Nhạc sĩ Cung Tiến
To my parents, my one and only ever-lasting love, in their melodic native tongue; they taught me my love for the written words: she put me on a chair and told me to sing, and he led me to the piano...
Tôi viết bài này như tàn văn hay tùy bút, nhớ gì viết đó, khỏi cần...footnotes.
Nguyệt Cầm cuả Cung Tiến là một bản nhạc đặc biệt vì là nhạc Việt, nhưng ảnh hưởng nhạc cổ điển Tây Phương, nói thẳng thắn như Cung Tiến ("CT") đã nói, là lấy ý từ Beethoven, Romance en Fa, No.2, Op.50, thường được gọi là "Adagio Cantabile," viết cho violin và dàn nhạc hoà tấu/giao hưởng orchestra (đôi khi người đời sau viết lại cho tiếng phụ họa của dương cầm).
(Tứ nhạc của “Romance en Fa” viết theo "tông" trưởng thì tôi thấy bàng bạc trong nhiều bài của Beethoven, và ngay cả trong bản đơn ca tuyệt vời được coi là hay nhất của nhân loại, thời Bel Canto sau phục hưng, đó là bài Casta Diva, của Bellini, thần tượng của Chopin). Vì thế nếu Cung Tiến chịu ảnh hưởng tứ nhạc này, tôi cũng không ngạc nhiên.
(Tôi đi vào phạm vi ca hát tài tử qua nhạc Cung Tiến và Phạm Duy, hai bản Hoài Cảm và Hương Xưa, và hai bản Ngậm Ngùi – Nghìn Trùng Xa Cách, từ thuở mới 14 tuổi, ở Saigon. Khi lớn lên tôi không thích hát Nguyệt Cầm, vì lý do rằng dòng nhạc đối với tôi trừu tượng, khó giữ vững và khó thuộc lòng hơn các bài khác. Sau này đến tuổi 60 tôi mới có dịp chú tâm đến bài Nguyệt Cầm (xin cám ơn nhóm nhạc ở Houston), và lần này tôi cảm thấy rằng: ngay từ thời sáng tác Nguyệt Cầm, Cung Tiến đã bắt đầu có sự chuyển hướng đi vào ảnh hưởng nhạc cổ điển trừu tượng Tây Phương, tức là đường lối của Debussy. Bản Nguyệt Cầm rõ ràng là nhạc có "tông," không trừu tượng, nhưng tứ nhạc có phần trừu tượng vì dòng nhạc hẹp dù khoảng cách (interval) rộng và cao, và viết bằng "tông" có nhiều dấu thăng, rồi dấu bình/giảm, tức là người hát phải hát nhiều "note" nửa "tông." Bản Nguyệt cầm chuyển âm giai (nôm na người Việt gọi là “tông”) từ Mi trưởng qua Mi thứ rồi quay lại Mi trưởng (parallel keys). (Mi thứ là âm giai buổn, nhưng lại là âm giai có liên hệ trực tiếp với âm giai Sol trưởng (relative keys; submedian; superdominant) vì cùng chung các nốt và chung dấu nhạc ở đầu bài, Fa thăng, dù khác chủ âm(tonic).
Tôi viết bài này vì: ngày nay, khi Nguyệt Cầm vẫn còn đi vào thính giả VN, theo tôi, đã có nhiều ngộ nhận.
Điểm thứ nhất: lời giới thiệu của độc giả/thính giả hay người điều khiển chương trình/chương mụcthường nói rằng Cung Tiến "phổ" thơ Xuân Diệu. Theo tôi là không chính xác. Trong tập nhạc viết tay của CT được in ra, CT đề rất rõ ràng: nhạc và lời của CT. CT đã lấy ý thơ của Xuân Diệu, bài Nguyệt Cầm, để soạn "ca từ" (tôi dùng chữ này theo khán thính giả VN ngày nay), và để lấy ý bài thơ tạo nên bài hát. Đọc lời bài hát, sẽ thấy rõ ràng CT chỉ lấy ý thơ, chứ không phổ nhạc theo đúng nghĩa của nó. Nói chính xác phải là: Bài hát Nguyệt Cầm của Cung Tiến, lấy tên và dựa theo ý thơ của Xuân Diệu." "Phổ nhạc" thì phải như Phạm Duy: "Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng," hay "Ngày Xưa Hoàng Thị," "Tiễn Em," "Kiếp Nào Có Yêu Nhau," "Ngậm Ngùi," “Muà Thu Chết,” etc...Phổ nhạc có nghĩa là lời thơ thế nào, lời nhạc thế ấy. Chỉ có thể thay đổi chút ít vì giai điệu mà thôi. Trong bản Nguyệt Cầm, lời bài hát không là lời bài thơ. Điều này quan trọng vì: lời bài hát Nguyệt Cầm cũng vẫn là sáng tác của CT, copyright, bản quyền của CT.
Nhưng copyright không phải là lý do chính khiến tôi quan tâm.
Tại sao sự phân biệt giữa "phổ nhạc" và "lấy ý" là quan trọng, trong trường hợp cuả Nguyệt Cầm và Cung Tiến?
Tôi sẽ tiếp tục trình bày dưới đây.
Điểm thứ hai: Rất nhiều “phê bình gia,” nhất là các tiếng nói hay “chủ tọa” trên mạng lưới, cứ phổ biến rằng bài thơ Nguyệt Cầm cuả Xuân Diệu (“XD”) chịu ảnh hưởng Baudelaire của Pháp. Tôi không hoàn toàn đồng ý. Theo tôi, "Nguyệt Cầm" không phải là sản phẩm ảnh hưởng Tây Phương tạo ra bởi Xuân Diệu. Trái lại, bàì hát Nguyệt Cầm cuả CT mới là ảnh hưởng Tây Phương tạo ra cho giới thưởng ngoạn VN bởi CT, khi nhìn vào giai điệu và hoà âm guitar do chính CT viết.
Về hình thức và chữ dùng, nhiều độc giả có căn bản về thơ Đường cho rằng bài thơ cuả XD có những điềm trùng hợp với “Bạc Tần Hoài” cuả Đỗ Mục (“Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa, Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia. Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng “Hậu đình hoa ” “Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát, Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.Cô gái không hay buồn nước mất,Bên sông còn hát “Hậu đình hoa”(bản dịch cuả Trần Trọng San).
Về ý tưởng, bài thơ Nguyệt Cầm là do XD lấy ý từ "Tỳ Bà Hành" của Bạch Cư Dị. XD chỉ đổi đàn tỳ bà thành đàn nguyệt của VN. XD nhắc đến điển tích bến Tầm Dương. Bài Nguyệt Cầm của XD là một bài thơ ngắn, thể thơ bảy chữ cũng là ảnh hưởng từ thơ Đường, nhưng đồng thời là một âm điệu được dùng nhiều trong thơ cổ và thơ thế kỷ 20 của VN, từ Thâm Tâm cho đến Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương v.v…
Trái lại, bài thơ của Bạch Cư Dị /Tỳ Bà Hành có tính cách như trường thi, âm điệu kể truyện của thơ Đường, và đã trở thành một loại truyện rất ngắn hay tùy bút có vần điệu: Tỳ Bà Hành là câu chuyện của thi nhân bất đắc chí, nghe tiếng đàn não nuột và gặp ca nữ trên sông Dương Tử, ở bến Tầm Dương bên Tàu. Cuộc đời ca nữ được thi nhân kể lại, ngay cả chi tiết khi về già, ca nữ phải lấy người chồng lái buôn để yên thân. Sau đó có sự chia tay giữa thi nhân và ca nữ, nhưng Bạch Cư Dị không hề nói rằng ca nữ trầm mình tự tử. Cuộc gặp gỡ giữa hai tâm sự, hai tài năng, ở tuổi xế chiều, khi cái chết có thể đến nay mai, ngay trước mặt. Nhưng Bạch Cư Dị kết thúc bản trường thi không với cái chết hay biểu tượng sự đam mê lên đến tuyệt đỉnh của cái chết (la petite mort???? Xin lỗi tôi “chơi chữ” một chút; tôi cũng trên 60 rồi và cũng đã viết lách kiểu “nữ quyền,” theo nhận định cuả “thiên hạ.”).
Nhưng XD, trái lại, đã tiến thêm bước nữa, và trong sự lãng mạn hóa, XD cho “nương tử... đã chết đêm rằm theo nước xanh,” trong khi ca nữ cuả Bạch Cư Dị thì còn sống “lang thang” ở Bến Tầm Dương. Trong cái chết của người đẹp, của tài năng, có sự đam mê của lãng mạn tính qua thi tứ cuả XD. Như vậy, XD đã đi quá "truyện rất ngắn bằng thơ" của Bạch Cư Dị. (Sẽ có những quan điểm cho rằng XD đã lấy hình ảnh cuả Vương Chiêu Quân, đệ nhất giai nhân và đệ nhất nghệ sĩ đàn tỳ bà cuả nhà Hán, mà theo mộttruyền thuyết dã sử, đã trầm mình tự tử chết thay vì sống làm vợ Hung Nô trong kiếp lưu đày. Theo một truyền thuyết khác, thì Chiêu Quân làm nghĩa vụ ở đất Hung Nô, rồi cũng tự tử, mồ chôn luôn luôn có màu cỏ xanh như nước).
XD cũng đã bỏ qua rất nhiều đặc tính quan trọng của Tỳ Bà Hành: sự bất công của định mệnh và của xã hội: sự bạc đãi của chế độ quân chủ kỳ thị đàn bà và đàn áp trí thức của xã hội Trung Hoa: đưa đến tính bi thảm của tài năng, qua hình ảnh ca nữ và thi nhân. Bạch Cư Dị là thi sĩ mà cũng là một nhà tư tưởng, nhìn vào xã hội cổ điển cuả Trung Hoa với cặp mắt của trí thức nhìn thấy sự tuyệt vọng của “cách mệnh”! Thi nhân không thể đổi “thiên mệnh” trong thời điểm nhà Đường.XD, trái lại, trong Nguyệt Cầm chỉ là một nhà thơ, không phải là nhà tư tưởng (dù rằng sau cùng thì XD cũng đã chọn lựa cho ông một... hệ thống tư tưởng).
Thêm nữa, XD không hề nhắc đến thân phận lưu đày, nỗi buồn thiên thu cuả ca nữ, là một trong những điểm chính cuả Tỳ Bà Hành, khai triển bởi Bạch Cư Dị.
Theo các nhà phê bình VN ngày nay, trong đó hình như có Hoài Thanh (đã được giải toàn quốc cuả VN Dân Chủ Cộng Hoà), thì trong bước đầu phát triển chữ quốc ngữ của thế kỷ 20 (giai đoạn chủ yếu về thi ca và văn chương cận đại và hiện đại của VN), thì XD đã chịu ảnh hưởng Baudelaire trong bài Nguyệt Cầm, vì thủ bút dùng biểu tượng (symbolism) và cách dùng các xúc cảm của ngũ giác để diễn tả tình cảm trong bài thơ. Tôi không đồng ý hoàn toàn. Dĩ nhiên XD có dùng biểu tượng, nhưng thi ca nào mà không có biểu tượng, và Nguyễn Du cũng dùng biểu tượng và xúc giác, nhưng nào thấy Nguyễn Du gặp gỡ Baudelaire???? Bài thơ nào hay mà không có cảm giác cuả ngũ giác, đến rợn cả người, héo cả thân, uá tàn cả thân phận???
Dùng xúc giác trong thơ thì phải nói là Hàn Mặc Tử (“HMT”), một trong số “thi bá” của VN hiện đại (xin xem lại bài viết phê bình văn học của cố Giáo Sư Bùi Xuân Bào, tiến sĩ văn chương Pháp, chuyên môn vể St. Exupéry, nhưng lại viết về HMT). Thế nhưng, HMT có chịu...ảnh hưởng Baudelaire gì đâu? Có lẽ HMT và Baudelaire cùng đi đến kết thúc đoạn đường như nhau??? (Vì mọi con đường đều dẫn về ...La Mã???)
Dĩ nhiên thi ca và văn chương chữ quốc ngữ của VN chịu ảnh hưởng Pháp rất nhiều. Nhưng bài Nguyệt Cầm rõ ràng là kết quả của sự "hoài cổ" bởi XD, quay về bến Tầm Dương của Bạch Cư Dị. Thể thơ bảy chữ có thể nói là âm điệu cổ điển khi Lê Thánh Tông, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, v.v... bắt đầu làm thơ Nôm. Thơ bảy chữ trong quốc ngữ được coi là thơ mới, không còn là thất ngôn bát cú, nhưng là thơ mới trong tính cách hoài cổ. Tính hoài cổ về Đường Thi đã làm nên Nguyệt Cầm cuả XD, chứ tôi chẳng thấy Baudelaire ẩn hiện trong đó chỉ vì nghệ thuật biểu tượng vả xúc giác. Vì nếu XD thực sự chịu ảnh hưởng Baudelaire, thì XD sẽ viết truyện thật ngắn bằng thơ luôn như Baudelaire trong Le Spleen de Paris, tác phẩm đã sáng lập nên phong trào thơ tự do, tức là thơ văn xuôi, poème en prose(theo tôi, cũng chính là mục đích “kể truyện bằng thơ” cuả Bạch Cư Dị, nếu nói về nội dung, thay vì hình thức). (Sau này trong Nam, Nguyên Sa đã khai triển thơ xuôi, nhưng không mang tính chất nhân bản tận cùng đến đáy vực cuả xã hội như Baudelaire hay Bạch Cư Dị).
Điểm thứ ba: Nguyệt Cầm cuả CT khởi đầu bằng Nguyệt Cầm cuả XD, nhưng không ngừng lại ở đó theo kiểu...Phạm Duy “phổ nhạc.”
Xin so sánh, từ XD qua đến CT, thì CT đã bước thêm một bước nữa. Bỏ xa XD dù CT lấy ý của XD. Một bước rất dài, và bước đến tận cùng của sự lãng mạn, romanticism, tức là một phong trào âm nhạc và thi ca bắt đầu từ Tây Phương, để cho con người ta được tự do sống và sáng tạo dựa trên cảm xúc.
Nguyệt Cầm của CT là ảnh hưởng trực tiếp của Tây Phương qua hình thức âm nhạc: Không "nửa vời" như bài thơ của XD còn đầy rẫy tính cách hoài cổ và sự vương vấn bến Tầm Dương của Bạch Cư Dị, và XD cũng vẫn nằm trong sự tuyệt đẹp cuả thể thơ bảy chữ tìm thấy ở Đỗ Mục cuả Trung Hoa, ở Lê Thánh Tông, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, qua đến buổi giao thời cuả Tú Xương, Tản Đà, v.v..., và tiếp tục đến thời điểm hiện đại cuả Việt Nam.
XD đã tự động cho người đẹp "chết," trong khi Bạch Cư Dị vẫn để cho người đẹp sống lúc chia tay.
Còn CT thì sao?
Trong bài hát, lời của CT, ông nói rằng không những "nương tử trong lời hát chết theo nước xanh," mà thi nhân (hay nhạc sĩ) cũng chết theo, cái chết vì trái tim vỡ,làm tôi phải nghĩ đến Trương Chi của Mị Nương trong truyền thuyết lãng mạn tính của VN thời thượng cổ. (Thưa vâng, theo tôi thì dân gian VN đã dựng phong trào “lãng mạn” ngay từ thời vua Hùng.)Lời ca và tiếng đàn cuả thời đã qua giết chết luôn thi nhân hay nhạc sĩ, vì tính chất "hoài cảm" của lãng mạn tính như một trái phá ngầm, đem thi nhân/nhạc sĩ quay về tức tưởi với điển tích cuả dĩ vãng, và bỏ lại xã hội hiện đại của ngày hôm nay.
Ôi đàn trăng cũ, làm vỡ hồn anh.
Trong bản nhạc Nguyệt Cầm, CT cho thi nhân bể tim tất cả ba lần, theo tiết chế cuà dòng nhạc. Có thể trong ba lần đó, hai lần chính là trái tim “bể” cuả nhạc sĩ hay thính giả (“lảm vỡ hồn ta,” thay vì “làm vỡ hồn anh” – “anh” ở đây, theo ngữ học VN, là nhân vật trong câu chuyện, trong khi “ta” có thể là cả hai nhân vật: ca nữ và thi nhân, hay có thể bao gồm cả khán thính giả nữa).
Nên chú ý: “ta” cũng có thể bao gồm lưôn cả một chủng tộc, một văn hóa: Đám Đông, người nghe.
Đó là cái chết tượng hình? Chết thật hay chết trong tâm tưởng mà thôi? Và ai là người mang trái tim bể nát (“ta” hay “anh”) trước cái chết cuả nghệ nhân/nghệ sĩ: nàng ca sĩ kém may mắn cuả Bạch Cư Dị?
Bản nhạc của CT đã đưa chúng ta đi đến tuyệt đỉnh của sự lãng mạn: ít nhất là hai cái chết cuả hai nhân vật khác nhau: rất bi thảm và bức xúc, cuồng động trong tĩnh lặng: nàng chết đuối theo “nước,” và chàng chết vì trái tim “vỡ” nát như bãi chiến trận đã xảy ra ngay trong thân thể của thi nhân/nhạc sĩ. Chữ “nước” lại có hai nghĩa: dòng nước, hay đất nước. Đồng thời, nghệ thuật dùng chữ “ta” cuả CT biến câu chuyện bên bến Tầm Dương nào đó trở thành tác động trên cả một văn hóa, một thời đại.
Trái tim vỡ tan như lưu ly, như tiếng đàn gõ xuống nước như hạt trai rơi, đó là hình ảnh và âm thanh vẽ ra bởi Bạch Cư Dị. Ở CT, lồng ngực vỡ tanmà không có tiếng súng cuả chiến trường.
(Nói chuyện ngồi lê đôi mách cuả sân khấu nhạc cổ điển thế giới, thì trong hậu bán thế kỷ hai mươi, ở phương Tây, vương hậu thế giới, nghệ sĩ không ngai Maria Callas cũng đã “bể nát traí tim” mà chết sau khi mất tiếng hát, giã từ sân khấu, và chịu không biết bao nhiêu tai tiếng vì tỷ phú Onassis cuả Hy Lạp và goá phụ phu nhân tổng thống Mỹ.)
“Đàn trăng cũ làm vỡ hồn ta,” “Đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh,” qua ngòi bút CT, không hề có trong thơ XD. Như thế, CT đâu có "phổ nhạc" thơ XD? Từ điểm lấy ý XD để quay lại với bến Tầm Dương của Bạch Cư Dị, và biến đàn tỳ bà của Tàu thành đàn nguyệt của VN, CT dùng Tây Phương, thủ thuật nhạc có "tông" từ Beethoven, để đi về phương Đông trong hình ảnh thơ Đường, rút cục chỉ để quay lại với cái chết trái tim bể nát như Trương Chi trong hình ảnh hoàn toàn thuần tính chất VN.
Trong thế giới âm nhạc cuả CT, "Anh" đây không còn là thi nhân của Bạch Cư Dị, hay Trương Chi của Mị Nương, mà chính là nhạc sĩ hay khán thính giả “lạc loài” với trái tim bể nát khi phải quay lại xót xa với kỷ niệm văn hóa, tượng trưng là “đàn trăng cũ,” quay về với hình ảnh ca nữ cuả Bạch Cư Dị đã trầm mình theo dòng nước, sau cuộc gặp gỡ giữa nàng với thi nhân/kẻ sĩ, hay đúng hơn, là Mị Nương đã chọn cái chết khi hình ảnh Trương Chi không thể là thực tại ???
Có phải chăng CT đã tiên cảm cảnh ngộ cô độc cuả tâm hồn nghệ sĩ ly hương sau biến cố 1975, khi tâm hồn nghệ sĩ ở đâu đó trên quả địa cầu, phải hồi tưởng về “cái gì còn lại cuả cái gì đã mất”???với trái tim tan nát (Đó là định nghĩa cuả “văn hoá” từ một tác giả phương Tây. Tôi nhớ mang máng rằng: Culture is what’s left after all has been lost, và tôi đã nói với cộng đồng Fulbright năm 2011 về định nghĩa này, khi nhìn về VN.)
Bến Tầm Dương cuả nương tử, cái gì còn lại cuả những gì đã mất, chính là vùng đất hứa cuả kỷ ức.
Như thế, thì không thể nào nói rằng CT "phổ thơ" XD được. CT đã viết lại thơ XD: CT cho thi nhân/nhạc sĩ chết đi theo nương tử trong tận cùng của lãng mạn tính (romanticism – phong trào căn bản cuả cuộc cách mạng âm nhạc Tây Phương, đến từ nỗi đau khổ tuyệt vọng cùng cực nhưng biến thành chiến thắng trước nhân loại, cuả thiên tài Beethoven).
Trong khoa học tâm linh parapsychology, linh hồn đang được công nhận là thực thể trường tồn, consciousness, đang được một số đại học y khoa Mỹ nghiên cứu, vậy mà trong trạng thái liên tưởng và sự đối díện với “đàn trăng cũ” cuả CT, thì linh hồn đã vỡ...
Cuộc hành trình cuả Nguyệt Cầm CT: Tất cả bắt đầu bằng tứ nhạc của Beethoven, và hình ảnh ca nữ bến Tầm Dương của Bạch Cư Dị, mượn cuả XD. Kết thúc bằng cái chết trái tim vỡ nát của Trương Chi, mà trong đó, Mỵ Nương đã “chết theo nước xanh” của con đò tình ái.
Con đò tình ái phải chăng cũng chỉ là con đò tình cảm, căn bản sáng tạo nghệ thuật, cuả nhân loại????
Khi biến Nguyệt Cầm của XD thành hai cái chết: chàng và nàng cùng chết, thì CT quả thật đã bước vào thế giới của Baudelaire: viết về cái chết. Morbidity. Trong thế giới cuả CT tạo ra, nhạc sĩ hay thi sĩ và đúng hơn nữa là kẻ sĩ, đã bể nát linh hồn khi cáí đẹp đã phải chết theo viễn ảnh cuả nghệ thuật, tức là “chết theo nước xanh.” Có còn nước xanh không hay bây giờ, chỉ toàn là “nước đục”? Và nghệ sĩ phải đối diện với “đàn trăng cũ” cuả một thế giới đã bỏ mất, đã bị thôn tính, bị tiêu diệt, không còn nữa trong thực tại. Khi phải đối diện với hồi tưởng về bi kịch cuả sự mất mát ấy, sự “diệt chủng” cuả chính mình, thì tráí tim sẽ phải bể nát...” Cuộc du hành tường niệm quá khứ – “A la recherche du temps perdu”(Marcel Proust) trong thế giới cuả CT chính là cái chết.
_____
Nói tóm lại:
Nguyệt Cầm XD: đi xa hơn Bạch Cư Dị bằng một cái chết, nữ nhân.
Nguyệt Cầm CT: đi xa hơn XD bằng hai cái chết, nữ chết vì nam, nam chết theo nữ???
Kết quả bi thảm nhất của tài năng bị đời bạc đãi.
Chỉ riêng Bạch Cư Dị, thi nhân/kẻ sĩ/trí thức bất đắc chí quay về bến Tầm Dương vì phủ phục theo mệnh lệnh của quân chủ, sự đầu hàng định mệnh cuả người quân tử Đông Phương, trung với quân tức là trung với nước, và nàng ca nhi đã phải lấy chồng lái buôn trong tuổi xế chiều để chấp nhận định mệnh -- chỉ có hai cá nhân ấy, của nhà tư tưởng Bạch Cư Dị, là sống sót mà thôi.
Sống hay chết, phải chăng, chỉ là hai mặt cuả một đồng kẽm nhỏ bé, lênh đênh, lạc loài, kẽm hay vàng ròng, bạc nén, rồi cũng chỉ xoay tròn ở Bến Tầm Dương, và rớt theo dòng nước cuả Tiền Đường, con sông định mệnh...(mệnh đề cuả Nguyễn Du)
DNN August 2-9, 2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét