhân dưới chân núi Thanh Ngạnh, vân du bốn phương hồng trần, quay về Tiên giới, lại lần nữa mang theo Thông Linh Bảo Ngọc hạ thế, hơn nữa những người mà họ phải an bài trải qua cám dỗ nơi thế gian cũng không phải chỉ có một mình Bảo Ngọc. Ngay từ khi bắt đầu đã nói rõ, có một cái án phong lưu cần chấm dứt, sẽ có bọn oan gia phong lưu đổi kiếp đầu thai xuống trần. Được đề cập tới ở đây, dĩ nhiên là một đám nam nữ phong lưu Đại quan viên, mà trong kinh thành, văn hóa Trung Nguyên phồn hoa, không biết có bao nhiêu nơi như vậy.

Một tăng nhân một đạo sĩ an bài cho Thông Linh Bảo Ngọc hạ thế, không nơi nào không lui tới trong cõi hồng trần, đưa ra những lời cảnh báo, còn kịp thời cứu khổ cứu nạn. Họ trù tính trọn vẹn đầy đủ trình tự hạ phàm, ví như đầu thai vào nhà ai, sẽ giao tiếp với ai trong cuộc sống, cuối cùng, còn đảm bảo cho viên Thông Linh Bảo Ngọc này có đi có về, lại phù hợp với gia đạo hưng thịnh thăng trầm trong một đại gia tộc, phù hợp với những bình sinh đời người trải qua tại thế gian, gặp phải những cảnh ngộ để có thể cảm thụ, cuối cùng sinh ra nguyện vọng muốn phản bổn quy chân, tất cả đều nhịp nhàng ăn khớp, hoàn hảo. Điều này cũng giống như một dụng cụ chính xác được tạo ra bởi một niệm. Trong không gian này, trong trường thời gian đặc định này mà khởi tác dụng, tất cả các bánh răng đều có thể ăn khớp với nhau và hoạt động bình thường.


Mỗi một tầng thiên giới đều đối ứng với một tầng diện này của con người, sẽ có các loại biến đổi và thể hiện cụ thế.

Dưới ngòi bút của Tào Tuyết Cần, ý chỉ nơi Thiên giới chia thành các tầng thứ khác nhau để hiển thị tại thế gian, Cảnh Ảo tiên tử nắm giữ chuyện tình duyên tại đây cũng là một trong những tầng thứ đó, cô chỉ quản nam nữ si tình tại thế gian, điều chỉnh tình duyên này dệt thành tình thiên hận hải.

Đồng thời, dù tình duyên như gió xuân thổi hoa, cỏ cây đua nhau khoe sắc, nhưng phải chính xác đến từng người, từng giọt nước mắt của mỗi người. Cũng giống như Đại Ngọc hoàn trả hết món nợ nước mắt cho Bảo Ngọc, thì sớm ra đi khi đang xuân trẻ, cũng chính là kim thiền thoát xác, mà rời khỏi thế gian. Nước mắt nay có trọng lượng khoảng bao nhiêu, ở vào tình hình nào thì rơi lệ, có lẽ đều có một sự sắp đặt bài bản chính xác trước đó. Trong cuộc sống phàm trần, xuân hoa thu nguyệt nơi đại quan viên, hạ sen đông tuyết, một niệm của người con gái khi suy nghĩ tới tâm can đầu óc, ý muốn nhất thời có thể khóc một trận. Trên thực tế, thúc đẩy đến cơ duyên của một trận nước mắt đều là những sự việc đã được an bài từ trước. Vì vậy, dù nhìn dường như tản mạn vụn vặt, cuộc sống hàng ngày tưởng chừng vô biên vô tận, lớn đến sự thịnh vượng của một triều đại, một tòa vương phủ trăm năm cũng tan thành mây khói, nhỏ tới những giọt nước mắt của người con gái rơi vì tình lang dưới giàn cây tường vi, có lẽ đều là tiền duyên thiên định. Trên thực tế, một công cụ chính xác đang quản lý cuộc sống, cảnh ngộ và nước mắt của chúng ta.

Những người gần gũi nhất với thế gian con người, không có năng lực, chỉ có mong muốn đơn giản chất phác, một nguyện vọng tốt đẹp của đại gia tộc này, chính là những người sáng lập thế hệ đầu tiên của Ninh quốc phủ, Vinh quốc phủ: Vinh Quốc Công và Ninh Quốc Công. Họ dù đã chết, nhưng anh linh vẫn còn, cũng nhìn thấy kết cục hoại diệt của gia tộc mình. Vì vậy, trong cảnh giới thiên nhân này, có thể tính kế nhờ Cảnh Ảo tiên tử, dẫn dắt chỉ bảo cho Bảo Ngọc – Trong rất nhiều con cháu ở phủ Ninh Vinh, theo nhìn nhận của họ là nhân tài duy nhất có thể đào tạo.

Điều mà Ninh công và Vinh công nhìn thấy là vận số Giả phủ đã tận, điều họ kỳ vọng không phải là Bảo Ngọc có thể cố gắng xoay chuyển tình thế, làm hưng thịnh lại gia nghiệp của tổ tiên, vậy điều họ mong đợi là gì? “Nhà chúng tôi từ đầu quốc triều, đời đời công danh phú quý đã trăm năm nay. Bây giờ số vận đã hết, không thể kéo lại được nữa. Con cháu chúng tôi tuy nhiều, nhưng chẳng có đứa nào nối nghiệp. Chỉ có cháu đích tôn là Bảo Ngọc, có chút thông minh đĩnh ngộ, may ra có thể thành đạt được, nhưng vì tính nó ngang trái kỳ quặc, sợ không ai dìu dắt vào đường chính. May gặp tiên cô đến đây, xin nhờ lấy những việc tình dục thanh sắc dạy bảo bệnh si ngoan của nó, họa chăng nó có thể thoát vòng mê muội, đi vào đường chính, thì rất may cho anh em chúng tôi”.

Đường chính đạo đó là gì? Phương thức là gì? Chính là vén bức màn bí mật chuyện tình cảm nam nữ, cũng đồng nghĩa với việc để một người có cơ hội phản bổn quy chân, quay trở về. Tiền đề là để anh ta xuất phát, trải nghiệm, chìm đắm thậm chí lạc lối mất phương hướng, nhưng con đường này thực sự có điểm kết. Cuối cùng, người này trải qua tất cả, thực sự cảm thụ được dư vị trong những trải nghiệm đó, và cũng có thể nhìn rõ những thủ đoạn và mọi thứ chỉ là hư không. Nhìn rõ những tình cảm nơi thế tục, mới có thể thực sự chân chính lĩnh ngộ. Đây cũng là sự kỳ vọng của tổ tiên Giả phủ với Bảo Ngọc, chỉ có nhìn thấu quan tình, mới có thể lĩnh ngộ được nhân quả, có được trí tuệ, quy về với chính đạo của trời đất.

Chúng ta nhất định không thể giới hạn suy nghĩ trong những lời khuyên răn của Sử Tương Vân và Tiết Bảo Thoa với Bảo Ngọc là “kinh tế văn chương, thế gia tiền đồ”, bởi những thứ vinh hoa phú quý này, đều là ngắn ngủi, kinh nghiệm sống và trí tuệ mà tổ tiên chúng ta truyền lại đều đã nhiều lần khuyên nhủ: Phú quý là ngắn ngủi, sự giàu có không quá ba đời. Hoặc như Mạnh Tử đã tổng kết: “Quân tử chi trạch, ngũ thế nhi trảm; tiểu nhân chi trạch, ngũ thế nhi trảm”. Nghĩa là: “Đức nghiệp lưu truyền của người quân tử, đến năm đời là hết, đức nghiệp của kẻ tiểu nhân, cũng năm đời là đoạn”. Giả phủ trong Hồng Lâu Mộng, bắt đầu tính từ đời Giả Diễn đến Giả Chân của Ninh Quốc phủ là đời thứ tư, đến Giả Bảo Ngọc, Giả Liễn, đến Giả Dung và Giả Lan của Vinh Quốc phủ vừa đúng lúc là đời thứ năm, vận mệnh đã tận. Người có trí huệ của tổ tiên Giả phủ biết được sinh mệnh đường đời là Thiên mệnh an bài, điều họ quan tâm, không phải là làm thế nào để giữ được sự vinh hoa phú quý mãi mãi, mà là thực sự để sinh mệnh quay trở về, quay về với chính đạo. Cổ ngữ có câu: “Nhất nhân đắc đạo, cử gia thăng thiên, khuyển phệ thiên thượng, kê minh vân trung” (Tạm hiểu là: Một người đắc đạo, cả nhà thăng thiên). Nếu Giả Bảo Ngọc hiểu rõ được quan tình cảm, đắc được chính quả, vậy tổ tiên của họ đều có thể đắc được phúc báo. Đây là điều kỳ vọng của Vinh Quốc Công với thế hệ con cháu sau này.


Lớn đến sự thịnh vượng của một triều đại, một tòa vương phủ trăm năm cũng tan thành mây khói, nhỏ tới những giọt nước mắt của người con gái rơi vì tình lang dưới giàn cây tường vi, có lẽ đều là tiền duyên thiên định.

***
Vậy cách mà vị tiên Cảnh Ảo độ thoát Bảo Ngọc là gì? Cô không dùng lời cảnh báo bằng lý luận, mà mở cánh cửa tình yêu nam nữ cho anh.

Cảnh Ảo định nghĩa về chuyện thế gian tình sự như thế nào? Dưới trần bao nhiêu nhà phú quý, những nơi gió trăng trước cửa sổ, khói mây trong buồng thêu, đều bị bọn trai hư gái hỏng làm nhơ bẩn. Đáng giận hơn nữa là xưa nay những bọn con nhà khinh bạc hay biện bạch rằng: “hiếu sắc mà không dâm”, lại bảo: “tình mà không dâm”, đó chỉ là những lời để che lấp thói xấu mà thôi. Biết đâu “hiếu sắc tức là dâm”. “Biết tình lại càng dâm”. Bảo Ngọc trong mắt vị tiên Cảnh Ảo là “Người dâm nhất thiên hạ xưa nay”, tại sao như vậy? Trong Hồng Lâu mộng có nói, “Như anh, khi mới sinh ra đã mang một mối si tình, chúng ta gọi thế là ‘ý dâm'”. Hai chữ “ý dâm” chỉ có thể hiểu ngầm trong lòng, chứ không thể nói ra miệng, đối với mọi người đều tỉ mỉ chu đáo quan tâm, tình cảm lưu luyến. Cái gọi là “Người dâm nhất thiên hạ xưa nay”, câu nói này là tương đối mạnh dạn, ở vào bất cứ thời đại nào, ngữ cảnh nào, đều là rất to gan. Đây cũng là chỗ hạ bút bất phàm của Hồng Lâu Mộng, không lặp lại những chuyện cũ với lời lẽ nhạt nhẽo, không theo kiểu cũ, mỗi một sự vật liên quan đến tác phẩm, đều có tên gọi khác nhau, định nghĩa khác nhau, mang tới cho người đọc sự mới mẻ.

Vị tiên Cảnh Ảo để Bảo Ngọc ở trong mơ, được gả cho một cô gái tên gọi Kiêm Mỹ, tên chữ là Khả Khanh và trải qua vài ngày tình cảm lưu luyến như vợ chồng. Trong mộng trụy lạc sai lầm, khi tỉnh lại, cùng người hầu Tập Nhân diễn lại những cảnh trong mơ, từ đó rơi vào trầm luân “Thiên cổ tình nhân chỉ có ta si tình”. Nói cách khác, Bảo Ngọc thân ở trong nơi phồn hoa dịu dàng, công hầu thế gia của đại quan viên, đây kỳ thực đã là những điều cực hạn nơi nhân gian mà khi sinh ra làm kiếp người ta có thể cảm nhận. Vậy sau khi bạn đắc được những gì tốt đẹp nhất trên thế giới này, sinh mệnh này còn đang tìm kiếm điều gì? Bạn thể ngộ được gì sau những trầm luân nơi hồng trần?

Dưới ngòi bút của Cao Ngạc, sau khi Bảo Ngọc và Bảo Thoa thành thân, Bảo Ngọc bị Bảo Thoa và Tập Nhân thay nhau khuyên nhủ, nên chuyên tâm đọc sách, tham gia khoa cử và còn đắc được công danh. Chính vào lúc này, anh biến mất và xuất gia. Trong gió tuyết to lớn, Bảo Ngọc từ biệt cha ở bến đò, cảm ơn công dưỡng dục của ông, rồi khoác lên mình chiếc áo choàng đỏ, đi xa vào trong mưa tuyết. Cá nhân tôi cảm thấy, việc Cao Ngạc bổ sung viết tiếp việc Bảo Ngọc xuất gia cũng tựa như chiếc áo choàng đỏ này, tất cả đều là mánh lới của chủ nghĩa hình thức tươi đẹp, là một biểu tượng đẹp đẽ, nhưng không chút chân thành. Đây cũng chính là lý giải của ông với tu luyện.

Trước hết, từ góc độ luân lý làm người mà giảng, khi đó Giả phủ mất đi một chi là Ninh Quốc Phủ, Vinh Quốc phủ toàn phụ nữ người già và trẻ em, nam giới chỉ có một vài người, Bảo Thoa còn đang mang thai. Bảo Ngọc xuất gia như vậy, có sự vứt bỏ sau khi đau lòng thất vọng, sự giận dỗi bốc đồng, kỳ thực vẫn chạy không thoát khỏi chữ Tư, cũng chính là anh ta đặt sự cảm nhận mất hết ý chí của mình lên hàng đầu, lại bỏ quên trách nhiệm trong hiện thực.

Đương nhiên trong lịch sử có nhiều người khi đang ở thời thanh xuân tuổi trẻ, buông bỏ những điều tốt đẹp, hoa mỹ danh quyền mà đi tu. Tuy nhiên trong câu chuyện Thạch Đầu Ký này, tình tiết Bảo Ngọc xuất gia không nên xử lý như vậy, câu chuyện không nên kể tiếp như vậy. Bởi những người từng trải nơi thế gian này đều hiểu, điều khốn khổ nhất nơi thế gian, không phải chết, cũng không phải xuất gia, mà là sống. Trong khi số mệnh bị trừng phạt nghiêm khắc, mất đi mọi thứ từng có, bạn phải dẫn dắt người thân và gia đình có thể sinh tồn.

Cũng giống như đã đề cập ở những phần đầu, sau khi gia đình Lý Hú làm thợ dệt ở Tô Châu bị tịch biên tài sản, Hợp tộc Hợp phủ đều bị vào tù, ly tán, gia đình giàu có được hoàng tộc sủng ái đã bị xóa sổ chỉ sau một đêm. Sau khi Tào Phủ, người thợ dệt cuối cùng ở Giang Ninh bị cách chức, trên bản tấu chương cũng viết rất rõ ràng, những người còn sống sót không còn gì cả. Bảo Ngọc ở trong hoàn cảnh như vậy, Đại quan viên không còn, chị em họ hàng thì tiêu tán, người thì chết, người trung thành nhất là Tập Nhân cũng tái hôn với người khác, Bảo Ngọc trước đây lại chưa từng chăm chỉ học hành. Nếu bỏ đi sự giàu có phú quý được thừa kế từ gia tộc, trong thực tế chỉ có con đường khoa cử là cách duy nhất để có được sự giàu có, nhưng điều này đối với Bảo Ngọc khó càng thêm khó.


Bảo Ngọc thân ở trong nơi phồn hoa dịu dàng, công hầu thế gia, kỳ thực đã là những điều cực hạn nơi nhân gian mà khi sinh ra làm kiếp người ta có thể cảm nhận. Vậy sau khi bạn đắc được những gì tốt đẹp nhất trên thế giới này, sinh mệnh này còn đang tìm kiếm điều gì? Bạn thể ngộ được gì sau những trầm luân nơi hồng trần?
***
Khi Bảo Ngọc đến thăm Tình Văn bị đuổi khỏi Giả phủ, anh rót một bát trà đặc trông chẳng giống nước trà chút nào từ một cái bình chẳng giống ấm trà chút nào đưa cho Tình Văn uống. Chi Nghiễn Trai có nhận xét về đoạn này: Bảo Ngọc khóc không chỉ cho Tình Văn, mà còn cho bản thân anh. Đây là dấu hiệu rõ ràng cho thấy: Sau khi Giả phủ bị kê biên tài sản, những ngày nghèo khổ như vậy, chính là cuộc sống thường ngày của Bảo Ngọc.

Còn Bảo Ngọc ngày xưa, là một quý công tử giàu có với sắc như hoa xuân rạng đông, mặt như trăng rằm mùa thu, đi đến đâu cũng như trăng tỏa sáng. Khi đi ra khỏi sân, thường bị người nhà và môn khách chặn lại hỏi thăm. Bài thơ viết tay, hay bút pháp của anh đều được mọi người chạy theo xin chữ. Vậy sau khi mất đi địa vị thế gia giàu có, mọi người liệu còn thích anh như vậy nữa không? Trong lúc khốn cùng, thanh niên giàu có không còn phong độ tư thái như xưa, không biết kiếm sống, một thanh niên đẹp như trăng rằm, cũng trở thành một kẻ béo mập không ai để ý.

Hãy tưởng tượng một người không biết gì như vậy, vì hoàn cảnh sống, ở trong tình cảnh phải đi tìm kiếm sự giúp đỡ của người thân, bạn bè, người hầu, nhất định sẽ còn khó chịu hơn đi ăn xin dọc đường, vì sẽ phải chịu sự đối xử lạnh nhạt và khinh nhờn, cuối cùng vẫn bị từ chối. Cao Ngạc viết tiếp những hồi sau này, lại lược bớt tất cả những tình cảnh khốn khổ túng quẫn khó chịu mà Bảo Ngọc phải trải qua.

Chúng ta đừng nên đánh giá thấp nhân vật Chân Sĩ Ẩn trong những hồi đầu câu chuyện. Một người trung niên không còn nơi nào để đi và gặp nhiều bất hạnh liên tiếp. Một ngày nọ, ông nghe thấy bài hát “Hảo Liễu Ca” của một đạo sĩ điên trên phố, đột nhiên đại ngộ, và giải nghĩa một hồi. Kỳ thực đoạn chú giải này, chúng ta có thể coi như là tổng kết của Bảo Ngọc đối với những gì anh ta nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận thấy trong cuộc đời mình. Sau đó đỡ lấy tay nải của đạo sĩ khoác lên vai và cất bước đi theo. Có lẽ, đây mới là tình huống khi Bảo Ngọc rời khỏi Đại Quan viên, cuối cùng được đột thoát bởi một tăng nhân một đạo sĩ, là một người trung niên phong sương tâm tàn ý lạnh, hai bàn tay trắng, không còn gì để mất.

So sánh với những hồi sách bổ sung viết về chàng thanh niên Bảo Ngọc, là người nông cạn, trốn tránh, hành động khi đang giận dỗi, bực tức. Chiếc áo choàng đỏ mang tính biểu tượng mà anh mặc là sự hiểu lầm của Cao Ngạc khi đọc Hồng Lâu Mộng, cũng như hiểu lầm ý của Tào Tuyết Cần. Màu đỏ tượng trưng cho điều gì? Là cung Xích Hà nơi Thiên giới, là nơi Thần Anh thị giả tự mình muốn đi chăm bón tưới nước cho một gốc cây Giáng Châu sinh trưởng, nơi rước lấy món nợ nước mắt, đến nhân gian Di Hồng Viện một lần. Màu đỏ trong bộ sách này, là một loại biểu tượng, màu đỏ là khát vọng sinh ra từ hư vô. Tôi nghĩ, trong nguyên tác của Tào Tuyết Cần, một Bảo Ngọc xuất gia rời xa thế tục, nhất định sớm đã cởi bỏ chiếc áo choàng đỏ này từ lâu.

Kiên Định biên dịch

Không có nhận xét nào: