DS Lệ Hoa,
BSNguyênVăn Ba
Ngày tháng nơi xứ người
trôi rất nhanh bốn mùa thay đổi, khi hoa xuân vừa chớm nụ khách yêu hoa
chưa thưởng lãm hết những nét đẹp của mùa xuân đã thấy hạ sang. Nắng hồng vừa ấm
ngọn lá thì gió thu chợt đến mang những chiếc lá vàng đi còn lại những chùm hoa
tuyết mùa đông trên cành. Thời gian như chiếc
bóng âm thầm trôi, chỉ có những tâm hồn nghệ sĩ mới cảm nhận được cái bóng thời
gian chấp cánh. Họ đã sống và hòa với nhịp thở của thời gian nên níu được quá
khứ giữ cho dòng thời gian không bị đứt đoạn tan loãng, và đã minh họa nó qua
áng văn vần thơ điệu nhạc để hoài niệm một thời xa khuất. Tâm hồn nghệ sĩ đôi
khi vượt cả trước thời đại vọng lên tâm khúc bằng thứ ngôn ngữ riêng biệt mà
người đương thời còn ngỡ ngàng chưa hòa điệu. Tâm hồn thi sĩ rất đa cảm đầy tình người, dễ rung động trước màu
sắc muôn hoa để cảm nhận sự huyền diệu của thiên nhiên, nên luôn hướng về cái
«đẹp và thiện».
Paris vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, trong sinh hoạt văn học nghệ thuật
Việt Nam xuất hiện một «Văn Đoàn mang tên VĂN BÁ», quy tụ một số nhà khoa bảng đã có tuổi nhưng rất
yêu nghệ thuật sân khấu nên tự tập dượt để trình diễn những trích đoạn vở cải
lương, những tuồng kịch cổ, hay những sáng tác mới cống hiến cho công chúng.
Trưởng nhóm là nhà thơ Văn Bá.
Vài Nét Về Nhà Thơ Văn Bá:
Ông tên thật là Nguyễn Văn Ba, bút hiệu Văn Bá,
sinh năm 1927 tại Gò Công, Định Tường,
Tiền Giang. Trong thời gian theo học Y Khoa Hà Nội ông có thụ giáo Hán văn với
cụ Tử An Trần Lê Nhân (Cử nhân Hán Học- tác giả Cổ Học Tinh Hoa). Ông sang Pháp
du học và Tốt nghiệp Nhãn khoa chuyên môn Đại học Paris Thủ khoa khóa 1961.
Nguyên Giảng nghiệm viên tại trung tâm nghiên cứu Khoa học quốc gia Pháp. (Centre
National de la Recherche Scientifique
C.N.R.S).
Đã xuất bản :
:
Thơ: Nén Hương Hoài Niệm
(1955) ở Sài Gòn trước khi du học, và tái bản 1998. Hương Tình Yêu (1999).Thơ Văn Bá được vào hợp tuyển năm 1998. Kịch: Lưu Bình Dương Lễ, Hồn Trương Ba Da
Anh Hàng Thịt, ông soạn lại và đổi
là «Hồn Trương Ba Ma Anh Hàng Thịt. Cổ Loa, Tri Âm, Lệ Chi Viên.
Hai vở kịch Lưu Bình Dương Lễ và Hồn
Trương Ba Da Anh Hàng Thịt được diễn nhiều lần ở Paris. Ngoài ra Văn Bá còn viết
và xuất bản những tập biên khảo, tiểu thuyết song ngữ.
Nhà thơ Văn Bá theo khuynh hướng Thơ Mới, ông chú trọng về phần tứ thơ nên bài
hơi được dàn trải như những câu truyện ngắn để thuật những đề tài quê hương,
danh nhân, di tích lịch sử, tình người và tình yêu đôi lứa. Ông nói:
«Làm thơ để cho người hiểu, cũng như làm
thiếu nữ cho người ta trêu. Đã đành thơ cần âm điệu cũng như thiếu nữ cần vẻ
yêu kiều nhưng mà thơ mà hòa nhạc làm mất ý tứ thơ!”. Hàng ngàn năm xưa thơ và nhạc đã hòa nhau,
trong thơ có nhạc trong nhạc có thơ. Âm nhạc có lời dễ làm rung cảm lòng người,
và thơ đã nhập vào cung bậc hòa thanh thành nhạc để diễn tả tâm tình. “thơ hòa
nhạc làm mất tứ thơ».
Phải chăng nhà thơ e ngại người nhạc sĩ lúc sáng tác không để hết
tâm hồn vào bài thơ thì sẽ làm giảm gía trị khúc phổ? Ônglàm rất nhiều thơ và
có những bài thơ tình chưa in và chỉ đọc riêng cho bằng hữu. Trong số thơ đó,
có những bài được chính tác gỉa chuyển sang Pháp ngữ để cho phu nhân của ông đọc
giới thệu trong sinh hoạt văn học. Thơ tình của Văn Bá được chọn vào tuyển tập
thơ: «500 bài Thơ Tình VN Và Thế Giới», do ông Khai Trí Nguyễn Hùng Chương xuất
bản. Có một lần Nhà thơ Văn Bá đã phát biểu trong sinh hoạt văn học nghệ thuật:
“Khối tình
nào cũng vậy, thâm thúy nhất là lúc phân ly. Ở bất cứ một chế độ nào thơ tình vẫn
sống như thường vì thơ tình mang con người về với nguyên thủy.”
Bài Hoài Tố là một trong những bài thơ đắc
ý của nhà thơ nên Văn Bá đã đọc trong sinh hoạt văn học để các văn hữu thưởng
thức.
HOÀI TỐ
Ta ước cùng nhau đến bạc đầu
Uyên ương liền cánh tựa bên nhau
Làm đôi bướm trắng trao duyên mãi
Ai có ngờ đâu vạn cổ sầu.
Tố Uyên em ơi đã hết rồi
Những đêm trăng dõi mái đầu soi
Đôi ta kề sát bên hiên vắng
Thỏ thẻ yêu nhau chẳng tiếc lời.
Những buổi bình minh rực ánh hồng
Cỏ cây còn đọng giọt sương trong
Ngắt hoa em cắm lên vành tóc
Anh mỉm cười khen đẹp lạ lùng.
Những buổi trưa hè bóng ngả nghiêng
Bên em anh kể chuyện hàn huyên
Lá vàng tơi tả rơi trên tóc
Em bảo tình ta lá cũng ghen.
Những buổi hoàng hôn xuống bến sông
Bên anh em dạo tiếng tơ đồng
Chim chiều ríu rít trong hoa lá
Anh bảo chim kia cũng thấu lòng.
Tình ta tưởng đẹp trọn ngày xanh
Chị nguyệt than ôi dối chúng mình
Nát ngọc châu chìm hoa vắn số
Cho ngày xuân thắm lỗi duyên lành.
Định mạng em ơi quá đớn đau
Giờ đây lòng trĩu mối u sầu
Thời gian không xóa mờ kỷ niệm
Hận tình đằng đẵng dễ nguôi đâu. (Văn
Bá)
Sinh Hoạt Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris:
Nhà thơ Văn Bá đến CLB sinh hoạt từ năm 1999 qua sự giới thiệu của giáo sư Bùi
Sĩ Thành, một nhà biên khảo. Ở đây những tâm hồn đồng điệu đã gặp nhau, trong
Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris có nhiều người là đồng nghiệp với ông, hoặc khác
ngành nghề nhưng lại hợp về thơ văn. Ngày ông gia nhập CLB đã có một số văn thi nhạc sĩ tuổi cao đã mất, nhưng tác phẩm của họ vẫn lưu lại trong tâm hồn giới thưởng ngoạn.
Trong lãnh vực văn học nghệ thuật những tác phẩm mang tính nghệ thuật có giá trị
đích thực sẽ vượt thời gian thấm sâu trong lòng người. Câu Lạc Bộ được ví như vườn
hoa nhỏ, mỗi người một vẻ tạo nhiều màu sắc hương thơm, điẻn hình: Nhà thơ Bằng
Vân Trần Văn Bảng, dù là một giáo sư Y khoa nhưng bản tính lại nghệ sĩ bất cần
đời nên làm thơ châm biếm. Những vần thơ Miếu Cười của ông đã được các văn hữu
tặng cho ông cái mỹ danh là «ngông sĩ». Nhà thơ Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu còn
gọi ông là Tú Gân để so sánh với những nhà thơ xưa như Tú Xương, Tú Mỡ. Nhà thơ
Vân Uyên, GS Y Khoa Nguyễn Văn Ái được xem là ẩn sĩ vì ít xuất hiện trước đám
đông, còn Nhà thơ Phương Du, BS Nguyễn Bá Hậu được mệnh danh là hiền sĩ. Riêng
Nhà thơ Văn Bá BS Nguyễn Văn Ba nđược tặng cho mỹ danh đặc biệt là «Việt sĩ »
vì ông xa quê hương rất lâu nhưngvẫn còn
giữ nhiều tính chất Việt Nam.
Những lần họp thơ ở tư gia nhà thơ Văn
Bá là mỗi lần ông vui sướng được đón tiếp một số bằng hữu, sự hân hoan tỏa trên
ánh mắt, khuôn mặt và trong tiếng cười. Ở những lần ấy nhà thơ Văn Bá say đắm đọc những bài thơ của mình vì được
trình bày trước những tâm hồn đồng điệu: Học giả TS Thái Văn Kiểm, GS Bùi Sĩ
Thành, Nữ Điêu khắc gia Anh Trần, Nhà thơ Đỗ Bình, nghệ sĩ Bích Thuận, nghệ sĩ
Thúy Hằng, Nghệ sĩ Linh Chi, nhạc sĩ Trọng Lễ và Nhóm Văn Đoàn Văn Bá, Phu nhân
ông cũng tham gia đọc những bài thơ Pháp của những thi sĩ lừng danh nước Pháp.
Vào hè năm 2000 Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức sinh hoạt chủ đề Chiều Tha
Hương ở Viện Pháp Á, quy tụ nhiều khuôn mặt trí thức văn nghệ sĩ nổi tiếng ở
Paris. Đặc biệt có nhà thơ Dư Thị Diễm Buồn ở Cali sang tham dự. Mở đầu chương
trình văn học nghệ thuật, nhà thơ Song Thái người cao tuổi nhất đã đọc bài thơ
của mình: «Thơ Là Gì?». Tiếp theo, Nhà
thơ Đỗ Bình giới thiệu tiểu sử và sinh hoạt văn học của Nhà thơ Dư Thị Diễm Buồn,
Nhà văn Hồ Trường An giới thiệu những
thi phẩm của Dư Thị Diễm Buồn. Nhà thơ Phương Du nói về:«Ý Nghĩa của Sự Đau Khổ».
GS Phạm Thị Nhung nói về:«Ý Nghĩa Của Hoa Đào trong thơ Thôi Hiệu». Hai Nhà thơ
Bình -Huyên (Nguyễn Trọng Bình và Thùy
Huyên) đọc bài thơ:«Đồi Sim». Nhà văn, nhà báo Tô Vũ Đố thơ. Nhà thơ Vân
Uyên dù tuổi đời đã cao vẫn say đắm vần điệu, ông thả hồn với chất giọng Bắc để
diễn ngâm bài: «Tình Chung Thủy» khiến hội trường vang âm thanh thơ. Tiếp theo
là nhà thơ Văn Bá, ông phát biểu:
“Dù không hẹn trước với BS Ái mà cả hai
cùng đọc thơ tình. Ở bất cứ một chế độ nào thơ tình vẫn sống như thường vì thơ
tình mang con người về với nguyên thủy.”
Với chất giọng mạnh của người
miền Nam, Nhà thơ văn Bá đã diễn ngâm theo thể Lục Vân Tiên, bài: «Tình Thiên
Thu». Lối đọc và diễn xuất của ông âm hưởng cách nói của các nghệ sĩ cải lương
miền Nam: Năm Châu, Bảy Nhiêu, Út Trà Ôn, Năm Nghĩa, Hữu Phước của thời thập
niên 40, 50.
Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật chủ đề Bên Trời Tưởng Nhớ do CLB VH
VN Paris tổ chức vào ngày 15 tháng 6 năm 2002 tại Paris. Quy tụ nhiều khuôn mặt
văn nghệ sĩ ở Paris và hải ngoại, sinh hoạt đã được GS Nguyễn Trọng Bình tức
Nhà văn Bình Huyên đại diện ở Paris cho tuần báo Đại Chúng (Maryland Hoa kỳ) viết
tường thuật. Nhà thơ Đỗ Bình: Trưởng ban tổ chức, Nhà thơ Phương Du : Khai mạc
chương trình, BS Nguyễn Bá Linh: MC, Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng: MC. Nhà thơ, họa
sĩ Lưu Nguyễn Đạt (Hoa kỳ) nói về Thơ Việt, Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh (NaUy) nói về
tác phẩm: «Xóm Cầu Mới» của Nhà văn Nhất Linh. Nhà thơ, họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật (NaUy) nói vềTranh Dângian: « Lý
Toét &Xã Xệ». Nữ sĩ Phạm Thị Nhung giới thiệu tác phẩm «Truyện Kiều và Tuổi
Trẻ» của GS Lê Hữu Mục, GS Phạm Thị Nhung, DS Đặng Quốc Cơ. GS Nguyễn Thị Hoàng
giới thiệu tác phẩm : Hồn Nước» của Nhà thơ TS Lưu Nguyễn Đạt. Nhà
văn Hồ Trường An giới thiệu thi phẩm «Vùng Cao Nước Ẩn»của Lưu Nguyễn Đạt. Nhà
thơ Vân Uyên nói về người em trai là:«Nhà
thơ, Nhạc sĩ Tử Phác», một trong những
người bị tù trong vụ án « Nhân Văn Giai Phẩm», tác giả nhạc phẩm tiền chiến
Tiếng Hát Quay Tơ, đồng tác giả với Lương Ngọc Châu viết bài : Tiếng Hát Lênh
Đênh. Nhạc sĩ Trịnh Hưng Kể «Những Kỷ Niệm Về Nhà Thơ Hữu Loan» trong thời
Kháng chiến. Nhà thơ Văn Bá cùng nhóm trình diễn tuồng Lưu Bình Dương Lễ : DS Lệ
Sương trong vai Dương Lễ phu nhân, DS Lệ Châu trong vai Châu Long, Luật
gia Lê Vinh Quang trong vai Lưu Bình, DS
Kim Hoa, DS Nguyễn Văn Đức … Những văn nghệ sĩ Paris: Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc
Oanh, Nữ sĩ Quỳnh Liên, GS Nghệ sĩ Bích Thuận, GS Quỳnh Hạnh, Nhà thơ Thụy
Khanh, Nhà thơ Hà Lan Phương, Nhà thơ Thùy Huyên, Nhà thơ Nguyễn Mây Thu, Nghệ
sĩ Thúy Hằng, Nữ họa sĩ Hồng Loan, Nữ điêu khắc gia Anh Trần, Bà Phạm Thị Hoàn,
Phạm Thị Lệ, Phạm Thị Diễm (3 ái nữ Học giả Phạm Quỳnh), Nhà văn Trần Đại Sỹ,
Nhà văn Mai Lý Cang, Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Nguyễn Thùy, … Nhà văn,
nhà báo Tô Vũ, Nhà báo Phạm Hữu, Nhà báo GS Nguyễn Bảo Hưng, GS Võ Thu Tịnh, GS
Bạch Thái Hà, nhiếp ảnh gia GS Bùi Sỹ Thành, BS Nguyễn Duy Tài, BS Phạm Đăng
Thiện…Nhạc sĩ Xuân Lôi, Nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, Nhạc
sĩ Anh Việt Thanh, Nhạc sĩ Anh Huy, Nhạc sĩ Lê Phương, Nhạc sĩ Nguyễn Đình Tuấn,
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Toàn, Đạo diễn Trần SongTthu, Họa sĩ Vĩnh Ấn, Họa sĩ Lê Tài
Điển …vv…Chủ nhiệm tuần báo Đại Chúng là Nhà báo Hoài Thanh đã dành trọn số báo
để đăng. Xin trích lời tòa soạn:
“Trong số báo 103 chúng tôi đặc biệt dành trọn
Tuần Báo Đại Chúng cho anh chị em văn
nghệ sĩ Câu Lạc bộ Văn Hóa Việt Nam Paris, France, trước hết là để gởi niềm ưu
ái và lòng kính trọng tri ân các anh chị em văn thi hữu đã cộng tác với TBĐC để
truyền bá văn hóa và giữ gìn ngôi nhà văn hóa Việt Nam được đơm hoa kết trái.
Sau đó chúng tôi muốn vinh danh những nhà trí thức, những văn nghệ sĩ lão thành
mà tài năng, đức độ, sự khiêm tốn và tình yêu thương gắn bó của qúy vị rất xứng
đáng là một điển hình tốt, gương mẫu, mực thước cho tất cả mọi người nhìn vào
đó học hỏi. Chúng tôi có thể nói rằng ngôi nhà Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam
Paris là một tổ ấm của tất cả văn nghệ sĩ khắp nơi. Chúng ta có thể tìm thấy
hơi ấm của nơi đó tình người trong những câu chuyện mà những anh chị văn nghệ
sĩ viết về bạn bè về những ngày xưa xa lơ, xa lắc. Chúng ta cũng thấy nơi đó sự
tôn trọng lẫn nhau giữa các văn thi hữu của các thế hệ khác nhau về tuổi đời,
tuổi nghề nhưng vẫn chung vai sát cánh xây dựng giữ gìn nền văn hóa Việt Nam.
Chúng ta còn tìm thấy nơi đó những con người dày dạn kinh nghiệm trong cuộc đời,
vững chắc nghề nghiệp cũng như văn chương chữ nghĩa và phương thức hành văn
trong sáng, chọn lọc. Chúng tôi xin kính mời qúy vị viếng thăm Paris hoa lệ bằng
những bài viết TBĐC đăng tải trong số báo này. Nội dung của những câu thơ, câu
văn, tiếng nhạc lời ca sẽ được đôi uyên ương Bình- Huyên diễn tả trong bài:” Buổi
Sinh Hoạt Văn Học Nghệ Thuật Câu Lạc Bộ văn Hóa Việt Nam Paris”. Xin được kết thúc lá thư tòa soạn bằng lời
nói đầy ý nghĩa sâu sắc của nhà thơ Đỗ Bình, người lãnh đạo tài năng của Câu Lạc
Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris: “Văn chương thi phú và nghệ thuật Việt Nam hải ngoại
mặc dù đang được mùa, đã không tránh khỏi một vài tiếng chì tiếng bấc. Dĩ nhiên
đó là quyền tự do của mỗi người, tuy nhiên xin trân trọng yêu cầu cả người yêu
lẫn kẻ ghét hãy chịu khó mà xem xét thực hành hai điều. Thứ nhất là hãy để cho
người ta tự do sống. Thứ hai là hãy chung sức gìn giữ cái cuối cùng trong kho
tàng văn học nghệ thuật Việt Nam của đầu thế kỷ này, vì Thi sĩ e rằng đến cuối
thế kỷ 21 kho tàng đó sẽ chịu nạn, thất mùa rất lớn mà không cứu vãn được.”
Vào thu 14 tháng 09 năm2003, một số nhân sĩ trí thức ở Lyon đã tổ chức ngày
văn hóa, và cũng là dịp muốn vinh danh một số văn nghệ sĩ ở Paris và hải ngoại
đã đóng phần vun sới cho văn hóa Việt. Những người được mời diễn thuyết văn học
nghệ thuật : GS Lê Mộng Nguyên, Nhà thơ Đỗ Bình, Nhà văn Hải Triều từ Canada
qua, nhà phê bình Nguyễn Thùy, Nhạc sĩ Trịnh Hưng, Nhạc sĩ Trần Ngọc Hải (Linh
mục), nhà thơ Văn Bá và nhóm kịch nghệ. Sân khấu đại hí viện lớn, tất cả khách
được mời đều phải lên hàng ghế trên sân khấu đối diện với khán giả. Chương
trình khai mạc lúc 14h00, và nhóm Văn Bá trình diễn tuồng lúc 17h30. Hơn 3 giờ
ngồi phải đối diện với những cặp mắt của
500 khách, Nhà thơ Văn Bá và các bằng hữu vẫn giữ bình tĩnh diễn thuyết, diễn
xuất tuồng cổ. Buổi tổ chức rất thành công. Sau đó các bạn lấy xe lửa tốc hành
trở về Paris. Buổi sinh hoạt mang chủ đề:
Hồn Đại Việt, mở đầu phần văn học, Học giả, TS Thái Văn Kiểm giới thiệu tác phẩm
mới của Văn Bá, ông khen ngợi và nêu ra những cái hay nét đẹp trong tác phẩm.
(Mạnh Bích, Trịnh
Hưng, Đỗ Bình, Lê Mộng Nguên, Xuân Lôi)
Qua phần nghệ thuật Nhà thơ Đỗ Bình đã giới
thiệu 3 thế hệ nhạc sĩ sáng tác hiện đang có mặt. Thế hệ đầu gồm các nhạc sĩ:
Nhạc sĩ Xuân Lôi (Sinh
trong gia đình văn nghệ nên vào làng âm nhạc ngay từ thuở còn nhỏ, những nhạc
phẩm nổi tiếng của ông viết chung với các nhạc sĩ khác như Y Vân, Nhật Bằng, Lữ
Liên... Nhạc phẩm Bâng Khuâng là ca khúc đầu tay ông viết năm 1947, bài Về Làng
Cũ, cùng với Nhật Bằng năm 1949, bài Nhạt Nắng, cùng với Y Vân năm 1955, bài Đường
Chiều, cùng với Lữ Liên năm 1956. Hương Giang Mong Nhớ, cùng với Dương Thiệu Tước
viết năm 1959.), Nhạc sĩ Lương Ngọc Châu (Là một danh thủ vĩ cầm ở đất Hà Thành trước
năm 1954, thày của một số nhạc sĩ nổi tiếng sau này ở trong Nam. Ông qua Pháp rất
sớm, do đó giới thưởng thức âm nhạc miền nam ít có biết! Bài Tiếng Hát Lênh
Đênh của nhạc sĩ Lương Ngọc Châu mang chất thính phòng, bán cổ điển nên đòi hỏi
một chất giọng ấm, sang và kỹ thuật trình bày điêu luyện. Bài này đã được Tài tử
Ngọc Bảo trình bày ở Hà Nội trước năm 1954, Sau năm 1954 ở Sài Gòn do danh ca
Sĩ Phú, và ở hải ngoại do BS, nhạc sĩ Phạm Anh Dũng soạn lại hòa âm và trình
bày). Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên(Với số tác phẩm
đồ sộ lên đến vài trăm ca khúc, trong đó có những nhạc phẩm đã được chọn làm nhạc
phim như: BỤI ĐỜI vào năm 1957 do Lê Mộng Hoàng làm đạo diễn, nhưng bài Trăng Mờ
Bên Suối viết năm 1949 là nổi hơn cả. Vì là một bài thơ được chính tác giả soạn
thành nhạc nên đã lột tả tận cùng của cảm xúc qua âm thanh, gợi lên một không
gian lãng mạn, với những hình ảnh mơ mộng của tình yêu lứa đôi. Lời và nhạc hài
hòa dễ đi vào lòng người đã in đậm dấu hơn những ca khúc khác của tác giả! Mặc
dù lời ca và cấu trúc của những nhạc phẩm đó không thua gì bài Trăng Mờ Bên Suối). Nhạc sĩ Trịnh Hưng (Bài
Tôi Yêu và Lối về Xóm Nhỏ...vv...của nhạc sĩ Trịnh Hưng rất nổi tiếng được
trình bày liên tục từ thập niên 50 cho đến nay, bài hát đã hòa vào trong những
vũ khúc dân gian). Nhạc sĩ Mạnh
Bích (Bài
Thôn Trăng là tác phẩm nổi tiếng của nhạc sĩ Mạnh Bích viết sau năm 1954 ở Huế,
được ca sĩ trình bày rất nhiều lần vào những năm đầu thập niên 60).
Nhạc sĩ Phạm Đình Liên (Bài Hẹn Một Ngày Về 1957 đang du học ở Pháp). Thế hệ kế tiếp gồm
các nhạc sĩ: Phạm Đăng, Trần Văn Toàn, Ngọc Bích, Nguyễn Minh Châu. Thế hệ trẻ
gồm: Các nữ nhạc sĩ: Linh Chi, Trang Thanh Trúc, Tố Liên. Đây là lần đầu tiên ở
Paris những nhạc sĩ khác thế hệ về lãnh vực sáng tác nhạc Việt gặp nhau để tâm
tình nghệ thuật. Hiện diện đêm nay còn có một số nhạc sĩ sáng tác khác nhưng có
lẽ vì khiêm tốn chưa muốn giới thiệu. Sau buổi họp mặt văn nghệ đó một thời
gian, những nhạc sĩ như: Xuân Lôi, Lương Ngọc Châu, Trịnh Hưng, Mạnh Bích đã
giã từ thế giới âm nhạc, vĩnh viễn ra đi tìm cõi khác.
Nhà thơ Văn Bá dù qua Pháp từ giữa thập niên 50, và kết hôn với một phụ nữ bản
xứ nhưng ông vẫn giữ một tâm hồn thuần Việt. Văn Hóa Việt đã ảnh hưởng sâu đậm
đến người ngẫu phối của ông nên Bà đã có những phong cách ứng xử dịu dàng, phúc
hậu giống như những phụ nữ Việt Nam trước năm 1954 ở miền Bắc, và trước năm1975
ở miền Nam. Bà yêu chồng nên yêu văn hóa Việt hòa mình vào không gian Việt Nam
thu hẹp. Bà thường mặc áo dài để dự những buổi lễ tết, họp văn thơ, hay những buổi diễn thuyết bằng tiếng Việt,
bà ngồi nghiêm trang, im lặng hàng giờ bên cạnh nhà thơ Văn Bá. Có thể nói Bác sĩ Nguyễn Văn Ba là một trong những người
Việt thành đạt ở Paris, thành đạt ở đây bao hàm cả lãnh vực vật chất. Nhưng ông
lại rất khiêm nhường, tự trọng, biết tôn trọng người khác. Nhà thơ Văn Bá rời quê hương lúc trẻ nhưng đã mang theo quê
hương trong tâm hồn, cái quê hương đậm chất phù sa chân tình mộc mạc đầy cây
trái ngon ngọt. Bản tính hiền hòa chơn chất hiện rõ trong cách sống, ngôn ngữ
và cách giao tế với bằng hữu nên ông được mọi người nể trọng và qúy mến. Đặc biệt
các người em của ông dù tuổi đã cao, có học thức và địa vị trong xã hội nhưng một
lòng kính trọng ông.
Nhà thơ Văn Bá đã từ giã cõi đời năm 2015 ở Paris để về miền miên viễn.
Đỗ Bình


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét